2021
Xác minh Bí tích Giải tội bằng văn phạm Kinh thánh
Xác minh Bí tích Giải tội bằng văn phạm Kinh thánh
Những người Tin lành không thể phản đối cách hiểu của Công giáo về Bí tích Giải tội dựa trên nền tảng ngữ pháp trong Tin mừng Gioan
Domaine Public / Tổng lãnh Thiên thần Raphael và Tôbia
Gioan 20,23 là đoạn văn then chốt đối với những người Công giáo khi đưa ra bằng chứng Kinh thánh cho Bí tích Giải tội. Đoạn văn cho biết: “Nếu các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha; nếu các ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ”.
Có vẻ rõ ràng là một người Công giáo có thể lập luận rằng Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ thẩm quyền để tha tội.
Nhưng những người Tin lành không cho là vậy. Một số tranh luận rằng bản văn tiếng Hy Lạp cho thấy việc tha thứ hay cầm giữ tội lỗi là điều Thiên Chúa đã thực hiện trước khi các tông đồ tuyên bố như vậy. Todd Baker, một nhà biện giải Tin lành, trước kia là tín hữu Công giáo, đưa ra lập luận theo kiểu sau:
“Cụm từ ‘được tha’ và ‘bị cầm giữ’ mà Đức Giêsu đã nói được diễn đạt ở thì hoàn thành. Như vậy, câu này có thể hiểu theo nghĩa đen: ‘Nếu các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ đã được tha rồi; nếu các người cầm giữ tội ai, thì tội họ đã bị cầm giữ rồi’. Bất cứ ai quen thuộc với ngữ pháp Hy Lạp sẽ biết rằng thì hoàn thành thường diễn tả một hành động đã hoàn tất trong quá khứ cùng với những kết quả đang diễn ra. Do đó, sự tha thứ hay cầm giữ tội lỗi đã xảy ra trước khi các môn đồ được ban quyền để tuyên bố như vậy. Thì hoàn thành được sử dụng trong Gioan 20,23 nằm ở thể bị động và một lần nữa cho thấy Thiên Chúa đang hành động cách riêng lẻ, để tha thứ hoặc cầm giữ trên đối tượng chịu tác động. Đức Giêsu ban thẩm quyền cho môn đệ là để họ xác nhận hoặc phủ nhận tùy theo trường hợp, mà ở đó, Thiên Chúa đã định đoạt xong những kết quả cho mỗi hành động.
Đối với Baker, thì hoàn thành của các từ tiếng Hy Lạp, được chuyển dịch thành “được tha” (apheōntai) và “bị cầm giữ” (kekratēntai), ngụ ý một tình trạng bền vững, đã bắt đầu trước khi hành vi “tha thứ” và “cầm giữ” được thực hiện. Và Baker lập luận rằng điều này ngụ ý Thiên Chúa là Đấng tha thứ và cầm giữ, chứ không phải các tông đồ.
Chúng ta phải giải đáp như thế nào?
Đầu tiên, chúng ta cần chỉ ra rằng vấn đề không phải là liệu Thiên Chúa có phải là Đấng tha thứ hoặc cầm giữ hay không. Giáo hội Công giáo khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng tha thứ (và cầm giữ) trong Bí tích Giải tội (GLHTCG 1441). Ngài thực hiện điều này thông qua thừa tác vụ của các tông đồ (GLHTCG 1495).
Vấn đề thật sự ở đây là Thiên Chúa thực hiện việc này vào thời điểm nào?
Baker giả định rằng việc sử dụng thì hoàn thành ở vế thứ hai của một câu điều kiện – tức mệnh đề chính (“tội họ được tha”) – nhất thiết phải qui chiếu đến một hành động có trước so với vế thứ nhất của câu điều kiện – tức mệnh đề điều kiện (“Nếu các ngươi tha tội cho ai”). Đây là lý do ông ta giải thích bản văn này theo nghĩa các tông đồ chỉ đơn thuần tuyên bố điều mà Thiên Chúa đã thực hiện rồi.
Nhưng Baker đã đưa ra một giả định sai. Hãy xem xét điều mà cùng một tác giả là Gioan đã nói trong thư 1Gioan 2,5: “Còn ai giữ lời Ngài, thì quả thật nơi người ấy tình yêu Thiên Chúa được nên trọn” [Hy Lạp: teteleiōtai – bị động hoàn thành].
Câu này sử dụng cùng một cấu trúc như Gioan 20,23:
Mệnh đề điều kiện | Mệnh đề chính | |
Ga 20,23 | “Nếu các ngươi tha tội cho ai” | “thì tội họ được tha [bị động hoàn thành]” |
1Ga 2,5 | “Còn ai giữ lời Ngài” | “thì quả thật nơi người ấy tình yêu Thiên Chúa được nên trọn [bị động hoàn thành]” |
Trong 1Gioan 2,5, thánh Gioan sử dụng teteleiōtai ở thì hoàn thành trong mệnh đề chính, tuy nhiên sự nên trọn không được hoàn thành trước khi tuân giữ lời Đức Kitô, như nguyên tắc ngữ pháp của Baker đòi hỏi, nhưng đồng thời với việc tuân giữ lời Đức Kitô. Thật rõ ràng, cách đặt câu của thánh Gioan ngụ ý rằng hành động xảy ra khi điều kiện nêu trong mệnh đề điều kiện được thực hiện.
Dưới đây là một số các đoạn văn khác, theo đó, hành động ở thì hoàn thành trong mệnh đề chính không xảy ra trước nhưng đồng thời với việc thực hiện mệnh đề điều kiện:
- Giacôbê 2,10: “Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì trở thành[Hy lạp: gegonen – chủ động hoàn thành] có tội về hết mọi điểm”. Việc mắc tội xảy ra vào thời điểm sa ngã về một điểm của lề luật.
- Rôma 7,2: “Phụ nữ có chồng thì luật buộc phải theo chồng bao lâu chồng còn sống; nhưng nếu chồng cô qua đời thì cô được tháo cởi[Hy Lạp: katērgētai– bị động hoàn thành] khỏi sự ràng buộc theo luật đối với người chồng”. Sự tháo cởi khỏi luật trở nên hiện thực vào lúc chồng của người phụ nữ qua đời.
- Rôma 13,8: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, trừ phi là yêu mến nhau; vì ai yêu mến anh em mình thì người ấy giữ trọn[Hy Lạp: peplērōken– chủ động hoàn thành] lề luật”. Lề luật được giữ trọn khi một người yêu mến anh em mình.
- Rôma 14,23: “Ai hồ nghi mà cứ ăn thì người đó bị kết án[Hy Lạp: katakekritai – bị động hoàn thành]”. Sự kết án nẩy sinh hiệu lực khi sự hồ nghi xuất hiện.
Theo sự soi dẫn của những đoạn văn này, chúng ta có thể kết luận vấn đề bằng những lời của Henry J. Cadbury, một cố học giả Kinh thánh người Mỹ: “Người ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng hành vi hay tình trạng được ngụ ý bằng thì hoàn thành [ở mệnh đề chính] không nhất thiết có trước so với mệnh đề kia [mệnh đề điều kiện] (Tạp chí Văn chương Kinh thánh, tập 58, số 3).
Như thế, nguyên tắc ngữ pháp của Baker hoàn toàn không đứng vững khi đối chiếu với những đoạn văn tương đồng.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tiến xa hơn nữa trong việc bảo vệ cách hiểu của Công giáo. Những nơi khác trong Kinh thánh, từ Hy Lạp aphiēmi, dịch thành “được tha”, được dùng ở thì hoàn thành và hàm nghĩa rằng các tội lỗi được tha thứ căn cứ trên hành động của người được tha tội. Chẳng hạn, hãy xem xét Luca 5,20.23, ở đó, Đức Giêsu tha tội của người bại liệt: “Thấy họ có lòng tin như vậy, Ngài bảo: ‘Này anh, tội anh được tha [Hy Lạp: apheōntai – bị động hoàn thành] cho anh’… Nói ‘Tội anh được tha [Hy Lạp: apheōntai – bị động hoàn thành] cho anh’, hay nói ‘Hãy chỗi dậy mà đi’, điều nào dễ hơn?”.
Một ví dụ khác là Luca 7,47. Đức Giêsu tha tội cho người phụ nữ đã xức dầu cho Ngài tại nhà ông Simon người Biệt phái: “Vì thế tôi bảo với các ông, tội của chị rất nhiều, nhưng được tha [Hy Lạp: apheōntai – bị động hoàn thành], vì chị đã yêu mến nhiều”.
Luca không có ý định dùng thì hoàn thành của aphiēmi trong những đoạn văn này để tách biệt sự tha thứ tội lỗi ra khỏi lời tuyên bố của Đức Giêsu tại hiện trường. Đúng hơn, Luca, giống như những người chứng kiến, đã hiểu những lời của Đức Giêsu như là một sự tuyên bố để tha tội ngay tại thời điểm Ngài nói rằng những tội ấy được tha.
Hãy xem xét điều Luca ghi lại trong cả hai bản văn ngay sau những tuyên bố của Đức Giêsu:
- Luca 5,21: “Các ký lục và Biệt phái mới suy tính rằng: ‘Người này là ai mà nói những lời phạm thượng như thế? Ai có thể tha tội ngoài một mình Thiên Chúa?’”.
- Luca 7,49: “Bấy giờ những kẻ đồng bàn mới nghĩ bụng: ‘Người này là ai mà lại tha được tội?’”.
Nếu chúng ta không hề có ý định phân tách sự tha tội ra khỏi hành động tha tội của Đức Giêsu bởi thì hoàn thành của từ aphiēmi trong những đoạn văn của Tin mừng Luca kể trên, vậy thì chúng ta cũng không thể làm điều tương tự đối với các tông đồ trong Gioan 20,23. Như Cadbury viết: “Có phải chúng ta sẽ chấp nhận “chức tư tế” đối với Đức Giêsu dựa theo từ apheōntai trong Luca, rồi lại bác bỏ tư cách này đối với các tông đồ dựa theo chính từ này trong Gioan? Xét các trường hợp này theo cùng một cách không phải là điều phù hợp hơn hay sao? (Tạp chí Văn chương Kinh thánh, tập 58, số 3).
Đối với Baker, phủ nhận đặc quyền tha tội của các tông đồ dựa vào việc Gioan sử dụng thì hoàn thành của từ aphiēmi nhưng lại chấp nhận đặc quyền ấy của Đức Giêsu khi cũng cùng một từ và một thì được Luca sử dụng là điều tùy tiện. Cũng là một sai lầm khi ông ta để mặc những niềm tin mang tính định kiến của mình khi bước vào ngưỡng cửa của khoa chú giải Kinh thánh.
Tóm lại, việc Gioan sử dụng thì hoàn thành của aphiēmi trong Gioan 20,23 không có khả năng hủy đi những tuyên bố theo Công giáo về sự ủng hộ của Kinh thánh dành cho Bí tích Giải tội. Nếu một người Tin lành muốn phản đối một cách đọc như thế, họ cần dựa trên những căn cứ khác. Và khó có thể thực hiện điều này vì bối cảnh cho thấy Đức Giêsu trao quyền hợp pháp cho các môn đệ để họ thi hành điều Ngài truyền dạy: “Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Hãy lãnh nhận Thánh Thần. Nếu các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha; nếu các ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ’” (Ga 20,22-23).
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2021
Ủy Ban Phụng Tự: Về cử hành Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân và Nghi Thức An Táng trong hoàn cảnh dịch bệnh
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
ỦY BAN PHỤNG TỰ
Ngày 29 tháng 8 năm 2021
VỀ CỬ HÀNH BÍ TÍCH
XỨC DẦU BỆNH NHÂN VÀ NGHI THỨC AN TÁNG
TRONG HOÀN CẢNH DỊCH BỆNH
Ủy Ban Phụng Tự đã nhận được những câu hỏi của một số linh mục, tu sĩ và thiện nguyện viên muốn giúp đỡ phần thiêng liêng cho các bệnh nhân Công giáo trong hoàn cảnh đại dịch COVID-19 hiện nay, chúng tôi xin trình bày những điều có thể thực hiện không chỉ trong lĩnh vực phụng vụ, nhưng bao hàm cả nội dung của việc đồng hành thiêng liêng với các bệnh nhân.
1) Khi một tín hữu nhiễm bệnh truyền nhiễm (như COVID-19) và phải nhập viện hoặc cấp cứu mà không kịp nhận lãnh các bí tích hoà giải và xức dầu bệnh nhân cần phải làm gì để dọn mình chết lành?
2) Khi chăm sóc bệnh nhân đang hấp hối (hoặc được dự đoán sẽ tử vong) mà không có linh mục thì có thể làm gì để giúp bệnh nhân về phần thiêng liêng?
3) Khi một bệnh nhân COVID-19 đã qua đời trong bệnh viện mà không có người thân bên cạnh, cũng không thể mời thừa tác viên có chức thánh (phó tế, linh mục, giám mục) đến cử hành các nghi thức thì sao?
Vấn đề được đặt ra liên quan đến 3 việc:
– Dọn mình chết lành
– Cử hành và lãnh nhận các bí tích sau hết
– Cử hành nghi thức An táng
- Dọn mình chết lành
Các tín hữu vẫn được nhắc nhở phải luôn tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa vào bất cứ lúc nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, các bệnh nhân, đặc biệt những người đã nhiễm COVID-19, càng cần đến sự ý thức nơi chính bản thân, sự nâng đỡ của Hội Thánh và anh chị em trong việc chuẩn bị cho giây phút đến trước tòa Chúa.
Thuật ngữ “dọn mình chết lành” chính là lời nhắc nhở các bệnh nhân về ý hướng chủ yếu trong tâm tình cầu nguyện và thái độ sẵn sàng của những người tin vào sự sống vĩnh cửu đời sau. Vì thế, nếu không gặp được linh mục để lãnh Bí tích Hòa giải thì:
– Bản thân người tín hữu:
+ thành tâm ăn năn tội cách trọn, sau khi xét mình, nhớ lại các tội đã phạm, nhất là những tội chưa được xưng thú qua Bí tích Hòa giải. Tuy nhiên, phải tránh tâm trạng bối rối, ngã lòng, vì không có tội nào mà Chúa không tha thứ khi chúng ta thành tâm xin lỗi Chúa.
Có thể đọc lời kinh sau đây hoặc tương tự:
“Lạy Chúa, con thành tâm thống hối vì đã phạm tội phản nghịch cùng Chúa. Con chê ghét các tội lỗi đã phạm, con đau buồn vì đã xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của con, Đấng đầy lòng tốt lành và là Đấng con phải luôn trọn tình yêu mến. Amen.”
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Nếu bạn làm những điều đó, bạn sẽ trở về ngay với ơn của Chúa. “Chính bạn có thể nhận được ơn tha thứ của Chúa khi không thể gặp được linh mục. Hãy nhớ: “Đây là lúc”, và ngay chính lúc này, việc Ăn Năn Tội Cách Trọn, được thực hiện với lòng thành, sẽ làm tâm hồn chúng ta trở nên trắng như tuyết.” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng Thánh lễ Thứ Sáu tuần 3 Mùa Chay, 20.3.2020)
+ rước Chúa cách thiêng liêng, khi nhớ đến Chúa vào bất cứ lúc nào trong ngày.
Có thể dùng lời kinh sau đây hoặc tương tự:
“Lạy Đức Chúa Giêsu, con tin thật Chúa ngự trong Bí Tích Mình Thánh. Con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, cùng ước ao rước Chúa vào linh hồn con. Nhưng, bởi vì bây giờ con không thể rước Chúa được, thì xin Chúa ngự vào linh hồn con cách thiêng liêng, chẳng khác gì như con được rước Chúa thật. Con xin đón rước Chúa, cùng kết hợp làm một với Chúa cho trọn. Xin Chúa đừng để con lìa bỏ Chúa bao giờ. Amen.”
– Người thân trong gia đình hoặc thiện nguyện viên đang giúp đỡ bệnh nhân: an ủi, cùng cầu nguyện, gợi ý và thông hiệp trong tâm tình thống hối, rước Chúa cách thiêng liêng, lãnh ơn Toàn xá …
Theo hướng dẫn của Tòa Ân giải (văn thư ngày 20.3.2020) có những ân xá đặc biệt trong đại dịch:
Để giúp các bệnh nhân COVID-19, những người đang thực sự sống trong mầu nhiệm đau khổ, có thể nhận ra một lần nữa “cuộc khổ nạn sinh ơn cứu độ của Đức Kitô” (Salvifici Doloris, 30), Tòa Ân giải, do thẩm quyền Tông Tòa, tin tưởng vào lời Chúa Kitô và nhận định trong tinh thần đức tin đối với đại dịch hiện nay, được sống thời điểm này trong tâm tình thống hối cá nhân, nay thuận ban các ân xá theo những quy định sau đây.
Các tín hữu đã [nhiễm COVID-19], những người đang bị cách ly trong các bệnh viện hay tại tư gia theo quyết định của thẩm quyền y tế, được lãnh ơn Toàn xá khi quyết tâm từ bỏ tội lỗi và hợp ý qua các phương tiện truyền thông để tham dự cử hành Thánh Lễ, đọc kinh Mân Côi, ngắm đàng Thánh Giá hay những thực hành đạo đức khác, hoặc ít là đọc một kinh Tin kính, một kinh Lạy Cha và một lời khẩn cầu với Đức Trinh Nữ Maria, dâng cơn đau bệnh trong tinh thần đức tin hướng về Chúa và đức ái hướng đến anh chị em tha nhân, với ý định sẽ chu toàn sớm hết sức có thể những điều kiện thông thường để lãnh ân xá (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng) ngay sau khi khỏi bệnh.
Ơn Toàn xá cũng được ban theo những điều kiện nói trên, cho các nhân viên y tế, người nhà của bệnh nhân và tất cả những ai, theo gương người xứ Samaria nhân hậu, tự nguyện chấp nhận nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh, đang chăm sóc cho những bệnh nhân COVID-19, như lời Chúa đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15, 13).
Trong cơn đại dịch toàn cầu hiện nay, Tòa Ân giải cũng sẵn lòng ban ơn Toàn xá theo những điều kiện nói trên, cho các tín hữu dâng những giờ viếng, giờ chầu Thánh Thể, đọc Thánh Kinh ít là trong 30 phút, đọc kinh Mân Côi, ngắm đàng Thánh Giá, lần chuỗi kính Lòng Chúa Thương Xót, để khẩn cầu Thiên Chúa Toàn năng chấm dứt đại dịch này, nâng đỡ những người nhiễm bệnh và ban ơn cứu rỗi muôn đời cho những kẻ đã được Chúa gọi về bên Chúa.
Hội Thánh cầu nguyện cho những ai không thể lãnh nhận Bí tích Xức dầu bệnh nhân và rước Của Ăn đàng, trong mầu nhiệm các thánh thông công, Hội Thánh phó dâng tất cả và từng người cho lòng Chúa Thương xót, đồng thời ban ơn Toàn xá cho các tín hữu trong giờ lâm tử, miễn là những người ấy đã chuẩn bị tâm hồn cách thích đáng và đã đọc một ít kinh nguyện khi còn sống (trong trường hợp này Hội Thánh sẽ bù đắp cho ba điều kiện thông thường để lãnh nhận ân xá). Cần lãnh nhận ân xá này trước tượng Chúa chịu đóng đinh hoặc Thánh Giá (x. Enchiridion indulgentiarum, số 12).
- Cử hành và lãnh nhận bí tích Hòa giải, Thánh Thể và Xức dầu bệnh nhân
Các linh mục thực hành theo văn thư hướng dẫn của Tòa Ân giải (19.3.2020).
“Nếu bất ngờ xảy ra nhu cầu phải ban bí tích tha tội cho nhiều tín hữu cùng lúc, linh mục buộc phải báo trước cho giám mục giáo phận ngay khi có thể hoặc, nếu không thể, phải báo lại cho ngài càng sớm càng tốt (x. Ordo Paenitentiae, 32).
Do đó, trong tình trạng khẩn cấp của đại dịch hiện nay, giám mục giáo phận có bổn phận chỉ dẫn các linh mục và hối nhân những điều cần lưu tâm và áp dụng cách thận trọng khi cử hành Bí tích Hoà giải cá nhân, chẳng hạn như có thể cử hành ở một nơi thông thoáng bên ngoài tòa giải tội, giữ khoảng cách phù hợp, sử dụng khẩu trang bảo vệ, miễn là không làm phương hại đến mối quan tâm bảo vệ tuyệt đối ấn tín toà giải tội và sự kín đáo cần thiết.
Hơn nữa, trong từng địa giới liên quan đến mức độ ảnh hưởng dịch bệnh, các giám mục giáo phận luôn có thẩm quyền và bổn phận xác định các trường hợp khẩn thiết nghiêm trọng nào được giải tội tập thể cách hợp pháp: ví dụ, khi các tín hữu nhập viện vì nhiễm bệnh với nguy cơ tử vong, cho phép sử dụng các phương tiện âm thanh (hoặc tăng âm) thích hợp để (các) hối nhân có thể nghe được lời xá giải.
Khi cần thiết, cần thỏa thuận với các cơ quan y tế, xem xét đến nhu cầu và phương thức thích hợp để thành lập các nhóm “tuyên uý bệnh viện ngoại thường”, để bảo đảm việc trợ giúp thiêng liêng cần thiết cho người bệnh và người hấp hối. Cũng lưu ý đến nguyên tắc tự nguyện và tuân thủ các quy tắc đề phòng lây nhiễm.
Trường hợp cá nhân tín hữu thấy mình trong cơn đau đớn không thể lãnh Bí tích Hòa giải, thì nên nhớ rằng khi ăn năn tội cách trọn, vì yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thể hiện bằng lời chân thành xin ơn tha thứ (mà hiện tại hối nhân có thể bày tỏ) cùng với lòng ước ao xưng tội [votum confessionis], nghĩa là quyết tâm đi xưng tội, càng sớm càng tốt, thì đã được tha tội, kể cả tội trọng (x. GLHTCG, 1452).”
- Cử hành nghi thức An táng
– Nếu không có linh mục và phó tế, giáo dân có thể chủ sự các nghi thức, tại nhà tang và nghĩa trang, như canh thức cầu nguyện cho người quá cố, nhập quan, từ biệt (xem Nghi thức An táng, Những điều cần biết trước, số 19)
– Khi nhận tin báo tử, gia đình và cộng đoàn tín hữu, với lời kêu gọi của vị mục tử trong giáo xứ, dù không có thi hài người vừa qua đời, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ tang gia, thể hiện tình bác ái liên đới chân thành và thiết thực.
Tất cả chúng ta tiếp tục cậy nhờ lời chuyển cầu của Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ những người trong cơn nguy tử, của Mẹ Maria là Đấng cứu kẻ liệt kẻ khốn, bàu chữa kẻ có tội, an ủi kẻ âu lo, dâng lên Chúa Giêsu, vị lương y đầy quyền năng và giàu lòng thương xót, những lời khẩn cầu tha thiết trong cơn đại nạn.
+Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn
Giám mục Giáo phận Bà Rịa,
Chủ tịch Ủy ban Phụng tự
2021
Mười điều răn được phân chia như thế nào
Mười điều răn được phân chia như thế nào
Bản văn ghi lại mười điều răn mà chúng ta đọc trong Kinh thánh không được trình bày theo kiểu đánh số… vậy phải phân chia nó như thế nào cho hợp lý nhất?
Chúng ta đọc thấy trong Thánh vịnh 32 (33) như sau: “Hãy tạ ơn Người, họa với tiếng cầm, hãy đàn ca Người, hòa theo tiếng sắt thập huyền” (Tv 32,2). Bạn đã bao giờ hát đối đáp từng câu của mười điều răn? Trong phụng vụ của Giáo phận Anh giáo được Tòa thánh phê chuẩn, mười điều răn thỉnh thoảng được công bố lúc bắt đầu Thánh lễ theo thể thức kinh cầu. Vị linh mục xướng: “Thiên Chúa truyền dạy những lời này và phán…”, rồi ngài thuật lại từng điều một. Sau mỗi điều, ca đoàn và cộng đoàn hát lên: “Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót trên chúng con, và hướng lòng chúng con tuân giữ lề luật này”.
Tôi lớn lên cùng với thực hành này hàng tháng, và việc Giáo hội kết hợp nó vào trong phụng vụ chính thức thật là một điều vừa thú vị vừa có đôi chút lạ lẫm – hơi lạ bởi vì cách phân chia mười điều răn theo Anh giáo khác với lễ nghi Latinh truyền thống của Công giáo. Hai cách phân chia khác nhau ra sao và lý do của chuyện này là gì? Chúng ta sẽ bàn thêm sau.
Tuy nhiên thập huyền cầm nhắc nhớ chúng ta, tất cả các dây của chúng đều dùng để ca ngợi Thiên Chúa. Thánh Augustinô chọn câu thánh vịnh trích ở trên và xem nó là dịp để giảng dạy về mười điều răn. Ở nơi khác, trong những chú giải tuyệt vời của ngài về các thánh vịnh (loạt bài giảng đầu tiên tại Hippo), ngài khuyên bảo chúng ta rằng, chúng ta sẽ là lời ngợi ca sống động dâng Thiên Chúa nếu chúng ta sống tốt lành. Do đó, không đáng ngạc nhiên khi ngài lấy hình tượng của chiếc thập huyền cầm làm biểu tượng cho một đời sống công chính – cụ thể là sống theo mười điều răn. Một đời sống tương hợp với các giới răn chính là một bài ca ngợi khen ngân lên gấp mười lề luật.
Nhưng Lề luật chỉ có hai điều trước khi trở thành mười. Như Đấng Cứu độ đã dạy, nó được tóm lại thành “điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất”: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”, và điều thứ hai cũng “giống với” điều trước: “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Vì lẽ này, thánh Augustinô dạy chúng ta rằng tấm bia Lề luật thứ nhất của Môsê liên quan đến tình yêu Thiên Chúa, còn tấm thứ hai liên quan đến tình yêu người thân cận. Như vậy, có ba điều luật trên một tấm bia và bảy điều luật trên tấm còn lại. Cũng giống như tấm bia đầu tiên bắt đầu với cội nguồn sự tồn tại của chúng ta là Thiên Chúa Cha, rồi sau đó hướng đến các Ngôi vị Thần linh ở điều thứ hai và ba, thì tấm thứ hai gồm bảy điều, cũng bắt đầu với cội nguồn của đời sống trần thế và những người gần gũi chúng ta nhất là các bậc cha mẹ, rồi sau đó tiến tới những mối tương quan và các khía cạnh khác của đời sống mà qua đó chúng ta thể hiện tình yêu người thân cận của mình; chúng gộp lại thành mười điều.
Sự phân chia này luôn được Giáo hội Tây phương sử dụng. Có sự thống nhất trong cách phân chia giữa những người Công giáo Rôma và những người thuộc phái Luther, những người ủng hộ cách sắp xếp của thánh Augustinô. Còn trong Giáo hội Đông phương cũng như tất cả người Do Thái và các tín đồ Tin lành trừ phái Luther, họ cũng dùng mười điều răn nhưng phân chia chúng thành năm điều cho mỗi bảng mà không qui chiếu đến trật tự dựa trên việc tóm kết các điều răn theo đức ái. Dĩ nhiên truyền thống nào cũng đáng quí.
Giáo lý Hội thánh Công giáo cho chúng ta biết chính xác điều mà tôi vừa trình bày:
“Việc phân chia và đánh số các điều răn có thay đổi theo dòng lịch sử. Quyển Giáo Lý này theo cách phân chia của thánh Augustinô đã trở thành truyền thống trong Hội Thánh Công Giáo. Các giáo phái Luther cũng theo cách phân chia này. Các giáo phụ Hy Lạp phân chia hơi khác; cách chia này còn gặp thấy trong Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn Cải Cách.
Mười Điều Răn nêu ra các đòi hỏi của tình mến Chúa yêu người. Ba điều răn đầu đề cập đến tình yêu đối với Thiên Chúa, và bảy điều sau, đến tình yêu đối với tha nhân.
‘Như Chúa đã đúc kết tất cả lề luật và các tiên tri vào trong hai giới răn yêu mến…; Mười Điều Răn cũng được chia thành hai bảng. Ba điều khắc trên một bảng, và bảy điều trên bảng kia’” (GLHTCG 2066-2067).
Vì thế, hoàn toàn sai lầm khi tuyên bố rằng sự phân chia điều răn thứ nhất thành hai điều là một biến thể của đạo Tin lành nhằm phản đối việc tôn kính ảnh tượng của Công giáo, khi dành điều răn thứ hai riêng biệt để chống lại việc thờ các ngẫu tượng. Không phải vậy, các giáo phụ Đông phương, những người dạy phải tôn kính các ảnh tượng thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả các giáo phụ Tây phương, giải thích việc đánh số này như là sự cấm đoán các ảnh tượng trong phụng tự, nhưng chỉ cấm các ảnh tượng ngụy thần; còn Thiên Chúa thật, các thiên thần và các thánh của Người không phải là ngẫu tượng. Và cuối cùng, bất kỳ ai viếng thăm một nhà thờ Tin lành thuộc bất kỳ chi phái nào ngày nay, chí ít sẽ thấy ở đây một số ảnh tượng của Đức Giêsu, các tông đồ hay Thánh gia thất. Nếu bạn thăm một nhà thờ thuộc phái Luther ở Đức, bạn luôn luôn thấy thánh giá trên bàn thờ, các họa tiết của bàn thờ với hình ảnh của Đức Mẹ và Hài nhi, và cả một số các vị thánh không xuất hiện trong Kinh thánh. Quả thật, điều răn thứ hai theo cách đánh số Công giáo, truyền phải tôn kính Thánh danh, dạy chúng ta tôn kính một dấu chỉ, một biểu tượng, một ý niệm khả thính, vì cũng như một bức tranh, một từ ngữ đại diện cho đối tượng mà nó định danh. Về mặt này, có một sự khác biệt nhỏ giữa một từ ngữ và một bức tranh. Và đáng buồn là theo kinh nghiệm của tôi, những người Tin lành mộ đạo hiếm khi kêu danh Đức Chúa cách vô cớ hơn những người Công giáo mộ đạo! Như vậy, họ cũng tôn kính các ảnh tượng, và đôi khi làm điều đó tốt hơn cả chúng ta.
Việc đánh số các điều răn theo một trong những cách đó được các giáo sư kinh viện thời Trung cổ gọi là một sự “phân biệt mà không khác biệt”. Bản văn mười điều răn chúng ta thấy trong Kinh thánh không hề xuất hiện theo kiểu liệt kê, và Đệ nhị luật cho chúng ta biết rằng có mười điều răn trên hai bia đá của Môsê, và do đó, chúng ta phân chia chúng theo thói quen, nhưng tất cả chúng ta đều dùng chung một bản văn.
Qua những gì đã trình bày, tôi cho phép mình nói rằng cách phân chia của thánh Augustinô tốt hơn về mặt huấn giáo. Nó đồng thời dạy về mười điều răn và về bản chất của chúng căn cứ trên điều răn yêu thương, là điều răn gồm hai phần, có nguồn gốc từ sự sáng tạo và sinh sản; và như thế, cách phân chia này giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của mười điều răn.
Trên thực tế, Đấng Cứu độ chúng ta đã đơn giản hóa hơn nữa, bằng cách ban cho chúng ta một điều răn mới và duy nhất: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”. Nếu chúng ta giữ trọn được điều duy nhất này, chúng ta sẽ giữ trọn được hai điều và cả mười điều, bất kể chúng được phân chia ra sao. Khi đó, việc thực thi mười điều răn sẽ không chỉ là một bài thánh vịnh; nó sẽ trở thành một bản tình ca! Và Diễm ca sẽ là Xuất hành và Đệ nhị luật mới của chúng ta…
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2021
Linh mục hãy thôi lạm dụng bài giảng
Tác giả: Đức TGM Socrates b. Villegas, OP.
Chuyển ngữ: Lm. Tiến Hưng, OP.
Từ: rappler.com
Đây là bài giảng trong Thánh lễ Dầu, sáng Thứ Năm Tuần thánh (01.4.2021) của Đức Tổng Giám mục Socrates b. Villegas, OP. tại nhà thờ Thánh Gioan Tông đồ, thành phố Dagupan, tổng Giáo phận Lingayen-Dagupan, Philippines.
* * *
Hôm nay, chúng ta lại bước vào một hành trình thiêng liêng tiến vào Phòng Tiệc Ly để nhớ lại thiên chức linh mục của mình. Một lần nữa chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã kêu gọi mình làm linh mục. Đức Giêsu đã làm một cuộc mạo hiểm. Người đã trao phó Giáo hội của Người cho các linh mục. Càng sống lâu trong ơn gọi này, chúng ta càng thấy rõ ràng, chúng ta cần nhiều sức mạnh hơn là ý chí để có thể sống thiên chức linh mục. Điều đó cũng có nghĩa là, chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta cần Người. Chúng ta cần Chúa luôn dõi mắt nhìn. Chúng ta cần Chúa đồng hành. Chúng ta cần Chúa luôn bảo vệ và gìn giữ chúng ta.
Chúng ta đã từng chứng kiến cách linh mục lạm dụng, từ việc lạm dụng rượu bia, tình dục, trẻ em, cờ bạc, tiền của, lạm dụng đi du lịch và các kỳ nghỉ. Hôm nay, tôi mời mọi người cùng suy ngẫm về một sự lạm dụng rất phổ biến khác vốn đang lan tràn trong hàng ngũ linh mục, đó là lạm dụng bài giảng. Vâng, đó là lạm dụng lòng tốt của dân Chúa, buộc họ phải nghe những bài giảng dài dòng, loanh quanh, miên man, nhàm chán, không đầu không đuôi, thiếu chuẩn bị. Nghe như đùa, nhưng đó là sự thật, dân Chúa nói bài giảng của chúng ta là những đòn tra tấn mà họ cực chẳng đã phải chịu mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật.
Nếu quý cha lắng nghe cẩn thận hơn những điều dân chúng phàn nàn về bài giảng của mình thì sẽ thấy, họ không đòi hỏi sứ điệp của bài giảng phải thật sâu sắc hay những câu chú giải hàn lâm. Nhưng thực tế là họ đang phải chịu đựng hết Chúa nhật này đến Chúa nhật khác những bài giảng khó hiểu, vì chúng ta dẫn nhập lòng vòng nhưng sau đó chẳng thể đi thẳng vào vấn đề chính, rồi sau đó cũng lại chẳng biết phải kết thúc thế nào. Hãy chuẩn bị bài giảng, nói rõ ràng, tập trung vào sứ điệp của Tin Mừng.
Khi còn là chủng sinh, chúng ta thường phàn nàn về các bài giảng của các linh mục cao niên. Nhưng đến lượt mình, chúng ta lại làm điều tương tự.
Nếu một chủng sinh không sống khiết tịnh, chúng ta không thể giới thiệu người ấy chịu chức. Nếu một chủng sinh cứng đầu và khó sửa đổi, chúng ta không đồng ý cho người ấy thụ phong. Thì cũng vậy, nếu một chủng sinh không thể giảng giải rõ ràng và hiệu quả trước công chúng, chúng ta không nên truyền chức cho họ. Họ sẽ trở thành người lạm dụng bài giảng ghê gớm. Lạm dụng bài giảng có thể gây hại cho các linh hồn.
Những bài giảng dài dòng, loanh quanh, lặp đi lặp lại, miên man, không chuẩn bị trước là dấu hiệu cho thấy đời sống thiêng liêng èo uột của linh mục. Thánh Giuse Cupertino đã nói: “Người giảng thuyết cũng giống như chiếc kèn đồng vô tri, trừ khi được ai đó thổi vào. Vậy, trước khi giảng, hãy cầu nguyện thế này: Lạy Chúa, Chúa là thần khí, con là chiếc kèn của Chúa. Không có thần khí Chúa, con không thể phát ra âm thanh nào.”
Việc chúng ta chỉ chuẩn bị bài giảng thôi thì chưa đủ; người linh mục tốt lành phải chuẩn bị tâm hồn mình nữa. Giảng thuyết là công việc của tâm hồn và trái tim, đó không chỉ là tập hợp những lời lẽ hùng hồn và triết lý. Đời sống thiêng liêng của chúng ta là nền tảng vững chắc cho các bài giảng thuyết. Vấn đề không phải là chúng ta sẽ giảng cái gì nhưng là chúng ta sẽ giảng về ai? Chúng ta giảng về Đức Giêsu Kitô; và chỉ mình Đức Giêsu Kitô mà thôi.
Vậy, làm sao chúng ta sẽ vượt lên khỏi tình trạng lạm dụng bài giảng đang phổ biến hiện nay? Chúng ta khắc phục bằng cách nào?
Thách đố thứ nhất trong thời đại chúng ta là linh mục phải chân thành và chính trực. Cha xứ chỉ có thể giảng cho những người đang đói nếu bụng của cha xứ cũng đang đói cồn cào như chính giáo dân của mình. Bài giảng của chúng ta sẽ trở nên tốt hơn nếu chúng ta giảm bớt thói huyên thuyên, nhưng chú tâm lắng nghe. Khi bài giảng của chúng ta chỉ như một bài nói chuyện, nghĩa là chúng ta chỉ lặp lại điều mình biết, nó sẽ rất mệt mỏi và sáo rỗng. Nếu chúng ta lắng nghe và cầu nguyện trước khi giảng, chúng ta học được nhiều điều mới mẻ và bài giảng của chúng ta sẽ trở nên khởi sắc và tươi mới hơn. Chúng ta sẽ giảng hay hơn nếu chúng ta dám “mang lấy mùi chiên.”
Thách đố thứ hai của thời đại chúng ta là sự giản dị – giản dị trong lời giảng, và hơn thế nữa, giản dị trong đời sống. Khi sống giản dị chúng ta cũng sẽ bớt nói về tiền bạc và việc quyên góp trong bài giảng; giảng về tiền bạc không bao giờ soi sáng được ai. Giản dị cũng có nghĩa là không sử dụng tòa giảng như một phương tiện để trả đũa những người đối kháng với mình. Giản dị cũng ngăn cản chúng ta đưa chuyện bầu bán chính trị ồn ào lên tòa giảng. Giản dị trong bài giảng cũng có nghĩa là đừng cố làm cho người nghe phải cười hay khóc – đó là việc của các diễn viên truyền hình giải trí. Sự giản dị trong bài giảng khiến người nghe phải cúi đầu, đấm ngực và thành tâm hoán cải, tìm đến với lòng thương xót của Thiên Chúa. Trở nên giản đơn cũng là trở nên tuyệt vời trong ánh mắt Thiên Chúa. Lối sống giản dị của các linh mục chính là bài giảng dễ hiểu nhất.
Thách đố thứ ba là không ngừng học hỏi. Đọc sách và nghiên cứu phải được tiếp tục sau khi đã chịu chức linh mục. Nếu chúng ta ngừng đọc sách và nghiên cứu, chúng ta sẽ làm tổn hại linh hồn của giáo dân. Nếu ngừng học hỏi, là chúng ta bắt đầu thúc ép người khác đọc cái gọi là cuốn sách cuộc đời chúng ta – một cuốn truyện khôi hài, không cảm hứng, hết sức lố bịch và tai tiếng khủng khiếp. Khi đó bài giảng trở thành câu chuyện đời chúng ta chứ không phải câu chuyện về Đức Giêsu. Tuy nhiên, dành quá nhiều thời gian để đọc sổ chi tiêu cũng không phải là cách để chuẩn bị bài giảng.
Hãy thận trọng trong lối sống của mình. Mọi người sẽ nhìn xem cách chúng ta sống hơn là nghe chúng ta giảng. Hãy chân thành và chính trực. Một lối sống hai mặt, mặt tối của đời sống thật chẳng ra làm sao.
Hãy thận trọng trong mọi bài giảng. Thiên Chúa sẽ phán xét mọi lời các linh mục thốt ra. Hãy tin những gì mình đọc. Hãy dạy những gì mình tin. Và thực hành những gì mình dạy.
Hãy cẩn thận với mọi bài giảng. Giáo dân muốn nghe Lời Chúa chứ không phải lời của linh mục; chỉ có Lời Chúa mà thôi, luôn luôn là như vậy.
Hãy ý tứ với bài giảng của mình. Hãy thương xót dân Chúa. Đừng lạm dụng bài giảng nữa. Hãy để bài giảng của mình truyền cảm hứng và nung nóng trái tim người tín hữu.