2024
THEO CON ĐƯỜNG CHỊU ĐAU KHỔ NHƯ THÁNH MONICA
27.8 Thứ Ba Thánh Monica
St 2:1-3,14-16; Tv 96:10,11-12,13; Mt 23:23-26
THEO CON ĐƯỜNG CHỊU ĐAU KHỔ NHƯ THÁNH MONICA
Thánh Monica là bổn mạng của những cha mẹ chịu đựng đau khổ vì gánh nặng gia đình. Thánh nhân được mệnh danh là “Người Bạn của Thánh Giá”.
Niềm hạnh phúc của thánh nữ Monica là trở nên gương mẫu cho các bà mẹ Công giáo, Monica là bổn mạng của các người mẹ Công giáo trong mọi thời đại. Xuyên thời gian, niềm hạnh phúc lớn lao của Monica vang vọng và lan tỏa trong Hội Thánh …
Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng, và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào. Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng.
Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo.
Thánh Monica sinh năm 332 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria). Ngài đã sống các nhân đức Kitô giáo một cách nổi bật, nhất là chịu đựng sự nóng nảy và một đời sống phóng túng của người chồng. Ngài cũng đã khóc hằng đêm vì “cậu ấm” Augustinô và chuyên cần cầu nguyện cho con hoán cải, điều mà chính Thánh Augustinô đã viết trong cuốn Tự Thuật.
Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, độc ác và tàn nhẫn và không chung thủy… Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.
Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ – tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.
Kèm theo đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng, phấn khởi khôn xiết. Nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cung cách và lối sống của con trai chính là bản sao của chồng.
Thế nhưng, điều ta thấy tuyệt với là khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con. Liều thuốc đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường và niềm tin vào Chúa.
Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica bằng việc hoán cải mẹ chồng. Patricius chồng cô đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Augustinô quyết định chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường, sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.
Đây là ân huệ lớn lao do lòng thương xót của Người đã dành cho Mônica. Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui hơn được nữa… Vì mọi hy vọng … mẹ đã được mãn nguyện”.
Cuối năm 387, khi hai mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Người, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.
Trong vai trò là người mẹ, Monica cũng hết sức hiền lành. Hiền lành khi đối diện với những người con khó tính, muốn làm ngược ý mẹ mình, làm những điều phiền lòng mẹ mình. Yêu mến, biết ơn mẹ mình về sự hiền lành, nhẫn nhục, kiên trì và về niềm tin vững vàng, Augustinô kể lại : “Tôi đã làm nước mắt mẹ tôi chảy nhiều như dòng suối, mẹ đã khóc rất nhiều nhưng không làm tôi mềm lòng. Một vị Giám Mục đã an ủi mẹ tôi và nói rằng : “Con bà không hư đâu vì Chúa nhìn tới nước mắt của bà. Một người mẹ đã khóc nhiều và cầu nguyện kiên trì cho con mình thì người con không bao giờ hư mất.”
Thánh Monica rất được mộ mến, nên nhiều người đã nhận tên Thánh Monica. Giáo Hội tôn vinh ngài là bổn mạng của các bà mẹ, cách riêng các bà mẹ Công Giáo. Nhờ có được một Người Mẹ Tuyệt Vời, sau này Augustinô trở thành nhà giảng thuyết hùng biện, học giả uyên bác, một Thánh Giám Mục được phong là Tiến sĩ Hội Thánh.
Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức. Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng, và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.
Ngày lễ Monica cũng quy tụ tất cả chúng ta. Yêu mến, biết ơn, kính trọng các hiền mẫu, chúng ta ước mong các thế hệ hiền mẫu tiếp tục đi theo con đường của Monica. Không những tại nhà thờ, mà còn nơi mỗi gia đình, các hiền mẫu trở nên những người mẹ hiền thật sự, làm cho gia đình mình được ấm cúng thuận hòa, làm cho các thế hệ con cháu trong gia đình và trong giáo xứ được vẻ vang. Như Monica có con cái là triều thiên của mình thế nào, các hiền mẫu trong giáo xứ cũng có các thế hệ con cháu làm vẻ vang cho chính các bà mẹ Công giáo như vậy.
2024
TA TÌM GÌ TRONG CUỘC SỐNG ?
26.8 Thứ Hai Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Ed 24, 15-24; Mt 19, 16-22
TA TÌM GÌ TRONG CUỘC SỐNG ?
Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Chúa Giê-su Ki-tô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giê-su để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất.
Thái độ hiền lành, hòa nhã của Đức Giê-su đã thu hút được đủ mọi hạng người. Một chàng thanh niên giầu có, Lu-ca gọi là “Thủ lãnh” (Lc 18,18-23), đến hỏi Đức Giê-su về điều kiện phải có để được sống đời đời… Qua đối thoại với Chúa Giê-su, anh còn cho biết anh đã tuân giữ tất cả giới răn từ thuở nhỏ. Thấy thiện chí của anh, Chúa Giê-su mời anh tiến một bước xa hơn nữa: bán tài sản, bố thí cho người nghèo, rồi trở lại theo làm môn đệ của Ngài. Điều này đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao. Anh không thể đáp ứng được vì anh có nhiều của cải. Vì thế anh đã buồn rầu bỏ đi.
Mặc dầu anh thanh niên này là một người tốt. Nhưng xét cho cùng, anh ta còn ích kỷ, anh chỉ nghĩ đến thu vào, anh đã có nhiều thứ và anh chỉ muốn có thêm chứ không muốn mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giê-su, anh muốn được thêm sự sống đời đời nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau.
Giữa việc tuân giữ Lề Luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu, người môn đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giê-su Ki-tô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: ”Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta”.
Chúng ta nên lưu ý, Chúa Giê-su không đến đề bần cùng hóa nhân loại, Ngài đến là để con người được sống và sống sung mãn, và cuộc sống sung mãn trong nhân cách dĩ nhiên không hề đồng nghĩa với bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để sống. Tuy nhiên, khi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, Chúa Giê-su muốn chứng minh rằng con người có thể sống sung mãn, mà vẫn không phụ thuộc của cải vật chất. Đối với Chúa Giêsu, siêu thoát đối với của cải vật chất là điều kiện tiên quyết để vào Nước Trời. Đây là lý do tại sao tám mối phúc thật đầu tiên và cơ bản bao gồm các mối phúc khác chính là: ”Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Thật ra, tự nó, của cải không ngăn trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Ki-tô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của nó, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Qua câu chuyện anh thanh niên với Chúa Giê-su, ta thấy con đường nên hoàn thiện phải gồm hai điều: trước hết là phải ước muốn: ”Nếu anh muốn nên hoàn thiện…”. Không thể đạt được điều gì chính đương sự không muốn, không tha thiết. Hễ muốn ta có thể đạt được, như câu ngạn ngữ Pháp: ”Muốn là có thể”; thứ đến, sự hoàn thiện không hệ tại những việc lành làm được, mà ở tại việc đi theo Chúa, gắn bó với Chúa: ”hãy đến theo tôi”. Những việc tốt lành làm được chỉ mới là một phần thiện, còn phải trở nên một với Đấng là “Chân, Thiện, Mỹ” nữa thì mới gọi được là hoàn thiện.
Người thanh niên đã giữ giới răn, đã làm những việc tốt, nhưng điều anh thiếu là chính Chúa. Vì thế phải cảnh giác với thái độ tự mãn rằng khi giữ những giới răn của Chúa và Giáo hội là tôi đã hoàn thiện rồi, trong khi thực ra “Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. Một đời sống không gắn bó với chính Đấng nguồn mạch sự thiện, thì chưa phải là hoàn thiện
Những cản trở giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giê-su, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19, 22).
Đoạn Tin Mừng trên cho thấy: Con đường hoàn thiện dẫn tới sự sống đời đời không phải là việc con người làm, nhưng là tin theo Chúa Giê-su. Nhiều lúc ta cứ tưởng giữ các điều răn cho thật đầy đủ là đương nhiên Chúa trả công cho ta. Ơn cứu độ của chúng ta chỉ được thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ duy nhất đem lại hạnh phúc đích thực cho con người. Tin Chúa và thực hành giáo huấn của Chúa là chìa khoá để chúng ta có được sự sống đời đời.
Câu kết của trang Tin mừng hôm nay đã nói rất rõ lý do tại sao người thanh niên ấy quay lưng với Chúa Giêsu: “vì anh ta có nhiều của cải”. Như thế, phải chăng của cải là thứ rào cản thật lớn lao đối với những người muốn bước theo Chúa trên con đường hoàn thiện?
Tin mừng mở ra là lời mong ước của chàng thanh niên với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?”. Nếu kết hợp với câu cuối thì ta dễ dàng thấy được rằng: đối với người thanh niên, anh ta hầu như có tất cả, có cả về vật chất lẫn tinh thần. Có nhiều vật chất nên anh mới được gọi là người có nhiều của cải, có nhiều về mặt tinh thần vì anh đã thực thi tất cả những gì mà lề luật dạy. Như thế anh nghĩ là anh đang có nhiều điều.
Thế nhưng, những cái có ở thế gian này dường như không làm cho anh thỏa mãn, cho nên, anh muốn có thêm cả nước Trời nữa, nghĩa là anh muốn sở hữu nước Trời như cách mà anh đã từng sở hữu nhiều thứ khác trong cuộc đời này.
Qua câu trả lời, Chúa Giêsu dạy cho chàng thanh niên nhưng cũng nói với mỗi người chúng ta rằng: Nước Trời không phải là thứ để sở hữu, không phải là thứ để mình muốn có là được, nhưng nước Trời hệ tại ở việc mình cho đi và bước theo Chúa. Cho nên Chúa Giêsu mới nói với anh ta rằng: “hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.
Thật vậy, nếu chúng ta không biết sống thanh thoát với của cải, thì chúng ta khó mà thực thi hai giới răn quan trọng nhất của Thiên Chúa, đó là mến Chúa và yêu người. Mà hai giới răn như là “tấm vé” duy nhất để ta có thể tiến vào nước Trời.
2024
Chúa Nhật Tuần XXI – Mùa Thường Niên
Chúa Nhật Tuần XXI – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 85,1-3
Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con.
Xin cứu độ tôi tớ Ngài đây
hằng tin tưởng nơi Ngài.
Chính Ngài là Thiên Chúa của con.
Xin dủ lòng thương con, lạy Chúa,
vì con kêu cầu Chúa suốt ngày.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chúng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Gs 24,1-2a.15-17.18b
Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.
Bài trích sách Giô-suê.
1 Hồi ấy, ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. 2a Ông Giô-suê nói với toàn dân : 15 “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.”
16 Dân đáp lại : “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! 17 Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. 18b Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”
Đáp ca
Tv 33,2-3.17-16.18-19.20-21.22-23 (Đ. c.9a)
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
2Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.3Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
17Chúa đối đầu với quân gian ác,
xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,16nhưng để mắt nhìn người chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
18Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.19Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
20Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,
nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi.21Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn,
dầu một khúc cũng không giập gãy.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
22Quân gian ác chết vì tội ác,
kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân.23Chúa cứu mạng các người tôi tớ,
ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
Bài đọc 2
Ep 5,21-32
Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô.
21 Thưa anh em, vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. 22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.
25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh ; 26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng : Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh.
Tung hô Tin Mừng
- Ga 6,63c.68c
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống ; Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 6,54a.60-69
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
54a Tại hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đã tuyên bố : “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” 60 Nghe vậy, nhiều môn đệ của Người liền nói : “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” 61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông : “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? 63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.
64 “Nhưng trong anh em có những kẻ không tin.” Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp : “Vì thế, Thầy đã bảo anh em : không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.
67 Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai : “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” 68 Ông Si-môn Phê-rô liền đáp : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa nhân từ, Chúa đã dùng hiến lễ duy nhất của Ðức Kitô để quy tụ một đoàn con đông đảo; xin thương tình ban cho Giáo Hội ơn hiệp nhất và bình an. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì chính Người, khi sinh ra đã đổi mới con người cũ, khi chịu khổ hình, đã tẩy xoá tội lỗi chúng con, khi từ cõi chết sống lại, đã khai lối vào chốn trường sinh, và khi lên cùng Chúa là Cha, Người đã mở cửa Nước Trời.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con hát bài ca chúc tụng Chúa và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 103,13-14
Lạy Chúa, đất chứa chan phước lộc của Ngài,
từ ruộng đất, Ngài sản sinh cơm bánh,
và rượu ngon làm phấn khởi lòng người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hưởng trọn vẹn ơn cứu chuộc Chúa đã thương ban, để chúng con ngày thêm mạnh sức và hăng say nhiệt thành. Chúng con cầu xin…
2024
THAY ĐỔI KHI GẶP CHÚA
24.8 Thứ Bảy Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Ed 43:1-7; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Mt 23:1-12
THAY ĐỔI KHI GẶP CHÚA
Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: “Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng” (Ga 1,47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời “Tôi thấy anh ở dưới cây vả” (Ga 1,48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel” (Ga 1,49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, “Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!” (Ga 1,50)
Theo truyền thuyết truyền lại, thì thánh nhân là người có tầm vóc trung bình với mái tóc đen, nước da trắng trẻo, và đôi mắt tròn, lớn ẩn sâu trong hai con mắt hơi rộng, ngày ngày Ngài đọc kinh có tới trăm lần. Giọng nói của Ngài sang sảng và có sức thu hút lạ thường. Vẻ mặt Ngài luôn luôn vui tươi, Ngài cũng được ơn nói nhiều thứ tiếng và biết mọi sự tương lai.
Với những ơn đặc biệt ấy, danh tiếng Ngài chả mấy chốc lừng lẫy như sóng cồn, khiến bao nhiêu con bệnh cũng như bao nhiêu người mắc cơn nguy biến đều tìm đến xin thánh nhân cứu chữa. Bấy giờ vua Pôlêmon (Polemon) có một công chúa bị quỷ ám. Vua đã nhờ các quỷ khác trừ nhưng vô hiệu quả, nghe nói thánh nhân có uy quyền trừ được tà ma, đầu tiên nhà vua không tin, nhưng phần tin công chúa, phần muốn thử tài của Ngài nên vua cho mời thánh nhân tới.
Sau khi cầu nguyện sốt sắng, thánh nhân đã trừ quỷ và chữa cho công Chúa khỏi. Trước phép lạ nhãn tiền này, nhà vua cho người mang vàng bạc hậu tạ thánh nhân, nhưng Ngài một mực khước từ. Một đêm kia vua Polêmon chiêm bao thấy thánh nhân hiện đến và nói với nhà vua rằng: “Tôi đến đây không phải để gầy dựng gia nghiệp, thu tích vàng bạc nhưng để cứu rỗi các linh hồn, giải phóng người ta khỏi ách lầm than của ma quỷ. Đồng thời vua cũng được thánh nhân giảng cho biết qua về Chúa Giêsu và hứa sẽ chỉ tên vạch mặt quỷ Atarôt, bằng cách bắt nó tuyên xưng Chúa Kitô rồi mới trục xuất nó ra một lần nữa. Sự việc xẩy ra y như vua đã chiêm bao: một ngày kia trước mặt vua và cả triều đình thánh nhân công khai bắt tên quỷ Atarôt thú nhận nó là tên lừa bịp dân chúng và là tên phản tặc đối với Thiên Chúa. Đồng thời nó tuyên xưng thánh nhân là tông đồ Thiên Chúa sai đến để truyền bá Phúc âm. Thánh nhân ra lệnh cho nó phải cút khỏi vùng này và cấm từ nay không được lai vãng đến hại dân. Tên quỷ vâng lệnh và “cúp đuôi” biến mất. Bấy giờ dân chúng hết lời ca tụng thánh nhân và đập phá tượng quỷ đang thờ. Chứng kiến phép lạ nhãn tiền này, cả triều vua xin học đạo và chịu phép rửa tội.
Ma quỷ căm giận vì thất bại nên tìm cách trả thù. Chúng xúi giục một số viên chức nổi lên chống đối lại thánh nhân và coi Ngài như kẻ thù phá hoại chùa miếu đền thờ, phá rối an ninh. Rồi tiếng đồn thổi vu cáo thánh nhân mỗi ngày một lan rộng.
Lần kia một số công chức âm mưu đến vu cáo với vua Atigiê (Attiges) em vua Polemê (Polemes) rằng: thánh nhân đã phá hủy đền chùa của họ. Tức giận, Atigiê truyền đưa thánh nhân tới. Trước sân rồng lộng lẫy, thánh nhân đàng hoàng tiến lên tâu trình mọi việc với nhà vua. Đang khi nhà vua sỉ nhục thánh nhân thì tất cả các tượng bụt trong đền vua tự nhiên đổ tan tành, nhà vua nổi nóng hạ lệnh lột da rồi thiêu sinh thánh nhân. Nhưng Chúa toàn năng đã tỏ uy quyền của Ngài để mở mắt cho những kẻ mù tối: qua hai cuộc hành hình thánh nhân vẫn còn sống. Sau cùng thánh nhân bị trảm quyết, ngày 24 tháng 8 năm 52.
Nghe tin thánh nhân bị trảm quyết, cả triều vua Pôlômon vội vã sang xin xác thánh Ngài và an táng rất trọng thế. Để thưởng công vua Pôlômon, sau 30 ngày các vị tông đồ đã truy phong nhà vua lên chức giám mục. Còn vua Atigiê và những kẻ đã nhúng tay hành quyết thánh nhân đều bị bệnh quỷ ám và chết một cách khốn nạn.
Sau khi an táng xác thánh nhân, dân chúng tấp nập đến kính viếng và được hưởng nhiều phép lạ. Nhiều người lương dân thấy vậy đâm ghen tương. Họ bí mật quật mộ và quẳng quan tài Ngài xuống biển. Nhưng Chúa quan phòng đã làm phép lạ khiến tấm quan tài bằng chì của thánh nhân nổi lềnh đềnh trên mặt biển và được sóng biển đưa tới hòn đảo Lipari gần Xixin (Cicile). Tín hữu miền này rước quan tài thánh nhân về miền Bênêven và xây cất đền thờ kính Ngài. Với những phép lạ thời danh Ngài làm, chẳng bao lâu nơi đây trở thành đất hành hương danh tiếng. Năm 983 dưới thời Đức giáo hoàng Grêgôriô V, xác thánh Ngài được di chuyển vể La-mã nằm bên cạnh các Tông đồ khác.
Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.
Trong Phúc âm của thánh Gio-an, thánh tông đồ Ba-tô-lô-mê-ô được gọi với tên là Na-tha-na-en. Cuộc gặp gỡ giữa ngài với Đức Giê-su được thánh sử trình thuật trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Ông Phi-lip-phê, sau khi trở thành môn đệ của Chúa Giê-su, đã muốn giới thiệu Chúa cho ông Na-tha-na-en: Người là Đấng Mê-si-a, con ông Giu-se, người Na-da-rét mà sách luật Mô-sê và các tiên tri nói tới. Nhưng ông Na-tha-na-en có vẻ nghi ngờ về nguồn gốc của Chúa vì có lẽ ông đã được biết thông qua sách vở rằng Đấng Mê-si-a được tiên báo xuất thân từ Be-lem, miền Giu-da. Chính ông cũng đã khẳng định: “Từ Na-da-rét làm sao có gì hay được”.
Tuy nhiên, trước lời mời gọi của ông Phi-lip-phê, ông Na-tha-na-en đã đến gặp Chúa Giê-su. Chúa đã khen ông: “đích thực là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối”. Nhưng sao Na-tha-na-en có thể là một người Ít-ra-en đích thực nếu không chấp nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a, người Na-da-rét? Thật ra, người Ít-ra-en đích thực là người biết từ bỏ những ý nghĩ, tư tưởng của mình khi nó không phù hợp với chương trình của Thiên Chúa; là người sẵn sàng thay đổi, hoán cải theo thánh ý Ngài. Ông Na-tha-na-en là người như thế. Nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su, ông hiểu ra chương trình của Thiên Chúa không giống như những gì con người biết đến hay mong muốn. Ông đã nhận ra sự sai lầm của mình. Ông đã thay đổi ý nghĩ và chấp nhận Chúa Giê-su như Đấng Mê-si-a đích thực qua lời tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính thầy là vua Ít-ra-en”.
Với niềm tin của mình, ông “sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”. Ông sẽ cảm nghiệm được rằng Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể, là Đấng nối kết giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Chính Người là đường đưa con người về chốn trời cao.
Anh chị em thân mến, mừng lễ thánh Ba-tô-lô-mê-ô (với tên khác Na-tha-na-en), chúng ta hãy noi gương ngài để trở thành những Ki-tô hữu đích thực. Giống như thánh nhân, người Ki-tô hữu đích thực là những người biết sẵn sàng thay đổi bản thân sau cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su. Chúng ta đã gặp Người khi đọc, lắng nghe Lời Chúa hay trong việc cử hành các bí tích, cách đặc biệt là bí tích Thánh Thể, hoặc qua từng biến cố cuộc đời… Câu hỏi đặt ra: chúng ta đã thay đổi con người mình chưa? Mỗi người được mời gọi hãy từ bỏ con người cũ với những khuyết điểm, tội lỗi… để trở nên con người mới trong Chúa Giê-su. Như thế, chúng ta đang tuyên xưng niềm tin vào Người qua chính con người cụ thể của chúng ta.