2023
Mối quan tâm hàng đầu
8.6 Thứ Năm trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 6:11; Tv 128:1-2,3,4-5; Mc 12:28-34
Mối quan tâm hàng đầu
Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học… Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
Ðó cũng là vấn nạn mà một luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?” Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.
Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời đó có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác và tự lừa dối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.
Các câu hỏi của người luật sĩ trong bài Tin mừng là một vấn đề nan giải của người Do thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho họ câu trả lời thật xác đáng và đồng thời chứng tỏ Người là Chúa của Lề luật. Người cho biết tất cả các giới luật đều quy về giới răn duy nhất: mến Chúa – yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.
Con người là sinh vật có xã hội tính, tức là có nhu cầu sống chung với nhau. Tuy nhiên, vì con người còn có tự do, nên để sống chung hoà thuận, mỗi quốc gia hay tập thể cần có luật quy định các bổn phận và trách nhiệm của mỗi người, để không ai đụng chạm và làm mất lòng người khác.
Thời Chúa Giêsu, nước Do thái cũng có bộ luật gồm hàng trăm khoản luật khác nhau, và họ không biết điều nào là quan trọng nhất. Vì thế hôm nay, một luật sĩ hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi hóc búa: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đã trả lời rằng: hai giới luật quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Như vậy, cốt lõi của mọi điều luật là lòng yêu mến. Mến Chúa yêu người tuy là hai giới răn khác nhau, nhưng lại không thể tách biệt nhau.
Như vậy, cốt cách của đạo chúng ta là “Mến Chúa – yêu người”. Nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa qua Kinh thánh, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”, đó là yêu Chúa và yêu người. Tuy nhiên yêu Chúa, có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm, ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người? Khó hơn, nên chúng ta cần nói nhiều hơn về yêu người.
Nói về yêu người, chúng ta cũng đã nghe nói nhiều rồi, nhưng cũng chẳng bao giờ nói đủ, nghe đủ. Vì thế, chỉ xin nhắc lại một vài điều: Thứ nhất, yêu người là một trắc nghiệm không thể chối cãi được của tình yêu đối với Thiên Chúa, nghĩa là nếu chúng ta nói: chúng ta yêu Chúa lắm mà lại đối xử tệ với người khác, bất kể người đó là ai, chúng ta vẫn là người nói dối, và Chúa sẽ không nhận lòng yêu mến của chúng ta. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”.
Thứ hai, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, bởi vì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương mình, quý mến mình, là chuyện bình thường, không cần gì phải nói.
Thứ ba, yêu người là sẵn sàng giúp đỡ họ bằng lời nói, thái độ, việc làm, tinh thần hay vật chất. Sau hết chúng ta ta hãy nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu cụ thể này, tức tình yêu người, tình yêu thương anh em.
Tình yêu là nền tảng cho đời sống đạo. Không thấy bóng dáng của tình yêu thì cuộc sống sẽ trở thành gánh nặng. Sống đạo là đi vào trong tương quan giao ước tình yêu, để sống với cả con tim, cả khối óc, cả cuộc đời. Tình yêu con người lấy tình yêu Thiên Chúa làm mẫu mực, vì thế, Chúa Giêsu đã nối kết điều răn yêu người thân cận với điều răn thứ nhất. Và ai là người thân cận với ta nhất nếu không phải là những người trong gia đình?
Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu của cuộc sống, kể cả mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, chứ không dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc sống đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.
2023
Kẻ chết sống lại
7.6
Thứ Tư trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 3:1-11,16; Tv 25:2-4,4-5,6-7,8-9; Mc 12:18-27
Kẻ chết sống lại
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: “Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob”, Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống.
Hơn thế nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.
Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.
Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.
Những đối thủ mà hôm nay Chúa Giêsu phải gặp là những người Sa-đốc thuộc giới tư tế. Vì họ không tin có việc kẻ chết sống lại nên họ đặt ra một câu chuyện (một phụ nữ lấy 7 anh em trai theo tục lệ “thế huynh”) để cho thấy sống lại là một sự lố bịch. Trả lời họ, Chúa Giêsu không những chứng minh có việc sống lại, mà còn cho biết cuộc sống sau khi sống lại sẽ như thế nào. Trước hết, cuộc sống đời sau không giống cuộc sống hiện tại, cho nên không cần lưu truyền nòi giống và bởi thế không cần có vợ có chồng. Tiếp theo, cuộc sống ấy “giống như các thiên thần” : nghĩa là không quan tâm đến gì khác ngoài việc yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa. Chúng ta thấy những người phái Sa-đốc tuy là tư tế nhưng không quan tâm tới những việc đạo đức cho bằng tới những đặc quyền đặc lợi của họ.
Để bảo vệ những quyền lợi ấy, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ chế độ nào đang cầm quyền, cho dù đó là chính quyền đế quốc Rôma đang xâm lược đất nước họ. Chính vì thế, họ không tin sự sống lại và không tin đời sau là phải, bởi vì ai càng coi trọng đời này và những giá trị đời này thì càng coi nhẹ đời sau và các giá trị đời sau. Càng thiên về xác thịt thì càng yếu về tinh thần. Đức tin dạy chúng ta rằng cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “như các thiên thần” nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa không để cho con người sống mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khoẻ và mọi thứ của cải trên thế gian.
Chúa Giêsu cũng đã dùng Kinh Thánh để minh chứng cho giáo lý của Người: “Các ông đã không đọc trong sách Môsê sao: Ta là Chúa của Abraham. Chúa của Isaac và Chúa của Giacóp. Người không phải là Chúa của kẻ chết. Nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to” (Mc 12,26-27). Họ đề cập đến Kinh Thánh, Chúa Giêsu lật ngược lý chứng của họ, bằng cách trích dẫn một đoạn trong Ngũ Kinh (Xh 3,6), là sách Thánh duy nhất được Nhóm Xa-đốc thừa nhận. Một lần nữa, chúng ta khám phá ra một Chúa Giêsu hiểu biết Kinh Thánh rất tinh tường và Người có thể trích dẫn theo trí nhớ từng câu một để chống lại mọi cuộc tranh luận.
Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.
2023
Đối thoại chứ không đối đầu
3.6
Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo
Hc 51:12-20; Tv 19:8,9,10,11; Mc 11:27-33
Đối thoại chứ không đối đầu
Đối thoại là một trong những phương thế giải quyết mâu thuẫn, đem lại sự hiểu biết và trân quý nhau hơn. Tuy thế, đối thoại chỉ mang lại hiệu quả khi đôi bên đến với nhau với lòng chân thành, cởi mở và tinh thần tôn trọng sự thật. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và giới lãnh đạo Do thái trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ (Mc 11,15-19), một sự kiện náo động đụng chạm trực tiếp đến quyền hành của những người đứng đầu Ír-ra-en.
Vì thế, cuộc gặp gỡ này đã không diễn ra trong bầu khí của một cuộc đối thoại đúng nghĩa, bởi lẽ các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã đến với thái độ ganh ghét, thù nghịch. Kết quả là sự thật về Chúa Giê-su đã không được vén mở cho họ, hay nói đúng hơn, chính họ đã khép kín mình và không muốn đón nhận sự thật. Bi kịch của giới lãnh đạo Do thái nằm ở chỗ họ đã không có đủ lòng chân thành và khiêm tốn. Nỗi sợ mất uy tín, địa vị đã khiến họ không dám nhìn nhận sự thật, đẩy họ đến một câu trả lời vô trách nhiệm: “chúng tôi không biết.” Cuộc đối thoại giữa họ và Chúa Giêsu đã đi vào chỗ bế tắc.
Chúng ta thường quan niệm rằng “kẻ không biết không có tội”, vì họ không ý thức được điều họ làm là sai. Tuy nhiên, nếu người đó biết rõ nhưng vì lợi ích cá nhân của mình mà giả vờ như không biết, kẻ đó càng đáng tội nhiều hơn. Các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão trong bài Tin Mừng hôm nay chính là những người như vậy. Họ muốn chất vấn về quyền hạn của Chúa Giêsu là từ đâu mà có, nhưng lại chẳng muốn chấp nhận sự thật rằng Người là Con Thiên Chúa. Để rồi, họ tự dối mình và dối người khi thốt lên “Chúng tôi không biết”.
Có phải thực sự họ không biết hay không? Không hề. Họ không chỉ nhận biết được quyền năng của Chúa Giêsu mà còn nhận ra sự hiện diện của quyền năng ấy sẽ gây bất lợi cho mình. Chính vì thế, họ thà tự nhận mình là những kẻ không biết gì còn hơn là chấp nhận sự thật về quyền thế của Người. Lời nói đó tưởng chừng như vô thưởng vô phạt nhưng thực sự đã tố cáo lòng tin chai đá của những người có uy tín, những người đại diện cho tầng lớp trên trong xã hội Do Thái và sự nhỏ nhen, vị kỉ của họ.
Tuy nhiên, đừng vội xét đoán vì biết đâu được, chính chúng ta cũng là những người như họ. Đôi lúc chúng ta đặt cái tôi của mình quá cao, xem trọng lợi ích của mình một cách quá đáng để rồi im lặng trước bất công của xã hội, hay chọn cách như các luật sĩ, trưởng tế và kỳ lão trong đoạn Kinh Thánh trên – vờ như không biết những điều đó.
Quả thật, khi mỗi người đều tự đề cao cái tôi của mình một cách thái quá, những giá trị chung của xã hội sẽ chẳng còn gì quan trọng.
Nhìn vào thực tế đất nước chúng ta, biết bao kẻ gian tà đã bị đồng tiền mê hoặc, cướp mất ruộng đất, nhà cửa hay vơ vét một cách vô tội vạ mà không cần quan tâm đến những người bị họ cướp. Họ không cần biết đến điều đó, chỉ cần vinh thân phì gia, họ sẵn sàng bất chấp tất cả. Hay những người hữu trách của đất nước cũng thế, họ “không thấy, không nghe, không nói” hay “không biết” những kẻ ngoại bang đang từng ngày đe dọa chủ quyền của đất nước. Không chỉ tầng lớp trên mà ngay cả những người bình thường cũng vậy, họ bàng quan, thờ ơ trước vất công của xã hội, nhân quyền chỉ còn là trò đùa của kẻ cầm quyền nhưng họ lại “không biết” vì họ không ý thức được nó ảnh hưởng rất lớn đến mình. Người ta chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài… Tất cả cũng là do con người cố tình “không biết”.
Là người Công giáo, chúng ta may mắn hơn vì được biết nhiều hơn người khác, đồng thời cũng được “ưu ái” hơn vì biết và dám nói. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chúng ta hoàn hảo. Đôi lúc chúng ta vẫn yếu đuối, vẫn chối bỏ Chúa vì tội lỗi hay vì lợi ích cá nhân mình. Chính vì thế, chúng ta cần ý thức được sự thật quan trọng đến mức nào, để ta biết tôn trọng, đề cao nó và chia sẻ cho mọi người cùng nhận ra sự thật đó. Đồng thời, chúng ta phải biết lên án những điều trái với chân lí, trái với sự thật vì Thiên Chúa là Đấng Chân Thật.
Quả vậy, trong đời sống con người thường hay tìm cho mình sự tư lợi, tìm cho mình một địa vị trong xã hội. Khi mục đích đời họ là đi tìm những thứ phù phiếm của tiền tài danh vọng, họ rất ghét những ai có và sẽ có tầm ảnh hưởng hơn họ. Bởi lẽ, họ không muốn mình là hạng hai và thứ yếu so với kẻ khác và cũng vì đó mà họ khó đón nhận sự hiện diện của những điều thánh thiêng, và càng khó hơn khi đón nhận những “ngôn sứ” của Thiên Chúa.
Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đã rơi vào vòng “kim cô” của thế tục ấy, nên họ càng ghét Chúa Giêsu hơn, bởi Ngài có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng. Chính thái độ và cung cách ấy mà họ đâm ra sợ hãi, họ mới trả lời với Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Họ trả lời không biết không phải vì họ không biết mà là họ không dám biết và không muốn biết, bởi cái biết ấy sẽ ảnh hưởng trên thế lực, địa vị và quyền lợi của họ.
Do vậy, Chúa Giêsu cũng không nói cho họ biết Ngài lấy quyền gì để làm điều ấy, vì lẽ, chính Ngài đã nói rõ ràng với họ rồi “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi sào huyệt của trộm cướp”, nhưng họ đã không dám đón nhận sự thật ấy.
2023
Xin Chúa chữa cho ta được sáng
1.6 Thánh Justin, Tđ
Hc 42:15-25; Tv 33:2-3,4-5,6-7,8-9; Mc 10:46-52
Xin Chúa chữa cho ta được sáng
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Ðấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quý trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn.
Sách ngôn sứ Giêrêmia kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Chúa Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.
Hôm nay, nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Chúa Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Chúa Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng.
Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.