2024
ĐTC Phanxicô: Điểm chung của Giáo hội và các sử gia là tìm kiếm và phục vụ chân lý
ĐTC Phanxicô: Điểm chung của Giáo hội và các sử gia là tìm kiếm và phục vụ chân lý
Sáng thứ Bảy ngày 20/4/2024, gặp gỡ các thành viên của Ủy ban Tòa Thánh về Khoa học Lịch sử, ĐTC Phanxicô nhắc lại lời Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, nói rằng có một mối liên hệ sống còn giữa Giáo Hội và lịch sử, có một điểm gặp gỡ đặc biệt giữa Giáo hội và các sử gia trong việc cùng nhau tìm kiếm và cùng phục vụ chân lý.
ĐTC Phanxicô lặp lại lời của Đức Phaolô VI phát biểu trước các tham dự viên Đại hội đồng Ủy ban Khoa học Lịch sử Quốc tế vào ngày 3/6/1967: “Có thể là ở đây chúng ta tìm thấy điểm gặp gỡ chính giữa quý vị và chúng tôi …, giữa chân lý tôn giáo mà Giáo hội là người bảo vệ và chân lý lịch sử mà quý vị là những người phục vụ tốt lành và cống hiến … Điều này cho phép chúng ta hiểu một tổ chức có tính chất thiêng liêng và tôn giáo như Giáo hội Công giáo quan tâm đến việc tìm kiếm và khẳng định sự thật lịch sử …”.
Tìm kiếm sự thật trên tinh thần đối thoại
Cuộc gặp gỡ với ĐTC Phanxicô diễn ra nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Ủy ban Tòa Thánh về Khoa học Lịch sử cũng như kỷ niệm số 70 của tuyển tập “Công vụ và Tài liệu”, do cùng Ủy ban phụ trách. Theo Đức Thánh Cha, những sự kiện này chứng tỏ sự dấn thân của Ủy ban trong việc tìm kiếm sự thật lịch sử trên quy mô toàn cầu, trên tinh thần đối thoại với những nhạy cảm lịch sử khác nhau và với nhiều truyền thống nghiên cứu khác nhau.
Ngài khuyến khích: “Sẽ rất tốt nếu quý vị cộng tác với những người khác, mở rộng các mối quan hệ khoa học và con người, đồng thời tránh các hình thức khép kín về mặt tinh thần và thể chế”. Ngài nhắc lại điều ngài đã nói với Ủy ban nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập: “Khi gặp gỡ và cộng tác với các nhà nghiên cứu thuộc mọi nền văn hóa và tôn giáo, quý vị có thể đóng góp cụ thể cho cuộc đối thoại giữa Giáo hội và thế giới đương đại”.
Những khẳng định của ý thức hệ tạo nên xung đột
ĐTC Phanxicô nói tiếp: “Giáo hội bước đi trong lịch sử, bên cạnh con người ở mọi thời đại, và không thuộc về bất kỳ nền văn hóa cụ thể nào, nhưng mong muốn làm sinh động trái tim của mọi nền văn hóa bằng chứng từ dịu dàng và can đảm của Tin Mừng, để cùng nhau xây dựng nền văn minh của sự gặp gỡ”. Ngài cảnh giác rằng “những cám dỗ của việc tự quy chiếu theo chủ nghĩa cá nhân và sự khẳng định mang tính ý thức hệ về quan điểm của một người nuôi dưỡng sự thiếu văn minh của xung đột”. Ngài ca ngợi Ủy ban Tòa Thánh về Khoa học Lịch sử đã biết cách chống lại những cám dỗ như vậy, sống với niềm đam mê, qua việc nghiên cứu của mình, kinh nghiệm phục hồi phục vụ cho sự hiệp nhất, cho sự hiệp nhất tổng hợp và hài hòa mà Chúa Thánh Thần tỏ cho chúng ta thấy vào Lễ Hiện xuống”.
Kết thúc bài nói chuyện, ĐTC Phanxicô cầu chúc Ủy ban hoạt động theo tinh thần: “nghiên cứu lịch sử khiến quý vị trở thành thầy dạy cách nhân văn và người phục vụ của nhân loại. (CSR_1691_2024)
Hồng Thủy
2024
4% số tân linh mục ở Hoa Kỳ năm 2024 là người gốc Việt
4% số tân linh mục ở Hoa Kỳ năm 2024 là người gốc Việt
Theo khảo sát thường niên của Trung tâm Nghiên cứu về Hoạt động Tông đồ (CARA) tại Đại học Georgetown, được công bố ngày 15/4/2024, có 4% số ứng viên linh mục trong năm 2024 của Hoa Kỳ là người gốc Việt.
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB) đã ủy quyền cho Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng (CARA) tại Đại học Georgetown thực hiện một cuộc khảo sát hàng năm. Trung tâm đã thực hiện một cuộc khảo sát với 392 ứng viên linh mục, trong số đó có 80% thuộc giáo phận và 20% thuộc các dòng tu. Nhóm đông nhất được khảo sát đang theo học tại các chủng viện ở miền Trung Tây.
4% ứng viên linh mục năm 2024 là người Việt
Kết quả cuộc khảo sát cho thấy hai phần ba ứng viên (67%) là người da trắng, một phần năm (18%) là người gốc Tây Ban Nha/Châu Mỹ Latinh, một phần mười (11%) là người Châu Á/Thái Bình Dương/bản địa Hawaii và 2% là người da màu/người Mỹ gốc Phi.
Trong số tất cả các ứng viên, 23% là người sinh ở nước ngoài. Sau Hoa Kỳ, các quốc gia quê hương của nhiều ứng viên linh mục tại Hoa Kỳ lần lượt là Mexico (5%), Việt Nam (4%), Colombia (3%) và Philippines (2%).
Độ tuổi trung bình trẻ hơn trước đây
Cũng theo kết quả của cuộc khảo sát, hầu hết các ứng viên linh mục tại Hoa Kỳ trong năm 2024 có độ tuổi từ 31 trở xuống, trẻ hơn độ tuổi trung bình trong những năm gần đây. Hầu hết các chủng sinh, theo khảo sát, bắt đầu xem xét ơn gọi linh mục khi mới 16 tuổi, nhưng tiến trình xác định ơn gọi và học hỏi để trở thành linh mục bắt đầu ở tuổi 18.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến ơn gọi
Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng trong Hoạt động Tông đồ cũng liệt kê một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá trình phân định ơn gọi: 29% các ứng viên linh mục có người thân là linh mục hoặc tu sĩ; 89% cho biết đã được khuyến khích suy nghĩ về chức linh mục bởi một người nào đó (thường là bởi cha xứ, bạn bè hoặc giáo dân); 82% có cha và mẹ đều thuộc gia đình Công giáo. Giáo dục Công giáo đóng vai trò quan trọng khi có hơn 30% ứng viên đã theo học các trường tiểu học, trung học và đại học của Công giáo.
Chầu Thánh Thể và đọc Kinh Mân Côi
Chầu Thánh Thể là hình thức cầu nguyện phổ biến nhất của các chủng sinh tốt nghiệp năm nay. 75% cho biết họ thường xuyên chầu Thánh Thể trước khi vào chủng viện. Kinh Mân Côi cũng rất quan trọng đối với những người phân định ơn gọi: 71% linh mục cho biết họ thường xuyên lần hạt Mân Côi trước khi gia nhập chủng viện. Một nửa cho biết họ đã tham dự một nhóm cầu nguyện hoặc Kinh Thánh, và 40% cho biết họ thực hành lectio divina.
Tham gia các hoạt động mục vụ và các cộng đoàn địa phương
Thêm vào đó, các ứng viên linh mục năm nay đã tham gia vào các cộng đoàn địa phương và các hoạt động mục vụ của giáo xứ: 51% tham gia nhóm trẻ của giáo xứ trước khi vào chủng viện, 33% tham gia mục vụ Công giáo tại trường, 28% tham gia Hướng đạo sinh và 24% tham gia Hội Hiệp sĩ Columbus hoặc Hiệp sĩ Peter Claver; 71% đã tham gia hội giúp lễ trước khi vào chủng viện, 48% là người đọc sách, 41% là thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ và 32% là giáo lý viên. (Crux 16/04/2024)
Đài Vatican
2024
Scotland tạm ngừng cho phép trẻ em sử dụng…
Scotland tạm ngừng cho phép trẻ em sử dụng…
SCOTLAND TẠM NGỪNG CHO PHÉP TRẺ EM SỬ SỤNG THUỐC CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH VÀ ỨC CHẾ DẬY THÌ[1]
Bệnh viện tư nhân độc quyền của Scotland đã chính thức tạm ngừng kê đơn thuốc ức chế dậy thì và các loại thuốc nội tiết tố đã được điều chế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi giới tính ở trẻ em, sau khi chính phủ Anh xét lại hiệu quả của những hoạt động đó.[2]
Thông báo này có hiệu quả chấm dứt các hoạt động cung cấp thuốc chuyển đổi giới tính và các cách điều hòa hooc-môn ở trẻ em tại Scotland – chỉ một tháng sau lệnh cấm tương tự của Anh Quốc.
Theo đó, với chính sách mới được chính thức ban hành vào ngày 18 tháng Tư vưa qua, những bệnh nhân mới tại Scotland sẽ phải đợi cho tới khi đủ 18 tuổi mới có thể tiếp cận những loại thuốc hoặc những liệu pháp điều chỉnh hooc-môn ấy. Tuy nhiên, các bệnh nhân dưới 18 tuổi đã bắn đầu điều trị bằng những liệu pháp trên để thực hiện việc thay đổi giới tính thì không buộc phải dừng lại.
“Chúng tôi đã cam kết cung cấp dịch vụ chăm sóc tư nhân tốt nhất cho người trẻ… và chúng tôi cảm thông với những nỗi đau mà sự rối loạn giới tính có thể gây ra”, bản thông cáo từ cơ quan y tế chăm sóc sức khỏe tính dục cho biết.
Bản thông cáo nói thêm, “trong khi sự tạm ngưng này được thực hiện, chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho bất cứ ai cần được chữa trị sự hỗ trợ tâm lý tại trung tâm Young People Gender Service mà họ yêu cầu trong khi chúng tôi xem xét lại những phương án phù hợp với sự phát hiện này”.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe quốc gia Greater Glasgow và Clyde (NHSGGC), một hệ thống ngân sách chăm sóc sức khỏe công để vận hành các bệnh viện tư nhân liên quan tới giới tính, đã chính thức thông báo tới các bệnh nhân về việc tạm dừng dịch vụ trên vào Thứ Năm.
Theo một thông báo của NHSGGC, những liệu pháp này được tạm dừng nhờ những kết quả quan trọng được tìm ra trong cuộc nghiên cứu của Cass: một nghiên cứu toàn diện về những liệu pháp chuyển đổi giới tính cho trẻ em đã được thực hiện bởi chính phủ Anh. Tiến sĩ Hilary Cass, người đưa ra bản báo cáo kết quả đã chỉ ra rằng các lập luận được dùng để biện minh cho việc sử dụng các loại thuốc chuyển đổi giới tính và việc thay đổi Hooc-môn để điều hòa những thay đổi về giới tính ở trẻ em đều dựa trên chứng không thuyết phục, cũng như những nguy cơ đe dọa sức khỏe của trẻ em là không rõ ràng.
Trong một tuyên bố, Emilia Crighton, Giám đốc của Tổ chức Y tế Cộng đồng NHSGGC đã nói rằng: “Những kết quả đến từ cuộc điều tra của Cass là rất quan trọng, và chúng tôi đã xem xét lại sự ảnh hưởng của các liệu pháp trên dựa trên những kết quả lâm sàng mà chúng tôi có được”.
Bà nói thêm: “Bước tiếp theo ở đây là làm việc với Chính phủ Scotland và những đối tác chuyên môn để tìm ra bằng chứng giúp chúng tôi có thể cung cấp những dịch vụ chăm sóc an toàn cho các bệnh nhân của mình”.
Clighton cũng nói rằng “sự nguy hại bủa vây cuộc tranh luận công khai” về những liệu pháp điều trị cho trẻ em bị chứng phiền muộn giới tính “đang ảnh hưởng tới cuộc sống của những người trẻ muốn tìm kiếm một sự chăm sóc nhờ những dịch vụ của chúng ta trong khi không trợ giúp những người đang làm việc chăm chỉ để chăm sóc và giúp đỡ họ”.
Trong khi đó, Tracey Gillies, Giám đốc điều hành của NHS Louthian, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đặt sự an toàn của bệnh nhân lên hàng đầu.
Theo đó, trong một tuyên bố, Gillies đã khẳng định : “Nghiên cứu của Cass là một tín hiệu quan trọng giúp tìm ra giải pháp làm thế nào để NHS có thể có những trợ giúp tốt hơn cho trẻ em và thanh niên những người đang phải đối diện với chứng phiền muộn giới tính”.
Các nhà khoa học ở Mỹ cũng đang nghiên cứu khả năng mà thuốc ức chế dậy thì có thể gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn trên trẻ em. Một nghiên cứu thực hiện bởi bệnh viện tư nhân Mayo vào Tháng Tư đã cho thấy những trẻ nam dùng thuốc ức chế dậy thì có thể phải chịu đựng những tác hại “không thể phục hồi” bởi những tác động của thuốc lên tế bào tinh hoàn.
Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor ở Minnesota, một cơ quan nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực di truyền đã đào tạo ra 5 nhà khoa học đoạt giải Nobel.
Mặc dù một số Bang thuộc Đảng Cộng Hòa tại Mỹ đã bắt đầu cấm các bác sĩ kê đơn những loại thuốc và liệu pháp hooc-môn ấy cho trẻ em, nhưng việc thực hiện các liệu pháp trên vẫn hợp pháp tại hơn phân nữa các Bang trên toàn nước Mỹ. Việc tiếp cẫn những loại thuốc trên và việc tiếp cận liệu pháp chuyển đổi giới tình bằng phẫu thuật đã trở thành nguyên nhân hàng đầu dẫn tới sự chia rẽ giữa hai chính đảng là Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ tại đất nước này.
[1] Nguồn: https://www.catholicnewsagency.com/news/257432/scotland-pauses-sex-change-puberty-blocker-drugs-for-children
[2] Cf. https://www.catholicnewsagency.com/news/257070/breaking-englands-national-health-service-ends-puberty-blockers-for-kids
Khiêm Nhu dịch
2024
Dignitas Infinita: Lời Kêu Gọi Bảo Vệ Phẩm Giá Con Người
Dignitas Infinita: Lời Kêu Gọi Bảo Vệ Phẩm Giá Con Người
Tuyên bố làm rõ cách Giáo hội Công giáo hiểu về phẩm giá và xem xét bốn loại phẩm giá mà con người sở hữu: phẩm giá bản thể; phẩm giá đạo đức; phẩm giá xã hội; và phẩm giá hiện sinh. Tuyên bố cũng khám phá những nền tảng trong kinh thánh và thần học của tư duy này về phẩm giá con người, và theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tuyên bố nêu bật các vấn đề như nghèo đói, cách mục vụ đối với người tị nạn và người xin tị nạn, bạo lực đối với phụ nữ, nạn buôn người và chiến tranh, trong đó phẩm giá con người bị vi phạm nghiêm trọng (xem phần Trình bày về Tuyên bố). Tuyên bố khuyến khích chúng ta vượt qua những khẩu hiệu mơ hồ về phẩm giá con người để xem xét cách chúng ta có thể đưa ra phản hồi Kitô giáo đích thực và hiệu quả hơn.
Chính xác thì bốn loại phẩm giá được đề cập trong Dignitas Infinita là gì? Đối với người Công giáo bình dân, các khái niệm phẩm giá bản thể, phẩm giá đạo đức, phẩm giá xã hội và phẩm giá hiện sinh sẽ không quen thuộc. Tuy nhiên, Tuyên bố kêu gọi người Công giáo xem xét bốn khía cạnh phẩm giá này để hiểu và tôn trọng sự trọn vẹn của con người.
Phẩm giá bản thể học và cách Giáo hội Công giáo Úc bảo vệ nó
Phẩm giá bản thể là trọng tâm của nguyên tắc về phẩm giá con người trong giáo lý xã hội của Công giáo. Bản thể học đề cập đến bản thể hoặc sự tồn tại, vì vậy phẩm giá bản thể là phẩm giá mà con người sở hữu đơn giản bởi vì chúng ta tồn tại và được “Thiên Chúa mong muốn, tạo dựng và yêu thương” (số 7). Nó “không thể xóa nhòa và giữ nguyên giá trị vượt lên trên mọi hoàn cảnh mà con người có thể gặp phải” (số 7). Phẩm giá bản thể của con người mang tính phổ quát – thuộc về tất cả mọi người. Tính chất siêu việt của phẩm giá bản thể có nghĩa là nó có giá trị trong mọi thời đại, địa điểm và hoàn cảnh. Chúng ta có thể thấy lời giảng dạy này được áp dụng trong cách Ủy Ban của Hội đồng Giám mục Công giáo Úc đặc trách về Công lý, Sinh thái và Hòa bình giải thích phẩm giá con người:
“Chúng tôi tin rằng mỗi người được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, đồng thời được ban cho sự tự do và trách nhiệm. Do đó, mỗi người được Thiên Chúa mong muốn cho sự tồn tại và có giá trị khôn lường. Mỗi người đều tiết lộ điều gì đó về chính Thiên Chúa; không có con người nào là dư thừa hay có thể bị coi thường. Hơn nữa, không điều gì một người có thể làm, hoặc điều gì có thể gây ra với họ, có thể tước bỏ phẩm giá của họ. Những tuyên bố về phẩm giá con người đặt ra đối với người khác có thể được hiểu là quyền con người. Những quyền này vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi chúng không được tôn trọng.”
Nhìn ra thế giới xung quanh, chúng ta có thể thấy rằng con người không phải lúc nào cũng sống một cuộc sống có phẩm giá. Đáp lại những thực tế này, một số cơ quan của Giáo hội nói về việc ‘ban phẩm giá cho con người’. Tuy nhiên, tuyên bố Dignitas Infinita nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của phẩm giá của chúng ta. Cũng như chúng ta không thể lấy đi phẩm giá bản thể của người khác, thì chúng ta cũng không thể ban phẩm giá cho người khác. Các khái niệm về phẩm giá đạo đức, phẩm giá xã hội và phẩm giá hiện sinh có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò của mình trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy phẩm giá con người.
Phẩm giá xã hội đề cập đến “chất lượng điều kiện sống của một người” (số 8). Tuyên bố đưa ra ví dụ về nghèo đói cùng cực, trong đó con người “thậm chí không có những thứ tối thiểu cần thiết để sống theo phẩm giá bản thPsể của họ” (số 8). Chúng ta có thể nói rằng những người này đang sống một cách ‘không có phẩm giá’ bởi vì “hoàn cảnh mà họ buộc phải sống mâu thuẫn với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ” (số 8). Khi chúng ta hành động để thay đổi các điều kiện xã hội này, chúng ta không mang lại phẩm giá cho con người, chúng ta đang công nhận phẩm giá của họ và thăng tiến nó bằng cách loại bỏ các rào cản đối với việc thể hiện phẩm giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Mặc dù các Giám mục Úc sử dụng cụm từ phẩm giá xã hội, họ đã đề cập đến nó trong một số lời giảng dạy của họ. Ví dụ, mỗi năm trong bài Đệ trình về Tiền lương Quốc gia, họ đề cao các điều kiện xã hội cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá. Các Tuyên bố về Công bằng Xã hội trong hai năm 2017-2018 Công Việc của Mọi Người và 2013-2014 La-da-rô Cổng Nhà Chúng Ta cũng đề cập đến sự giàu có và nghèo đói dưới góc độ phẩm giá.
Phẩm giá đạo đức, phẩm giá hiện sinh, và cách các Giám mục Úc thảo luận về những vấn đề này
Phẩm giá đạo đức đề cập đến “cách con người sử dụng tự do của họ” (số 7). Những người đã thực hiện những hành động cực kỳ xấu xa có thể “dường như đã đánh mất mọi dấu vết của nhân tính và phẩm giá” (số 7). Có thể nói họ đã đánh mất phẩm giá đạo đức của mình, nhưng không bao giờ đánh mất phẩm giá bản thể học của họ. Thay vì không công nhận và tôn trọng phẩm giá bản thể học của họ, “chúng ta phải nỗ lực hết mình để tất cả những ai đã làm điều ác đều có thể ăn năn và hoán cải” (số 7). Các giám mục của chúng ta đã đề cập đến cách các cuộc đối thoại về “cứng rắn với tội phạm” và hệ thống tư pháp hình sự có thể đánh mất tầm nhìn về phẩm giá bản thể của những người đã làm sai. Trong Tuyên bố Công bằng Xã hội 2011-2012 của họ, Xây Cầu Không Xây Tường, các giám mục không sử dụng thuật ngữ phẩm giá đạo đức, nhưng cách đối xử với phẩm giá của các tù nhân và người từng phạm tội phản ánh sự tương tác của nó với phẩm giá bản thể học.
Trong xã hội Úc, đã có nhiều cuộc thảo luận về ý nghĩa của việc sống hoặc chết trong phẩm giá. Phẩm giá hiện sinh đề cập đến việc chúng ta có trải nghiệm cuộc sống của mình một cách có phẩm giá hay không. Tuyên bố lưu ý rằng “trong khi một số người dường như không thiếu thứ gì cần thiết cho cuộc sống, thì vì nhiều lý do, họ vẫn có thể đấu tranh để sống với sự bình an, niềm vui và hy vọng” và “những căn bệnh nghiêm trọng, môi trường gia đình bạo lực, nghiện ngập, và những khó khăn khác có thể khiến mọi người trải nghiệm điều kiện sống của họ là ‘không có phẩm giá’ so với nhận thức của họ về phẩm giá bản thể không bao giờ có thể bị che khuất” (số 8). Trong những tình huống này, chúng ta được thử thách để giúp mọi người nhận ra và trải nghiệm phẩm giá bản thể học của họ. Giáo huấn của các Giám mục Úc về luật hỗ trợ tự tử là điều đã được nhiều người biết đến. Có lẽ ít được biết đến hơn là giáo lý của họ chống lại bạo lực gia đình, vốn ảnh hưởng không cân xứng đến phụ nữ và trẻ em, ví dụ như Tuyên bố Công bằng Xã hội 2022-2023 của họ, Tôn trọng: Đối đầu với Bạo lực và Lạm dụng. Thuật ngữ phẩm giá hiện sinh không được sử dụng trong các tài liệu này, nhưng khái niệm này được ngụ ý trong lời kêu gọi của các Giám mục đối với phẩm giá con người.
Tuyên bố Dignitas Infinita khuyến khích chúng ta suy nghĩ sâu sắc hơn về phẩm giá con người và thúc đẩy phẩm giá của mỗi người.
Tác giả: Tiến sĩ Sandie Cornish là Giảng viên Cao cấp về Thần học tại Đại học Công giáo Úc và là Thành viên của Bộ Thúc đẩy Phát triển Con người Toàn diện. Bà chuyên về học thuyết, tư tưởng và hành động xã hội Công giáo.
Duc Trung Vu, CSsR chuyển ngữ