2024
GẶP CHÚA KHI BẺ BÁNH
3.4 Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:1-10; Tv 105:1-2,3-4,6-7,8-9; Lc 24:13-35
GẶP CHÚA KHI BẺ BÁNH
Tưởng Chúa Giê-su sẽ làm một cuộc cách mạng vĩ đại, sẽ lật đổ chính phủ và dựng nên một cơ đồ mới cho đất nước, nên có người đã theo người, mong tìm một chỗ vị vọng…ai dè, người bị giết chết cách đau đớn nhục nhã trên thập giá… Hai môn đệ kia thất chí, bỏ mộng công danh, từ quan về vườn.
Hai môn đệ của Chúa Giêsu thất chí, bỏ mộng công danh, tìm về quê nhà cho an phận. Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với họ trong dáng vẻ của một khách bộ hành trên đường về làng Em-maus. Người gặp gỡ, trò chuyện, thăm hỏi, lắng nghe họ, và thấu hiểu tâm tư tình cảm của họ. Họ đang rất đau buồn về cái chết và sự thất bại của người mang tên Giêsu, mà lâu nay họ theo đuổi với mộng công hầu vị vọng. Người dùng Lời Thánh Kinh mà giải thích cho họ. Họ lắng nghe Lời Người.
Hôm nay hai môn đệ tiến về Emmau như những người lính vừa thất trận. Thất trận vì người Thầy mà mình hy vọng theo đuổi đã mấy năm nay lại vừa bị người ta giết chết. Nhưng dù sao họ cũng chưa hoàn toàn tuyệt vọng mà vẫn còn le lói trong mình một chút gì cho tương lai. Họ đi tìm phương kế cho cuộc sống mới.
Vui sướng thay Chúa Phục Sinh đã không để cho họ phải đau khổ thất vọng, Người đã đến và nâng đỡ đúng lúc họ cần thiết ấy. Họ đang bàn tán với nhau về chuyện Chúa Kitô tử nạn và phục sinh. Nhưng Người giả vờ như chưa biết gì về câu chuyện ấy. Chúa hỏi han, cảm thông với những bế tắc lo âu của họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”.
Rồi Chúa dùng Thánh Kinh mà dạy dỗ dẫn dắt họ. Từ chỗ hai người chưa có chút nào về niềm tin Chúa phục sinh như Chúa đã trách họ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi họ đã biết chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Họ có phúc vì đã được chính Chúa Kitô người Thầy có một không hai giảng dạy Thánh Kinh giáo lý cho họ “bắt đầu từ Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Rồi tiếp tục hai ông lại được dự tiệc “bẻ bánh” với Người, bữa tiệc tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Vậy là được gặp Chúa Phục Sinh, lòng các ông đã “bừng cháy lên” và mắt các ông “liền mở ra và họ nhận ra Người”.
Có Chúa Phục Sinh và Thánh Thể Chúa ở cùng, tâm hồn các ông vui tươi hăng say mạnh mẽ. Chẳng có một khó khăn trở ngại nào mà đè bẹp hay cản được bước tiến của các ông. Có Chúa Phục Sinh con mắt tâm hồn các ông đã sáng suốt tinh lanh mà nhận ra Chúa, nhận ra mọi người, nhận ra điều hay lẽ phải cho đời mình. Rồi hai ông cũng có đủ sức mạnh “đứng dậy”, không tháo lui không thất vọng mà “quay trở lại Giêrusalem” để tiếp tục loan truyền Chúa Phục Sinh cho nhân loại.
Chúa Giê-su tử nạn, hai môn đệ Người thất chí, quyết định bỏ mộng công danh, tìm về chốn cũ vườn xưa vui thú điền viên cho qua ngày đoạn tháng. Lòng hai ông nặng buồn. Đường về Emmaus như dài ra mấy nữa… Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra trong dáng vẻ của một khách bộ hành. Người gặp gỡ, cùng bước đi, thăm hỏi, lắng nghe…Người đã thấu cảm nỗi lòng của hai ông về chuyện “theo Thầy tìm chút công danh, mà Thầy tử nạn thôi đành về không”. Người dùng Lời Kinh Thánh giải thích cho hai ông về việc Đấng Ki-tô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang. Các ông chăm chú nghe Lời Người, phấn khích trong lòng, và mời Người ở lại với các ông. Và họ đã nhận ra vị khách cùng đi là Thầy mình đã Phục Sinh, khi Người bẻ bánh.
Lời Chúa là Lời Phục Sinh tâm hồn chúng ta. Thánh Thể Chúa là Thánh Thể Phục Sinh cuộc sống ta. Lời Chúa và Thánh Thể Người luôn đồng hành với chúng ta trong suốt hành trình dương thế và dẫn lối chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Chúa Giê-su đã bước xuống và cùng hiệp hành với các môn đệ mình đang u sầu thất vọng. Người dùng Lời Thánh Kinh mà thắp lên trong lòng họ niềm tin yêu. Người cử hành hy tế bẻ bánh, và chia sẻ với họ, để họ có sức mạnh thần linh mà trở lại nhịp sống bình an hy vọng của Tin Mừng.
Chúa muốn các gia đình yêu mến, lắng nghe, và thực hành Lời Chúa, yêu mến rước lấy Thánh Thể Người, đồng thời, bước xuống với những ai đang đau khổ thất vọng, để chia sẻ cho họ niềm vui Lời Chúa, giúp họ được thông hiệp với ân sủng Thánh Thể, tỏ bày tình Chúa yêu qua lòng thương xót của chúng ta. Nơi nào sống Lời Chúa và Thánh Thể, nơi đó có ơn Phục Sinh.
Vâng, “Bẻ bánh”, là dấu chỉ của Chúa Giêsu, và cũng là dấu chỉ nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc đời này. Nơi nào có bẻ bánh, nghĩa là “có sẻ chia sự sống của mình cho người khác, vì yêu người”, thì nơi ấy có Chúa Giêsu hiện diện.
Gia đình là nơi cụ thể nhất, để có thể “cử hành lễ tạ ơn”, để có thể “bẻ tấm bánh đời mình ra mà nuôi nhau cho được sống, được sống vui, được sống hạnh phúc”. Và hẳn nhiên, không hề có việc “bẻ ra”nào mà không chấp nhận thương tích, đau đớn, mất mát. Nhưng chính sự đau khổ, hy sinh, chịu chết đi cho nhau, vì nhau ấy, là bảo chứng cho việc cả nhà sống lại vinh quang. Đúng như Lời Thánh Kinh mà Chúa Giêsu hôm nay trích dẫn, và Người đã thực hiện: “Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?”.
Cầu mong tất cả mọi gia đình chúng ta biết yêu thương nhau, và cụ thể tình yêu thương ấy bằng việc chết đi cái tôi hẹp hòi ích kỷ, bằng việc hy sinh phục vụ nhau hết mình, hiến thân cho nhau được sống.
2024
GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH
2.4 Thứ Ba trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:36-41; Tv 33:4-5,18-19,20,22; Ga 20:11-18
GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH
Tin mừng hôm nay, thánh Gioan mời gọi chúng ta đi vào tâm tình của Maria Mađalêna, người phụ nữ được diễm phúc nhận ra Chúa ngay trong buổi sáng đầu tiên đi viếng mộ.
Sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà Maria Mađalêna cảm nhận được không phải là một sự hiện diện khả giác, nhưng chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể nhận ra Ngài. Ngài muốn để cho ai nhận ra Ngài, và nhận ra khi nào là tùy ý muốn của Ngài, do đó, mầu nhiệm Phục Sinh là đối tượng của niềm tin hơn là những lý chứng. Đây là cảm nghiệm mà Maria Mađalêna có được vào buổi sáng ngày Phục sinh: bà không thấy gì ngoài ngôi mộ trống. Chúa Kitô Phục sinh không xuất hiện như Đấng mà bà đã từng gặp gỡ, mà như một người làm vườn xa lạ, thế nhưng sự hiện diện của Đấng Phục Sinh đã có sứ làm bật ra một lời tuyên xưng đầy xác tín và một niềm vui khôn tả.
Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Kitô Phục Sinh mà bà Maria Mađalêna đã nhận ra dưới hình dạng của một người làm vườn xa lạ, cũng chính là Chúa Kitô Phục Sinh đang đến với chúng ta trong giây phút hiện tại. Ngôi mộ trống bà Manh Mađalêna đã thấy vào buổi sáng Phục Sinh là biểu tượng của biết bao mất mát và trống vắng, mà chúng ta đang trải qua trong cuộc sống mỗi ngày. Cũng như Maria Mađalêna, với cái nhìn hoàn toàn trần tục, chúng ta chỉ nhận thấy những trống vắng, đổ vỡ, mất mát, nhưng dối với đôi mắt dực tin, chúng ta được mời gọi để nhận những dấu chứng hiện diện của chính Đấng Phục Sinh. Người làm vườn vô danh mà Maria Mađalêna đã nhận diện được như chính Thầy chí ái của mình, là hình ảnh của mỗi người chúng ta gặp gỡ từng ngày. Trong mầu nhiệm phục sinh, mỗi tiếp xúc với tha nhân đối với chúng ta cũng phải là một gặp gỡ với Đấng Phục sinh.
Hôm nay chúng ta gặp một phụ nữ đáng thương, Maria Mađalêna, một phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu đến chân thánh giá và giờ đây vẫn còn đau khổ, còn chịu tang. Trong bà là cả một sự vắng bóng của chứng từ.
Chúng ta gặp bà trước tiên bên mộ, sợ hãi, đầy lo âu: “Tôi không biết người ta đặt Ngài ở đâu”. Mặc dù bà đã có mặt vào ngày chôn cất. Hẳn là vẫn còn lại một cái gì của Chúa Kitô chứ.
Qua Kinh Thánh, chúng ta đã biết rằng Chúa Kitô hiện diện trong Giáo hội Ngài, trong cộng đoàn tín hữu, trong từng con người. Nhưng những người đến gặp Ngài thường gặp những ngôi mộ trống. Và họ vẫn ở trong tình trạng nghi nan.
Kế đến, chúng ta thấy rằng Maria Mađalêna được một ai đó gọi ngỏ lời, một người mà cô không biết tên. Cô nhận ra Ngài khi nghe gọi “Maria”.
Chỉ người nào nghe Chúa Giêsu gọi tên mình, chỉ người nào được Ngài chạm đến trong một tương quan cá nhân mới nhận ra được Ngài. Ta không thể trách móc những người rời bỏ Giáo hội và không đi lễ ngày chúa nhật, nếu không ai nối kết với họ một mối tương giao cá nhân. Việc hội họp của những con người vô danh đã giết mất sự hiểu biết về Chúa Kitô.
Sau đó Maria muốn giữ Chúa Giêsu lại. Như nhiều người trong chúng ta cũng muốn giữ Chúa Kitô cho riêng mình, vì chúng ta cần Ngài để xoá tan nỗi buồn trong cuộc sống chúng ta, như một nơi trú ẩn đối với những gian nan, lo lắng. Bao nhiêu người trong chúng ta đã giữ lại Chúa Kitô của mình, không chịu chia sẻ, không chịu nói về Ngài, không bao giờ lên tiếng công bố về Ngài ? Việc chúng ta tham dự phụng vụ Lời Chúa, hay đúng hơn sự dửng dưng của chúng ta thi tham dự, có thể là dấu hiệu của điều chúng ta làm: tôi đã có Chúa Kitô của mình, tôi giữ lấy Ngài.
Cuối cùng, sau khi lột bỏ sự sợ hãi và ý định giữ lấy Ngài cho riêng mình, sau khi trở nên người được gọi tên, sau khi được thôi thúc bởi tiếng gọi cá nhân nơi chiều sâu, Maria ra đi làm chứng.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay.
Ðể tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay. Nhờ đức tin, chúng ta đã nắm được Chúa Kitô vững chắc hơn Madalêna nữa. Vậy hãy ra đi vào cuộc sống mà loan truyền sự sống của Chúa cho anh em.
2024
Đừng sợ
1.4 Thứ Hai trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:14,22-32; Tv 16:1-2,5,7-8,9-10,11; Mt 28:8-15
Đừng sợ
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thịt bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Ma-ri-a Ma-đa-lê-na vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Mát-thêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: “Các bà vội vã ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hơ vui mừng đi báo tin cho các môn đệ Chúa” (Mt 28,8).
Các sách Tin Mừng thuật lại sự vội vã mà vào Ngày Phục Sinh “các bà chạy đi báo tin cho các môn đệ” (Mt 28,8). Và, sau khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na “chạy đến với ông Si-mon Phê-rô” (Ga 20, 2), thì chính ông Gio-an và ông Phê-rô “cả hai cùng chạy” (x. Ga 20,4) để đến nơi chôn cất Chúa Giê-su. Và rồi vào chiều Phục Sinh, khi gặp Đấng Phục Sinh trên đường Emmau, hai môn đệ “lên đường không chậm trễ” (Lc 24,33) và vội vã đi vài dặm lên đồi trong bóng tối, xúc động bởi niềm vui Phục Sinh không thể kìm nén được đang bừng cháy trong tâm hồn của họ (x.Lc 2432).
Cũng chính niềm vui đó mà Phê-rô, trên bờ biển Ga-li-lê-a, khi nhìn thấy Chúa Giê-su phục sinh đã không thể nấn ná trong thuyền với những người khác, mà lập tức nhảy xuống nước bơi thật nhanh để gặp Người (x. Ga 21,7). Nói tóm lại, vào Lễ Phục Sinh, cuộc hành trình tăng tốc và trở thành một cuộc chạy đua, bởi vì nhân loại nhìn thấy mục tiêu của cuộc hành trình, ý nghĩa của định mệnh của mình, là Chúa Giê-su Ki-tô, và được mời gọi để vội vã gặp gỡ Người, niềm hy vọng của thế giới. Chúng ta cũng hãy mau chóng lớn lên trên con đường tin cậy lẫn nhau: tin cậy giữa người với người, giữa các dân tộc và các quốc gia. Hôm nay chúng ta hãy tuyên xưng và mau mắn đi loan báo cho thế giới biết rằng, Chúa Giê-su, Chúa của đời ta, là “sự sống lại và là sự sống” của thế gian (x. Ga 11, 25).
Các bài Tin mừng trong tuần bát nhật mừng Đức Giêsu Phục sinh đều ghi lại các cuộc hiện ra của Đức Giêsu. Bài Tin mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, cách riêng với bà Maria Mađalêna, để củng cố niềm tin và sai các bà đi báo tin cho các Tông đồ. Ngoài ra, Tin mừng còn nói đến việc các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái mua chuộc các lính canh mồ để phản bác việc Đức Kitô sống lại.
Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa Phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Đức Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt.
Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục sinh cho các Tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật.
Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin mừng Phục sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
Đức Giêsu đã Phục sinh với các chứng từ rõ ràng không thể chối cãi được. Đối với Đức Giêsu, phục sinh là chiến thắng hoàn toàn sự chết, thế gian và xác thịt, nghĩa là thân xác phục sinh không thể chết được nữa, thân xác phục sinh không thể bị giới hạn trong không gian hoặc thời gian. Chẳng hạn Đức Giêsu khi phục sinh vẫn đi vào nhà các môn đệ khi cửa đóng kín, vẫn có thể hiện diện nhiều nơi như vừa đồng hành với môn đệ trên đường Emmau, nhưng khi các môn đệ đó quay lại thì lại được các môn đệ ở nhà kể lại vừa gặp Chúa.
Kitô hữu là người đối diện với Tin mừng Phục sinh và được trao nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này… Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Đức Kitô và về Giáo hội.
Trở lại sự kiện giả dối của giới cầm quyền Do thái giáo mà bài Tin mừng kể ra, chúng ta thấy sự kiện này cũng phản ánh một thực tế bất công và dối trá nơi cuộc sống này đã có từ ngàn xưa. Thậm chí ngày nay còn đáng sợ hơn.
Chân lý loài người luôn thuộc về kẻ mạnh, người ta dùng tiền để mua chuộc và đổi trắng thay đen, biến công thành tội, sự thật bị xuyên tạc bóp méo. Đặc biệt những Kitô hữu và những người dám sống thật luôn bị thua thiệt và bị vu oan giáng họa kết tội cách bất công. Người ta dùng tiền và quyền để bịt miệng và để kết án.
Thế nhưng, chính sự thật thì người ta sẽ không mãi mãi trù dập nó được, sự kiện Phục sinh vẫn được hàng tỷ người trên thế giới tuyên xưng và phát triển đã hơn 2000 năm lịch sử… Các môn đệ của Chúa lúc bị xuyên tạc, các ngài không cần kêu oan mà cứ mạnh dạn tuyên xưng những gì mình thấy và sống mầu nhiệm Phục Sinh cách hoàn hảo.
Sự phục sinh được loan báo cho các bà đầu tiên hẳn cũng có một ý nghĩa là trong suốt cuộc khổ nạn, các bà đã gần gũi Chúa nhất. Một thiếu phụ phung phí dầu thơm ở Bêtania (Mt 26,7-13), vợ của Philatô can ngăn (27,19), các phụ nữ đứng bên thập giá (27,55-56) và bên nấm mộ (27,61). Họ là những người có công và đã được thưởng bằng việc Chúa hiện ra. Đây cũng là một bài học cho thấy các bà đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền giáo cũng như họ đã từng làm việc đó là báo tin Chúa sống lại cho các tông đồ. Nếu như các bà ích kỷ chỉ đòi ở bên Chúa mà không chịu đi đưa tin thì hẳn là các môn đệ vẫn cứ ở trong căn phòng kín cửa then cài.
Điều này muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta là những người đã nhận được đức tin của Chúa, nhận được sự sống mới của Chúa, chúng ta không có quyền sống ích kỷ, như con rùa thụt lui sau lớp vỏ của mình. Chúng ta phải phân phát, phải đi như những phụ nữ hôm nay để “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại…” (1C 11,26). Vậy nếu như các tín hữu đâu tiên ở Giêrusalem không chịu ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa, thì chúng ta đây chưa chắc đã có đức tin. Vậy ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Chúng ta đến lượt mình cũng hãy trả ơn ít là như và bằng họ chứ.
2024
Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết
30.3 Lễ Vọng Phục Sinh
Rm 6:3-18; Lc 24:1-12
Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay, cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Vọng Chúa Phục Sinh. Đó là niềm vui mừng và hoan lạc không chỉ cho chúng ta là những người có niềm tin, mà còn cho toàn thể nhân loại. Quả vậy, như lời Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Và chúng ta là người dại dột hơn ai hết vì chúng ta tin vào một chuyện hão huyền”. Thế nhưng, sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết.
Lời Chúa cho chúng ta nhìn sự kiện Chúa Giêsu phục sinh như một cuộc tạo thành mới. Bài trích sách Sáng Thế kể về trình thuật Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật mà trung tâm điểm là con người.
Với công trình tạo dựng ấy, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Thế nhưng, tình trạng tốt đẹp đó đã bị phá hỏng bởi ông bà Nguyên Tổ đã nghe theo lời ma quỷ mà phạm tội bất tuân, chống lại Thiên Chúa. Tội lỗi ban đầu đó đã khiến cho đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Ảnh hưởng của tội lỗi, không chỉ trên sự sống của con người, mà còn trên muôn loài, muôn vật. Như lời Thánh Phaolô: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22).
Nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô, mà muôn loài được giải thoát khỏi vòng tội lỗi và sự chết. Không chỉ có thế, sự Phục sinh của Đức Kitô, còn mang đến cho nhân loại sự sống mới sung mãn hơn, tràn đầy hơn sự sống mà nhân loại đã có thuở ban đầu. Vậy nên, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao trong đêm Vọng Phục Sinh này Giáo Hội lại ca lên: “Ôi ! tội A-dong thật là cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô. Ôi! tội hồng phúc, vì đã cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc cao sang”. (x.Exsultet).
Đau khổ, thập giá, vốn là một sự sỉ nhục, nên không ai trong chúng ta thích đau khổ, và đặc biệt, không ai trong chúng ta muốn nói đến sự chết. Thế nên, đau khổ sẽ mãi là một mầu nhiệm, mãi là một câu hỏi lớn của con người ở mọi thời đại, nếu những đau khổ đó không được giải đáp bằng sự Phục Sinh của Đức Kitô.
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của con người có một ý nghĩa mới. Nỗi đau đó, không trở nên vô ích, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Chúa Kitô đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Quả vậy, Đức Kitô chính là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc là toàn thể nhân loại chúng ta. Ngài đã sống lại và đi vào cõi vinh quang bất diệt. Ngài đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết dẫn vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng hay ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quang cùng với Ngài.
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Niềm tin đó, giúp chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ, đối với chúng ta, không còn là điều phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Cuộc sống này, không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ hướng tới ngày mai, hướng tới sự sống bên kia thế giới, hay hướng tới thiên đàng đã được hứa ban, nhưng còn hướng chúng ta tới cuộc sống hiện tại, tức là hôm nay và ngay lúc này.
Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.
Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Đấng Phục Sinh như một vầng sáng bừng lên giữa nơi mồ tối. Nghi thức làm phép lửa mới chiếm vị trí quan trọng mở đầu buổi canh thức. Ánh sáng bừng lên trong đêm tối. Ánh sáng chan hòa sưởi ấm con người và cuộc sống nhân gian. Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô, như Người đã xác quyết: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”(Ga 8,12). Khởi đi từ ánh lửa bừng lên trong đêm tối, phụng vụ đêm nay kết thúc trong niềm vui chan hòa, vì “Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,9).
“Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Chúa Giêsu đã qua thập giá mà tiến tới phục sinh. Những ai muốn phục sinh với Chúa, cũng cần phải trải qua thập giá. Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa chết đi cho tội để được phục sinh với Chúa. Nấm mộ là nơi vùi chôn những lỗi lầm của thời dĩ vãng. Nấm mộ là nơi chấm hết của nếp sống cũ với những yếu đuối khuyết điểm, đồng thời là nơi khởi đầu một cuộc sống mới được ánh sáng của Đấng Phục Sinh chiếu soi.
Khi mừng lễ Phục Sinh, mỗi chúng ta cần để cho ánh sáng của Chúa Giêsu sống lại chiếu sáng. Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để chúc lành và nâng đỡ chúng ta trong mọi nẻo đường của hành trình con người.