2021
Chức vụ Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ của người Giáo dân là gì?
Chức vụ Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ của người Giáo dân là gì?
Đây là một đặc ân cao quý và cũng là trách nhiệm của những ai đã gia nhập Giáo Hội của Chúa Kitô qua Phép Rửa.Các giáo phụ ( Church Fathers) xa xưa đã dạy rằng người tín hữu giáo dân là Đức Kitô thứ hai ( Alter Christus) nhờ Phép rửa cho phép họ được tham dự vào các chức vụ kia của Chúa Kitô.
Danh xưng Đức Kitô thứ hai sau này cũng được dùng để chỉ các tư tế phẩm trật ( ordained Ministers) như linh mục và giám mục, là những người thực sự thay mặt và nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi) khi cử hành các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải Xức dầu và Truyền Chức Thánh ( dành riêng cho giám mục) Các Bí tích Rửa tội và Hôn phối thì phó tế có thể làm , kể cả giáo dân trong trường hợp khẩn cấp, nguy tử. Hai người phối ngẫu có thể kết hôn thành sự với sự chứng kiến của hai nhân chứng trong trường hợp nguy tử, không tìm được linh mục hay phó tế chứng hôn.( x giáo luật số, 1116 &1)
Danh từ giáo dân( lay persons) được dùng để chỉ những người không có chức thánh ( giáo sĩ =clerics) hoặc tu sĩ có lời khấn Dòng ( religious life). Họ chính là thành phần dân Chúa đông đảo nhất trong Giáo Hội và tham dự vào chức vụ Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế của Chúa Kitô theo cách thức riêng của họ.
Thánh Công Đồng Vaticanô II , trong Hiến Chế Tin Lý Lumen Gentium, đã phân biệt chức linh mục thông thường của giáo dân.( the common priesthood of the laity) khác với chức vụ linh mục biệt tác của hàng giáo sĩ thừa tác ( extraordinary ministerial Priesthood of the clerics) như sau:
Hàng giáo sĩ thừa tác thì hành chức năng tư tế khi cử hành các bí tích , cách riêng bí tích Thánh Thể và Hòa giải nhân danh Chúa Kitô ( Personna Christi). Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành các bí tích qua tay các thừa tác viên con người là Phó tế, linh mục và giám mục.Vì thế, bí tích luôn thành sự ( valid) khi thừa tác viên nhân danh Chúa và cử hành đúng nghi thức ( rites) mà Giáo hội đã qui định.
Thí dụ, rửa tội phải có nước và đọc công thức Chúa Ba Ngôi. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì bí tích không thành sự, dù cho thừa tác viên là linh mục hay giám mục.Cũng vậy, khi cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn, nếu thừa tác viên không dùng đúng chất thể là bánh không men và rượu nho đúng theo qui đinh của Giáo Hội, hoặc không đọc đúng kinh Nguyện Tạ Ơn và lời truyền phép ( consecration) theo chữ đỏ ( rubric) thì bí tích sẽ không thành sự . Ngược lại, nếu không có chức linh mục hữu hiệu hay thành sự, thì cho dù có đọc và làm đúng theo lễ qui vẫn không có bí tích được , và người cử hành sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết , vì không có chức linh mục mà dám cử hành Thánh Lễ hay giải tội cho ai.( x giáo luật số 1378 triệt 1 và 2).
Tiếp đến, hàng giáo sĩ thừa tác thi hành chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và giáo lý của Giáo hội cho giáo dân ở khắp nơi để giúp họ biết sống đức tin ,đức cậy và đức mến cách đích thực để được cứu rỗi theo lòng mong muốn của Thiên Chúa, “Đấng cứu chuộc chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 :4)
Mặt khác, hàng giáo sĩ và tu sĩ cũng được mong đợi sống phù hợp với lời mình rao giảng và dạy dỗ để làm chứng cho Chúa Kitô, “Đấng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20 28)
Đây là sứ mệnh mở mang Vương Quôc của Chúa Kitô, Vương Quốc của yêu thương, tha thứ, công bình và thánh thiện trong lòng người ở khắp mọi nơi trên thế giới
Trên đây là cách thức hàng giáo sĩ tham dự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, với tư cách là tư tế thừa tác ( ministerial sacerdoce)
Người giáo dân, nhờ bí tích Rửa tội, cũng tham dự vào các chức năng trên nhưng theo cách thức riêng của họ như sau:
Liên quan đến chức năng ngôn sứ, người giáo dân không rao giảng lời Chúa trong nhà thờ, nhà nguyện như các linh mục, giám mục, mà rao giảng bằng chính đời sống của mình trước mặt người đời chưa nhận biết Chúa để giúp họ nhân biết và tin yêu Chúa nhờ gương sống đức tin của mình.
Nghĩa là, trong khi những người không có niềm tin, hay có mà không dám sống niềm tin ấy, nên họ ăn gian nói dối, cờ bạc , gian dâm, thay vợ đổi chồng, buôn bán gian lận, thù ghét người khác, phá thai , ly dị… thì người có niềm tin Chúa phải sống ngược lại với cách sống của những người vô đạo hay chối đạo kia để “ họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm , mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời.” ( Mt 5 :16), như Chúa Giê su đã dạy các môn đệ xưa.
Đây chính là trách nhiệm “ phúc âm hóa môi trường sống” của người tin hữu giáo dân, góp phần hứu hiệu với hàng giáo phẩm và giáo sĩ trong sứ mệnh “phúc âm hóa thế giới” để mở mang Nước Chúa trên trần thế.Chính nhờ gương sống chứng nhân của mình mà người giáo dân sẽ thuyết phục được nhiều người khác nhận biết và tin yêu Chúa . Vì thề, Công Đồng Vaticanô II đã dạy rằng:
“ …Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” ( LG, số 33)
Nói khác đi, khi sống giữa những người khác tin ngưỡng hay vô tín ngưỡng, người tín hữu công giáo làm chứng cho Chúa Kitô và rao giảng Tin Mừng của Chúa bằng chính đời sống công bình, bác ái,vị tha, trong sạch để đối nghịch với lối sống vô luân, gian tham, xảo trá, gian manh, vô nhân đạo của người đời. Nghĩa là. Khi không hùa theo cách sống của họ và có can đảm sống theo đường lối của Chúa từ trong gia đình ra đến ngoài cộng đồng xã hội để không thay chồng đổi vợ, không ly dị, phá thai, không thù oán ai, không buôn bán gian lận, không lui tới những nơi tội lỗi như sòng bài và nhà điếm, thì người giáo dân đã chu toàn chức vụ ngôn sứ của mình là rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô cách hùng hồn bằng chính đời sống của mình cho những người sống vô luân vô đạo ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.
Và đây mới chính là cách thi hành chức vụ ngôn sứ của người giáo dân trong Giáo Hội để góp phần mở mang Nước Chúa bằng lời nói và việc làm của mình trước mặt người đời chưa nhận biết Chúa.
Nói khác đi, nếu người tín hữu Chúa Kitô- giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân- mà cũng ham mê tiền của, chạy theo những lôi cuốn về danh lợi với người đời thì sẽ trở thành phản chứng ( anti-witness) thay vì là nhân chứng ( witness) cho Chúa Kitô
“ Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8: 9)
Mặt khác, khi người tín hữu Chúa Kitô – giáo sĩ ,tu sĩ và giáo dân- sống công bình bác ái, trong sạch và vị tha, yêu thương, tha thứ từ trong gia đình ra đến cộng đồng xã hội thì cũng mang Vương Quốc của Chúa là Vương Quốc yêu thương, công bình, an vui và thánh thiện đến với những ai đang sống trong hận thù, bất công, bóc lột người khác, vô luân vô đạo và dửng dưng trước sự nghèo đói của biết bao anh chị em đồng loại sống quanh mình.
Sau hết, người tín hữu giáo dân thi hành chức năng tư tế của mình bằng cách dâng đời sống cá nhân hay gia đình với mọi vui buồn , sướng, khổ, thành công hay thất bại để hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Kitô một lần dâng lên Chúa Cha trên thập giá , để đền tội thay cho nhân loại, và còn tiếp tục dâng trên bàn thờ ở khắp nơi trong Giáo Hội ngày nay.
Tóm lại, người tín hữu giáo dân thi hành các chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của mình theo cách thức đã trình bày trên đây, để thông hiệp cùng với hàng giáo sĩ thừa tác tế lễ, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để mở mang Vương Quốc yêu thương, công bình và thánh thiện của Người đến với mọi tâm hồn con người ở khắp mọi nơi, để đánh tan bóng đen tội lỗi của văn hóa sự chết, của chủ nghĩa tục hóa ( vulgarism) tôn thờ tiền bạc và mọi thú vui vô luân vô đạo, đang ngày một bành trướng ở khắp nơi trên thế giới trống vắng niềm tin này.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Tại sao tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội, thay vì tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái?
Tại sao tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội, thay vì tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái?
Tiếng Latinh tiếp tục được bảo tồn trong phụng vụ của Giáo hội và trong nhiều tài liệu chính thức của Giáo hội, nhằm thúc đẩy sự thống nhất giữa các ngôn ngữ.
Stefano Pellicciari | Shutterstock
Mặc dù có vẻ như Giáo Hội Công Giáo không còn sử dụng nhiều ngôn ngữ Latinh nữa, nhưng sự thật thì phức tạp hơn nhiều.
Tờ Aleteia, nghĩa là “Chân Lý Tỏ Tường”, số ra ngày 23 tháng 7, cho biết trên thực tế, chính Công đồng Vatican II đã thúc đẩy việc sử dụng tiếng Latinh trong phụng vụ. Công đồng Vatican II đã không bãi bỏ tiếng Latinh
Trong tài liệu Sacrosanctum Concilium, Công đồng nói khá rõ ràng những gì phải làm với bản ngữ và tiếng Latinh.
Tiếng bản ngữ được thiết kế để sử dụng cho “các bài đọc và chỉ thị, cũng như một số lời cầu nguyện và thánh ca” (Sacrosanctum Concilium, 36).
Ý định ban đầu là thay thế nhiều phần của Thánh lễ bằng các ngôn ngữ địa phương, đồng thời bảo lưu phần còn lại bằng tiếng Latinh.
Tài liệu tương tự này thậm chí còn khuyến khích dạy mọi người hát bằng tiếng Latin!
Tuy nhiên, cần phải thực hiện các bước để các tín hữu có thể nói hoặc hát cùng nhau bằng tiếng Latinh những phần Thông thường của Thánh lễ liên quan đến họ.
Tương tự, Hướng dẫn Chung của Sách Lễ Rôma cũng lặp lại những lời này, nhưng đặt chúng trong bối cảnh duy trì sự thống nhất giữa các nhóm ngôn ngữ khác nhau.
Vì các tín hữu từ các quốc gia khác nhau đến với nhau thường xuyên hơn, nên họ phải biết hát với nhau ít nhất một số đoạn của Thánh lễ Thông thường bằng tiếng Latinh, đặc biệt là Tuyên xưng Đức tin và Kinh Lạy Cha, theo những cách sắp xếp đơn giản hơn.
Giáo hội đã sử dụng tiếng Latinh trong nhiều thế kỷ bởi vì nó được sinh ra trong Đế chế La Mã và khi đế chế đó sụp đổ, Giáo Hội vẫn giữ nó như một cách để thống nhất những người Công Giáo trên toàn thế giới.
Thậm chí, nhiều tài liệu của Giáo hội vẫn được dịch sang tiếng Latinh, và mới đây, Tòa thánh Vatican đã cho ra mắt đài phát thanh tiếng Latinh! Điều này được thực hiện để bảo tồn ngôn ngữ cổ và giúp giữ nó như một lực lượng thống nhất cho tất cả người Công Giáo.
2021
Tại sao người Do Thái và người Samari bất hòa với nhau?
Tại sao người Do Thái và người Samari bất hòa với nhau?
Luôn cần đến một bối cảnh để hiểu được tại sao người ta lại khinh miệt kẻ khác.
Le Christ et la samaritaine Henri Martin musée de Cahors
Khi trở thành kẻ thù, hiếm khi chúng ta có suy nghĩ chín chắn. Chúng ta thường đáp lại bằng cảm xúc và phản ứng. Nếu họ có làm điều gì, chúng ta cũng chống lại họ. Họ có nói gì đi nữa cũng là nói sai. Mọi thứ họ mong muốn đều xấu xa. Cần phải ngăn chặn bất kỳ điều gì họ đang thực hiện.
Chúng ta dùng thái độ này đối với những kẻ địch của đất nước mình, cũng như với những người cạnh tranh tại nơi làm việc, những đối thủ chính trị, những người hàng xóm khó chịu, và cả những thành viên gia đình chèn ép chúng ta. Những kẻ này không đủ khả năng để làm điều gì đó tốt đẹp. Mọi thứ sẽ được cải thiện nếu họ biến mất lập tức.
Vào thời Kinh thánh, tư tưởng này gần như tóm lược mối quan hệ giữa người Do Thái và người Samari. Tình trạng căng thẳng giữa những nhóm người này quá phổ biến trong cả hai Giao ước đến nỗi khiến chúng ta không còn đặt câu hỏi: Chuyện gì xảy ra với người Samari? Tại sao họ bị ghét như vậy?
Luôn cần đến một bối cảnh để hiểu được tại sao người ta lại khinh miệt kẻ khác. Từ thời dân Israel tiến vào Canaan cho đến thế hệ Đức Giêsu, chuỗi sự kiện trong Kinh thánh tập trung vào mẩu chuyện về các chi tộc sinh sống ở dải đất kéo dài từ Galilê đến Biển Chết. Chúng ta gọi vùng đất này là Israel và ngỡ rằng 12 chi tộc gắn kết trong quan hệ huyết thống và sự trung thành – nhưng hãy rút lại quan điểm này.
Saul, vị vua đầu tiên của Israel, chỉ cai trị trên một số người. Đavít, người kế vị ông, đã đưa toàn bộ các chi tộc về dưới quyền mình. Salomon, con của Đavít, bất lực trong việc gìn giữ sự thống nhất. Khi Salomon qua đời vào năm 930 TCN, vương quốc chia cắt thành vùng Israel rộng lớn miền bắc và vùng Giuđa nhỏ bé ở phương nam. Miền bắc lấy Samari làm kinh đô của mình. Còn các vua của phương nam vẫn giữ lại kinh đô của Đavít tại Giêrusalem.
Như học giả Raymond Brown lưu ý, khoảng cách giữa Samari và Giêrusalem là 35 dặm – gần hơn khoảng cách giữa hai bang dùng chung một sân bay là Baltimore và Washington. Nhưng lân cận không hề đồng nghĩa với giao hảo.
Sau cùng, Samari trở thành tiêu ngữ để chỉ toàn bộ miền đất phía bắc. Tuy nhiên, cả thành phố và vùng đất được biết đến như là Samari đều không biểu thị cho lãnh thổ của “người Samari”. Họ xuất hiện sau này. Vào lúc ấy, những cuộc chạm trán xảy ra giữa hai miền bắc nam trong khoảng 200 năm, với các giai đoạn hợp tác ngắn ngủi.
Hãy nhớ rằng những người ở cả hai bên biên giới đều tuyên bố Abraham là cha và Môsê là nhà giải phóng của mình. Tất cả họ đều thờ phượng Thiên Chúa của Giacóp. Tất cả họ là con cái nhà Israel. Thuở ban đầu, những khác biệt giữa họ chỉ mang tính chính trị. Nhưng rồi chúng lại trở thành vấn đề văn hóa, vì thời gian phân ly khiến hai vương quốc ngày càng xa cách nhau.
Trở lại thời điểm Israel còn là một quốc gia thống nhất, Vua Đavít đã thiết lập Giêrusalam làm trung tâm chính trị và văn hóa. Salomon đã xây dựng Đền thờ tráng lệ ở đây. Sau khi vương quốc chia cắt, Giuđa vẫn còn Đền thờ. Vậy lúc này, các chi tộc Israel ở phương bắc sẽ thờ phượng tại đâu?
Vị vua đầu tiên của họ, Giêrôbôam, đã thiết lập các trung tâm thờ phượng tại Bethel và Đan với một con bê vàng lộng lẫy ở mỗi địa điểm. Con bê tượng trưng cho vị trí của Thiên Chúa – được hiểu tương đương với nơi đặt hòm bia giao ước tại Giêrusalem. Dĩ nhiên, con bê cũng nhắc nhớ chúng ta về câu chuyện thờ ngẫu tượng rất đáng tiếc trong sách Xuất hành. Tất nhiên những người Giuđa buộc tội những người phương bắc vì việc thờ tượng vàng. Trong thực tế, chẳng có điều gì tốt đẹp để những người Giuđa nói về các dân miền bắc, và vì người Giuđa viết ra phần lớn cuốn Kinh thánh mà chúng ta có, nên thật khó để biết liệu những chỉ trích của họ chính xác hay phóng đại. Đây là vấn đề của việc có kẻ thù: Sau một thời gian, thật khó để biết đâu là điều chiếm ưu thế giữa những mục tiêu khách quan và sự thù ghét.
Hãy đến với câu chuyện về đế chế Assyria tàn bạo. Chúng ta có thể tin vào đặc tính này, vì các ghi chép lịch sử thời kỳ này trình bày chi tiết những hành vi độc ác của người Assyria. Vào khoảng năm 722 TCN, Assyria thôn tính vương quốc Israel phương bắc, trục xuất 27.290 người từ Samari đến những nơi xa xôi. “Mười chi tộc thất lạc nhà Israel” chính thức bị lạc mất ở đây khi các chi tộc phương bắc phân tán. Tại quê nhà họ, Assyria gieo mầm lãnh thổ bằng những người Babylon và các dân vùng Lưỡng Hà khác. Những người Assyria bẻ gãy ý chí của các nhóm người bị chinh phục theo cách này, xóa bỏ căn tính, văn hóa và tôn giáo của họ.
Còn ở phương nam, nhà Giuđa chứng kiến địch thủ phương bắc bị tàn phá – nên nhớ, Giêrusalem chỉ cách đó 35 dặm. Chẳng có nhiều thời gian thanh thản để hả hê. Một thế kỷ sau, sức mạnh của Assyria suy yếu, và Babylon bước lên vị trí siêu cường mới trong khu vực. Năm 587 TCN, Babylon đè bẹp Giêrusalem, đưa tất cả những người giỏi nhất đi lưu đày.
Vậy điều gì xảy ra trong khi những người Giuđa còn đang lưu đày? Người khác đến cư trú. Giêrusalem là một đống đổ nát, chắc chắn, nhưng vẫn còn nhiều nơi hữu dụng nằm xung quanh. Khi những người Giuđa ở Babylon rốt cuộc cũng được tự do nhờ người Ba Tư vào năm 538 TCN, họ vẫn quan tâm đến Giêrusalem và trở về để tìm kiếm những người còn sót lại trong vùng. Họ khinh miệt “những người Samari” ở đây. Điều tồi tệ hơn nữa là những người trở về từ cuộc lưu đày chịu phụ thuộc bởi lãnh địa của người Ba Tư ở Samari lúc bấy giờ. Việc tranh giành quyền hành giữa Giuđa và Samari lại xuất hiện.
Một số học giả cho rằng những người Samari có lẽ là những người Israel đến từ xứ Samari, tản ra khắp lãnh thổ khi những người Giuđa vắng mặt. Một số lại cho rằng những người Samari không phải là dân Israel nhưng là hậu duệ của các sắc dân vùng Lưỡng Hà – những người ngoại quốc – do Assyria gieo rắc lên xứ sở. Những người khác mô tả những người Samari như hậu duệ của người Giuđa không bị lưu đày với những người còn lại – vì họ đã chạy trốn rồi quay về khi nguy hiểm qua đi. Hoặc bởi vì họ không có đủ kỹ năng hay học vấn để Babylon sử dụng, và do đó bị bỏ lại. Trong bất kỳ trường hợp nào, những người không bị lưu đày đã không chịu nỗi đau khổ của họ hàng và không đáng được xem như một phần trong số họ.
Điều chắc chắn là “những người ở xứ sở này” rất kỳ quặc. Họ không cử hành đúng các nghi lễ tôn giáo và có đủ thứ ý tưởng không thích hợp về Thiên Chúa. Những người Samari xem núi Garizim phương bắc thánh thiêng hơn núi Sion ở Giêrusalem. Họ chỉ thừa nhận Ngũ thư của Môsê – từ Sáng thế đến Đệ nhị luật – như là kinh thánh của họ. Những người hồi hương từ Babylon đã soạn tác các sách lịch sử và sưu tập các sách ngôn sứ để thêm vào sách thánh của mình. Một số các ngôn sứ – Amos, Isaia, Hôsê, Edêkien và Mica – chẳng có lời nào tốt lành về dân gốc Samari.
Những người lãnh đạo Giuđa cũng đã cố gắng giải quyết xung đột. Tư tế Étra nghĩ rằng có thể hòa giải hai nhóm người này. Nhưng thống đốc Giơrúpbaben lại tiếp cận theo lối phân biệt chủng tộc: Máu của chúng không tinh sạch. Chúng đơn giản “không phải là chúng ta”. Tranh cãi bằng lời nói dẫn tới sự xúc phạm, sự xúc phạm lại dẫn tới bạo lực.
Hai nhóm người chia rẽ. Những người Samari tập trung lại ở khu vực phía bắc Sikhem. Kế tiếp người Ba Tư, khi người Hy Lạp, rồi đến Ai Cập, và cuối cùng là Rôma kiểm soát khu vực này, xứ Samari ngày càng trở nên Hy hóa; nghĩa là càng giống với đế quốc hơn. Những người Giuđa bài xích những ảnh hưởng bên ngoài bằng mọi giá. Vào thế kỷ thứ I, “một tên Samari” là điều kinh khủng nhất bạn có thể gọi người Dothái – điều mà những kẻ gièm pha Đức Giêsu gọi Ngài trong Tin mừng Gioan.
Vậy nên thật táo bạo biết bao khi Đức Giêsu kể câu chuyện về người Samari nhân hậu! Ngài cũng tham gia cuộc trao đổi kéo dài với một phụ nữ Samari mà Ngài gặp bên bờ giếng, rồi sau đó chào đón cả cộng đoàn của cô khi họ tìm gặp Ngài. Cư dân Giuđa đã mất hàng thế kỷ để tách những người Samari ra khỏi xã hội của mình bằng luật lệ và sự ngược đãi. Đức Giêsu khởi xướng triển vọng đã đến lúc phải thừa nhận những kẻ bên lề này. Một ngàn năm cãi vả và chia rẽ có lẽ đã quá đủ. Khi thế hệ đầu tiên của Giáo hội sai Philipphê đi loan báo Tin mừng ở Samari, đó là một chủ trương đầy táo bạo và gây kinh ngạc. Và điều này đưa đến “niềm vui lớn lao trong thành ấy” (Cv 8,8).
Chúng ta căm ghét kẻ thù của mình vì nhiều lý do: chính trị, lịch sử, tôn giáo, huyết thống, sự lập dị, cảm giác bất bình, sự đối lập được kế tục.
Chúng ta ghét người khác vì họ không giống chúng ta, và điều đó làm chúng ta khó chịu. Chúng ta không bằng lòng việc họ lấy điều gì đó của chúng ta, hay điều mà họ có thể lấy nếu chúng ta để cho họ có cơ hội. Sự thù ghét bắt đầu từ đâu đó. Sự thừa nhận cũng vậy.
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2021
Chúa Giêsu có cử hành thánh lễ đầu tiên bằng tiếng Aram không?
Chúa Giêsu có cử hành thánh lễ đầu tiên bằng tiếng Aram không?
Có thể Chúa Giêsu đã cử hành Bữa Tiệc Ly, Thánh lễ đầu tiên, bằng ngôn ngữ phổ biến của Ngài.
Bữa Tiệc Ly được người công giáo xem như bữa thiết lập Bí tích Thánh Thể chính thức, mở đầu cho việc cử hành phụng vụ Thánh Lễ.
Mặc dù ngày nay Thánh lễ được cử hành bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới, nhưng có thể Chúa Giêsu đã dùng công thức thiết lập Thánh Thể bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Vào thế kỷ I, ở Palestine, có ba ngôn ngữ được sử dụng trong dân chúng: Tiếng Aram, Hy Lạp và Do Thái. Mỗi ngôn ngữ đều có chức năng riêng của nó và được sử dụng bởi từng nhóm cụ thể.
Tiếng Aram được các học giả chấp nhận rộng rãi xem như ngôn ngữ chính mà Chúa Giêsu đã nói.
Tiếng Do Thái được duy trì bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo Palestine ở thế kỷ đầu, nhưng nó không phải là ngôn ngữ phổ biến mà ai cũng biết nói. Chúa Giêsu đã chứng minh rằng Ngài có thể đọc tiếng Do Thái khi cầm được cuộn sách trong hội đường (Lc 4, 16-30), nhưng hầu hết các môn đệ của Ngài đều mù chữ, không biết tiếng Do Thái.
Ngày nay tiếng Aram vẫn được sử dụng trong nghi lễ Maron (thuộc Liban).
Trong số các truyền thống phụng vụ của Giáo hội ngày nay, tiếng Aram vẫn được dùng cho các công thức thiết lập Thánh Thể theo nghi lễ Maron.
Theo Giáo phận thánh Maron [Eparchy of St. Maron], “Phụng vụ Maron là phụng vụ nguyên thủy được phát triển ở Antiôkia bằng tiếng Aram ngay sau thời các Tông đồ… Các ngôn ngữ trong phụng vụ Maron là tiếng Syro-Aram cổ được dùng trong một số phần cố định (Trisagion[1], Qadishat aloho; hai cách đến gần bàn thờ; truyền phép bánh và rượu).
Đó là cách độc nhất vô nhị để trải nghiệm phụng vụ, nghe công thức thiết lập Bí tích Thánh thể bằng ngôn ngữ mà Chúa Giêsu đã dùng.
Giuse Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
(gpquinhon.org 26.07.2021)
[1] Trisagion: Tam Thánh Ca [(a) Lập lại ba lần tán dương Thiên Chúa, như trong sách Isaia 6,3 (b) Một loại ứng đáp hay tán tụng ngắn mà Giáo Hội đông phương thường dùng].