2023
ĐỒNG TIẾN DÂNG HOA TẠI TGP HÀ NỘI: CÙNG MẸ CANH TÂN ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Đồng tiến dâng hoa tại TGP Hà Nội: Cùng Mẹ canh tân đời sống Đức tin
ĐỒNG TIẾN DÂNG HOA TẠI TGP HÀ NỘI: CÙNG MẸ CANH TÂN ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
ý
Trong ngày cuối cùng của tháng hoa kính Đức Mẹ, ngày 31/5/2023, nghìn con tim trong toàn Tổng Giáo phận (TGP) Hà Nội đã quy tụ về Trung tâm Hành hương Sở Kiện (Kiện Khê, Thanh Liêm, Hà Nam) để dâng lên Mẹ Ma-ri-a những đóa hoa cảm tạ và mến yêu. Ban Thánh nhạc TGP Hà Nội được sự khích lệ của Đức Tổng Giám mục (TGM) Giuse Vũ Văn Thiên, quyết định tổ chức đồng tiến dâng hoa năm 2023 để tiếp nối thành công của năm đầu tiên với nhiều hoa trái ý nghĩa.
Chương trình đồng tiến dâng hoa năm nay có chủ đề: “Cùng Mẹ canh tân đời sống Đức tin”, lấy cảm hứng từ bầu khí Năm Canh tân Đời sống Đức tin trong toàn TGP Hà Nội. Chính tình yêu dành cho Đức Mẹ đã nối kết hơn 12.000 giáo dân với 540 đội hoa đến từ các giáo hạt và hơn 20 đội kèn trống của các giáo xứ.
Xem thêm hình ảnh TẠI ĐÂY
Trong lời khai mạc nghi thức dâng hoa vào lúc 17h30, Đức TGM Giu-se nhắc nhớ dâng hoa chính là việc đạo đức bình dân để dâng lên Mẹ những đóa hoa lòng hiếu thảo, cũng là dịp cầu nguyện cho TGP Hà Nội được tràn đầy bình an của Chúa.
Sau lời ca cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, hàng nghìn con hoa với muôn màu áo, sắc hoa dâng lên Mẹ tấm lòng yêu mến. Bất kể giới tính, tuổi tác, vùng miền, tất cả đều hiệp lòng trong bộ dâng “Tháng Năm Mong Ước” với điệu ca truyền thống do Ban Thánh nhạc TGP Hà Nội phát hành.
Với quy mô lớn gấp đôi năm 2022, ngày đồng tiến dâng hoa năm nay khiến nhiều giáo dân không khỏi cảm thán. Một số con hoa lần đầu tiên tham dự dâng hoa đồng tiến toàn TGP cũng bày tỏ niềm vui và cảm nhận được lòng đạo đức sốt sắng thông qua sự kiện này.
Hai năm liền Giáo xứ Sở Kiện được chọn làm địa điểm tổ chức dâng hoa, linh mục chính xứ An-tôn Trần Quang Tiến chia sẻ: “Quy mô của năm nay lớn hơn rất nhiều, vì vậy khâu tổ chức cũng được bàn thảo và tiến hành kỹ lưỡng với quý cha bề trên cùng các ban và hội đoàn trong nhiều tuần qua. Cả một trời hoa không chỉ để tôn vinh Thiên Chúa và ngợi khen Đức Ma-ri-a, nhưng còn thể hiện hình ảnh một Giáo hội hiệp hành”.
Vào lúc 18h00 giờ, Đức TGM Giu-se chủ sự Thánh lễ kính Đức Mẹ thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Đồng tế với ngài có Đức cha Lô-ren-sô, Cha Tổng Đại diện An-tôn, và quý cha đại diện từ 7 Giáo hạt trong TGP Hà Nội.
Trong bài giảng, Đức TGM Giu-se nhắc đến hình ảnh Đức Trinh Nữ Ma-ri-a được tôn vinh qua thơ ca, văn chương và những tác phẩm nghệ thuật nghìn đời qua. Mẹ là Mẹ của nhân loại, của Giáo hội và của mỗi người tín hữu.
Mẹ có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng để hướng dẫn, nâng đỡ tín hữu vững vàng hơn trong đức tin. Đức TGM Giu-se nhấn mạnh nghi thức dâng hoa buổi chiều là để ca ngợi diễm phúc cao quý của Đức Mẹ – mẫu gương trong hành trình đức tin. Mỗi màu hoa thể hiện nhân đức và những thăng trầm của cuộc đời Mẹ.
Ngày lễ kính Đức Ma-ri-a lên đường thăm viếng bà Ê-li-sa-bét cũng nhắc nhớ việc Mẹ đem trao niềm vui và thực thi bác ái. Vì thế, Đức TGM Giu-se mời gọi mỗi tín hữu biết noi gương Mẹ, thực thi lòng yêu mến không chỉ gói gọn trong tháng 5, mà mỗi ngày, mỗi phút giây trong cuộc sống.
Chương trình đồng tiến dâng hoa với quy mô toàn TGP Hà Nội đã khép lại tháng hoa kính Đức Mẹ Ma-ri-a. Hy vọng rằng sau chương trình này, mỗi tín hữu sẽ mang những bông hoa đức tin với lòng tôn vinh Chúa, yêu mến Mẹ Ma-ri-a về nơi các giáo xứ, giáo họ, để từ đó có thể cùng nhau vun đắp đời sống đạo đức nơi quê hương nói riêng và TGP Hà Nội nói chung.
2023
Thánh Antôn Pađua, một đời sống bỏng cháy cho Tin Mừng
13.6 Thánh Antôn đệ Padua, Lmts
2 Cr 1:18-22; Tv 119:129,130,131,132,133,135; Mt 5:13-16
Thánh Antôn Pađua, một đời sống bỏng cháy cho Tin Mừng
Lễ mừng Thánh Antôn ngày 13 tháng 6, Tiến sĩ Giáo Hội là người châu Âu ở thế kỷ XIII, ngài sinh lại Lisbon và là đồ đệ của Thánh Phanxicô, ngài rao giảng ở vùng đất Cathare, nhà sáng lập tu viện ở Brive-la-Gaillarde, ngài qua đời vì kiệt sức ở Pađua.
Ai lại không biết Thánh Antôn Pađua? Tượng ảnh của cha có khắp các nhà thờ. Thánh Antôn Pađua thuộc Dòng Phanxicô, hình ảnh hay gặp của cha là hình ảnh cha bồng Chúa Giêsu Hài Đồng, đôi khi trên tay có cầm hoa huệ hay quyển sách, tượng trưng cho sự hiểu biết Thánh Kinh. Truyền thống dân gian còn cho cha là quan thầy các phép lạ tìm của bị mất.
Ngược với những gì người ta nghĩ, Thánh Antôn Pađua không sinh ra ở Pađua mà sinh ra ở Lisbon năm 1195, cha là người đồng thời với Thánh Phanxicô và có tên là Fernando. Chúng ta có ít thông tin về gia đình và tuổi thơ ấu của ngài. Cha mẹ của cha thích cha là quan tòa, nhưng cha lại thích cầu nguyện. Năm 15 tuổi, cha rời tiện nghi êm ấm của gia đình để vào tu viện các tu sĩ Dòng Thánh Âugutinô.
Tại đây cha nhận được một sự đào tạo xuất sắc về Kinh Thánh và Giáo phụ học. Cha mẹ và bạn bè thỉnh thoảng đến thuyết phục cha, nhưng Fernando đã quyết chí. Thụ phong linh mục năm 25 tuổi, một sự kiện mở ra cho cha các chân trời mới. Tháng 2-1220, các di tích của các vị tử đạo đầu tiên Dòng Phanxicô của Marốc được đem về Bồ Đào Nha. Fernando có gặp họ vài tháng trước đó và được đánh động bởi đức tin và niềm vui của họ. Cha cảm nghiệm một đời sống khác. Cha vào Dòng Phanxicô theo tiếng gọi trong lòng và muốn đi truyền giáo ở châu Phi. Cha lấy tên là Antôn và đi Marốc để chết tử đạo ở đó. Ngài theo thánh ý Chúa. Không phải người Sarrasin làm ngài đau khổ, nhưng việc từ bỏ dự án thiết thân của mình đã làm cho ngài đau khổ. Như thử Chúa muốn cha hy sinh.
Năm 1221, cha đến Axixi sống trong Dòng Phanxicô thời tiên khởi. Trong một lần họp tổng tu nghị nhà Dòng, các sư huynh khám phá tài năng hiểu biết về thần học của cha. Thánh Phanxicô, qua đời năm 1226, rất ấn tượng về cha Antôn. Có tài rao giảng, Antôn đấu tranh với sự lạc giáo của người Cathare ở Ý, rồi người Albigeois ở vùng Midi nước Pháp. Hoàn toàn quên mình, cha sống theo lời mình giảng. Không ai có thể dửng dưng trước sự thật của lời cha giảng. Trong một bài giảng về Chúa Thánh Thần, cha nói: “Lời phải im đi để hành động được nói lên”.
Trang bị một văn hóa thần học phong phú và tình yêu phát xuất từ con người của mình, Antôn rọi sáng khắp nơi. Với sự cho phép của Thánh Phanxicô, cha dạy ở Bologne, Toulouse, Montpellier và Limoges. Cha rút lui về hang đá Brive-la-Gaillarde, nơi đây cha xây lên một tu viện. Chính nơi này mà cha tìm lại một bản thảo bị mất. Từ đó bắt đầu những gì cha làm sau khi qua đời: giúp tìm lại vật đã bị mất.
Nếu có một bài giảng cho chim muông trong câu chuyện cuộc đời của Thánh Phanxicô thì Thánh Antôn có bài giảng cho các con cá. Năm 1227, khi ngài được cử làm bề trên tỉnh dòng Phanxicô miền Bắc nước Ý, thì ngài đối diện với những người lạc giáo ở Rimini. Những người này không muốn nghe ngài, vậy thì ngài giảng Phúc Âm cho các con cá: “Đến với cha hỡi các con cá biển, hãy đến nghe Lời Chúa thay cho những người này, họ từ chối không muốn nghe lời Chúa”. Các người lạc giáo kinh ngạc vô cùng vì hàng ngàn con cá đến nghe.
Có thể đây chỉ là một huyền thoại như rất nhiều huyền thoại của thời Trung cổ… nhưng đức tin của Thánh Antôn không phải là không hấp dẫn đám đông. Họ đến từ khắp nơi để nghe các bài giảng về lòng tốt, về hòa bình. Thánh Antôn không sợ ai, ngài luôn bảo vệ những kẻ bị áp bức. Nhất là ngài tấn công những người làm giàu trên sự khốn cùng của người khác. Trong Lời nguyện Nhập lễ, Giáo Hội xem Thánh Antôn là “người rao giảng lớn lao cho Tin Mừng và là người bảo vệ người nghèo”. Ngài kêu gọi mỗi tín hữu Kitô phải chiêm nghiệm bản tính loài người nơi Chúa Giêsu, đó là đặc nét quan trọng của linh đạo Phanxicô. Một ngày nọ, bá tước Tiso thấy ngài đang ôm Chúa Giêsu Hài Đồng trong tay.
Thánh Antôn lui về tu viện Mẹ Maria ở Pađua. Ngày 13 tháng 6 năm 1231, ngài qua đời vị kiệt sức lúc ba mươi sáu tuổi. Sự cứu rỗi linh hồn là mục đích của đời ngài. Để được cứu rỗi: tâm hồn phải quay về với lòng thương xót Chúa. Sau khi hát kinh Đức Mẹ, lời cuối cùng của ngài là: “Tôi thấy Chúa tôi”. Chỉ một năm sau khi ngài qua đời, Đức Giáo hoàng Grêgôriô IX phong thánh cho ngài. Mộ của ngài trở nên nơi hành hương rất quan trọng. Năm 1946, Đức Giáo hoàng Piô XII phong tước vị “Tiến sĩ Phúc Âm” cho ngài.
Sự tôn kính ngài lan tỏa nhiều nhất vào thế kỷ XV đến XVI. Trở thành bổn mạng Quốc gia Bồ Đào Nha, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha làm cho cả thế giới biết đến ngài. Ngài cũng là bổn mạng của các thủy thủ và người bị tù. Rất nhiều phép lạ của ngài được vẽ qua các danh họa lớn như Titien, Pérugin, Murillo, Van Dyck…
Đặt những huấn dụ về muối và ánh sáng ngay sau Tám Mối Phúc Thật trong Bài Giảng Trên Núi, Phúc Âm theo thánh Mát-thêu muốn khẳng định mạnh mẽ rằng sứ mạng loan báo Tin Mừng thuộc về bản chất của người môn đệ. Muối và ánh sáng là những gì rất tác động. Bản chất của muối là mặn; và muối giúp làm mặn thứ khác. Bản chất của ánh sáng là sáng; và ánh sáng giúp soi sáng xung quanh. Điều thú vị là cả muối và ánh sáng đều rất tĩnh lặng. Chúng có thể làm việc hết công suất mà tuyệt nhiên chẳng gây chút ồn ào nào. Chúng tác động một cách bất khả kháng, song cũng rất âm thầm. Chỉ cần chúng hiện diện đúng như bản chất của mình -là mặn, là sáng- và tự khắc môi trường xung quanh sẽ nhiễm ‘mặn’ và nhiễm ‘sáng’. Thế thôi.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
2023
Ý cầu nguyện của ĐTC trong tháng 6: Cầu nguyện để việc tra tấn bị loại bỏ
Ý cầu nguyện của ĐTC trong tháng 6: Cầu nguyện để việc tra tấn bị loại bỏ

Hồng Thủy – Vatican News
“Làm sao mà con người có thể quá tàn ác như thế?”. Đó là câu hỏi Đức Thánh Cha đặt ra khi nói về vấn đề tra tấn, “một phần lịch sử của chúng ta.”
Ngài lên án không chỉ những hình thức tra tấn bạo lực, nhưng cả những hình thức “tinh vi hơn, chẳng hạn như hạ thấp ai đó, làm tê liệt các giác quan, hoặc giam giữ hàng loạt trong những điều kiện vô nhân đạo đến mức độ tước đi phẩm giá của người đó.”
Lời lên án của Đức Thánh Cha được đưa ra trong bối cảnh ngày 26/6 tới đây là Ngày Quốc tế của Liên Hiệp quốc hỗ trợ các nạn nhân bị tra tấn; bởi vì vào ngày này năm 1987, Công ước của Liên Hiệp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác có hiệu lực. Công ước đã được 162 quốc gia phê chuẩn sau khi được thông qua vào năm 1984.
Tra tấn được thực hiện trong thời cổ xưa. Vào các thế kỷ 18 và 19, các nước phương Tây đã chính thức bãi bỏ việc sử dụng chính thức thông qua hệ thống tư pháp. Ngày nay, nó hoàn toàn bị cấm bởi luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục được thực hiện ở nhiều quốc gia. Kể từ năm 1981, Quỹ của Liên Hiệp Quốc Hỗ trợ Nạn nhân bị tra tấn đã hỗ trợ trung bình 50.000 nạn nhân bị tra tấn mỗi năm tại các quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, tra tấn có xu hướng xảy ra ở các khu vực xung đột.
Trong trường hợp Nga xâm lược Ucraina, đã có báo cáo về các hành động tra tấn do binh lính Nga thực hiện đối với quân lính và thường dân Ucraina. Ngoài ra, và một phần do sự ra đời của các công nghệ mới, việc sử dụng một số hình thức tra tấn phi thể lý, chẳng hạn như tra tấn tâm lý, đã gia tăng. Hơn nữa, vấn đề trầm trọng hơn là tình trạng thiếu trách nhiệm liên tục đối với các hành vi tra tấn và ngược đãi trên phạm vi toàn cầu, một phần do sự phủ nhận có hệ thống, sự cản trở và cố tình trốn tránh trách nhiệm của các cơ quan công quyền gây khó khăn cho việc thống kê và ước tính số nạn nhân.
Do đó, Đức Thánh Cha kêu gọi toàn thể cộng đồng quốc tế “dứt khoát cam kết bãi bỏ việc tra tấn, đảm bảo hỗ trợ các nạn nhân và gia đình của họ”. Trong một bài diễn văn vào năm 2014, Đức Thánh Cha đã chỉ ra rằng “những lạm dụng này chỉ có thể được ngăn chặn với cam kết vững chắc của cộng đồng quốc tế trong việc công nhận […] phẩm giá của con người trên mọi thứ khác.” (CSR_2133_2023)
Tác giả bài viết: Hồng Thủy – Vatican News
2023
Trả lại Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài
6.6 Thứ Ba trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 2:9-14; Tv 112:1-2,7-8,9; Mc 12:13-17
Trả lại Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Máccô tường thuật lại sự việc các người theo phe Hê-rô-đê và bọn Pharisêu toa rập với nhau nhằm tìm cách bắt lỗi để làm hại Chúa Giêsu. Sau khi chúng bàn bạc, lên kế hoạch xong, chúng cắt cử một số người trong bọn đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra một câu hỏi nhằm bặt lỗi Ngài. Cái bẫy mà chúng đã bỏ công ra dàn dựng theo chúng thì thật là hoàn hảo. Trả lời có hay không đều lỗi cả!
Thế nên chúng bắt đầu bằng cách dùng những từ ngữ rất đắc nhân tâm, chúng rào trước đón sau tỏ ra là những kẻ rất chân thành tìm thầy học hỏi. Chúng nói: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Qua màn khen ngợi để Chúa Giêsu rơi vào cái bẫy mà chúng đã giăng sẵn. Chúng đặt câu hỏi: “Vậy có được phép nộp thuế cho Xêda hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?”. Đến đây thì chúng đã lộ nguyên hình của bọn “đểu cáng”.
Mặc dù biết tâm địa xấu xa của bon chúng nhưng Chúa Giêsu chỉ nói với chúng bằng một câu khiển trách rất nhẹ nhàng: “Tại sao các ngươi lại thử tôi”. Vì Chúa Giêsu biết rằng chúng là những kẻ giả hình nên để khỏi rắc rối vì bon chúng. Ngài liền hỏi: “Đem đồng bạc cho tôi xem” Sau khi xem qua đồng bạc Ngài lại hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai?” Chúng đáp: “Của Xê-da” Ngài liền bảo họ: “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Và Kinh Thánh viết tiếp. Họ hết sức ngạc nhiên về Người.
Trong xã hội hiện nay, chúng ta cũng thấy hiện tượng có nhiều kẻ áp dụng “chiêu trò” của bọn người Pha-ri-sêu xưa, chúng hành động rất tinh vi, chúng dùng những lời lẽ rất tốt đẹp để lừa mỵ những kẻ bệnh hoạn tật nguyền, chúng kết bè kết cánh với nhau để trục lợi trên sự đau khổ của đồng loại. Điều nhức nhối là sự lừa gạt ấy lại xảy ra trong một thời gian rất dài mà không ai phát hiện, nhiều khi những người tốt lại cũng bị chúng lợi dụng để vô tình tiếp tay vào công việc bẩn thỉu của chúng. Với danh nghĩa làm việc từ thiện, làm việc nhân đạo như xây chùa chiền, giúp đỡ kẻ khó khăn, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo… rồi chúng trục lợi vơ vét tiền bạc của công chúng!
Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da và trả lại Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Đó là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay. Để áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống hằng ngày hôm nay thì chúng ta phải cần tránh xa những cám dỗ của Ma Quỷ, chúng xúi dục chúng ta làm những việc xấu xa, tham lam của cải bất chính… Những cám dỗ của Ma quỷ thường rất tinh vi nên chúng ta cần sự trợ lực của Chúa, đặc biệt là ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để nhờ Ngài soi dẫn chỉ bảo, chúng ta mới thoát khỏi những mưu mô của chúng mà thôi.
Đồng thời chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người. Chúng ta nhận rất nhiều từ nơi Thiên Chúa như sự sống, tài năng, của cải và sức khỏe… Như vậy chúng ta phải trả lại Ngài bằng cách sống hết lòng thờ phượng, kính mến Ngài. Sống sao cho xứng đáng với những ơn lành Ngài ban. Đem lời Chúa ra thực thi hằng ngày trong cuộc đời mình.
Sống được như vậy thì chúng ta mới thi hành đúng tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay là: Trả lại những gì của Thiên Chúa cho Thiên Chúa và trả lại cho thế gian những gì thuộc về thế gian.
Khi suy niệm về các bài đọc hôm nay, chúng ta được nhắc nhở phải dâng cho Thiên Chúa mọi thứ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo ra mọi thứ và kiểm soát mọi thứ. Ngay cả những người cai trị dân sự cũng có thể là công cụ trong tay của Thiên Chúa, giống như Kyrô, trong bài đọc thứ nhất từ sách Isaia, là người được xức dầu riêng của Thiên Chúa, “Này đây lời Thiên Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu, với Kyrô, kẻ Ta đã cầm tay phải, để bắt các dân suy phục nó, và tước giáp bên hông các vua chúa, để mở cho nó cả hai cánh cửa, khiến không cổng nào còn đóng kín” (Is 45, 1).
Những nhà lãnh đạo ngoại giáo cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa có thể sử dụng họ để mang lại sự thiện hảo cho dân Chúa chọn. Thiên Chúa không gây ra điều ác, tuy nhiên, Thiên Chúa có thể làm cho những điều tốt lành xảy ra ngay cả trong thời điểm tồi tệ. Sự đáp trả của chúng ta là ca ngợi Thiên Chúa và dâng lại cho Thiên Chúa tất cả vinh quang vì những vinh quang đó là do Đấng Tạo Hóa, Đấng Cứu Độ và Đấng Nhân Lành của chúng ta. Thiên Chúa phải được tôn thờ trên hết. Ngay cả những của lễ của ta dâng cho Thiên Chúa, tự cội rễ, cũng đến từ bàn tay của Thiên Chúa.
Chúng ta được nhắc nhở về ba điều cuối cùng trong bài đọc thứ hai trích thư Thánh Phaolô: đức tin, hy vọng và tình yêu, “nhớ lại sự nghiệp của lòng tin, công lao của lòng mến, sự kiên nhẫn cậy trông của anh em trong Chúa” (1 Thes 3). Ba điều này là sự đáp trả của chúng ta trước sự nhân từ của Thiên Chúa, nhưng chúng cũng bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta niềm tin, khả năng tin tưởng. Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa chỉ là sự cảm kích của ta khi được trao cơ hội để tin tưởng. Thiên Chúa đã ban cho ta một lý do để hy vọng, đặc biệt là do sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Hy vọng của ta cũng là một minh chứng cho việc ta chấp nhận điều mà Thiên Chúa hứa ban cho ta. Và tình yêu của ta không bắt nguồn từ ta. Ta không bao giờ có thể yêu, trừ khi ta được yêu trước. Vì vậy, một lần nữa, tình yêu của ta đối với Thiên Chúa là kết quả của việc chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Vậy thì chúng ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa, phải đặt hy vọng của mình vào Thiên Chúa, phải yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và sẵn sàng quy phục tất cả về cho Thiên Chúa vì tất cả những gì ta có là ân huệ của Thiên Chúa trao ban cho ta.