2022
Yêu nhau trong giai điệu ngày thường
Yêu nhau trong giai điệu ngày thường
Vượt trên những ngăn cản khuyên lơi của gia đình và bạn bè, vượt qua quãng đường dài tít tắp, và đôi khi vượt trên cả sự chênh lệch tuổi tác hay khác biệt về “môn đăng hộ đối”, nhiều người trẻ ngày nay cảm thấy rằng tình yêu là tất cả, và mọi thứ không phải là vấn đề miễn là họ yêu nhau. Tuy nhiên, khi đam mê cháy bỏng nguội bớt, những cưng chiều tình tứ ban đầu cũng sẽ tàn lụi. Tình yêu dù có lãng mạn, bền chặt đến đâu thì cuối cùng cuộc sống chung của họ cũng không thể bỏ lơ những thứ tầm thường như cơm áo gạo tiền và đủ điều vụn vặt khác. Khi những đôi bạn trẻ thực sự bắt đầu đối mặt với những vấn đề này, các vấn đề khác sẽ lần lượt bị lột trần.
Khoảng thời gian của thời tuổi trẻ, ta yêu nhau bằng tất cả sự say mê, đắm đuối; ta mong muốn mang đến cho nhau những gì lãng mạn, đẹp đẽ và hào hoa nhất. Nhưng tất cả đó là chưa đủ, vì khi quyết định gắn kết với nhau, ta cần sự thức nhận về tình yêu, về anh và em trong “giai điệu ngày thường” vượt trên những dư vang của thời tuổi trẻ cuồng nhiệt. Người ta yêu nhau, sống chung với nhau vì muốn mang bình yên đến cho nhau. Tình yêu không phải một vài lời hứa, tình yêu cũng không phải chỉ bên nhau một, hai ngày, càng không phải những lời thề non hẹn biển được viết trên giấy hay nói suông. Tình yêu là trách nhiệm không từ bỏ, hơn nữa đó là sự đồng hành bình đạm. Tình yêu phải đủ sâu đậm để đi được một đoạn đường dài, nếu không nó sẽ nhanh chóng bị giết chết giữa vô vàn lo toan trong bộn bề cuộc sống. Muốn đi với nhau trên một con đường dài trong một hành trình lâu bền, tình yêu phải là cái gì đó “tự nhiên và tự nguyện” trong chính những giai điệu ngày thường chứ không phải là những rung động trong những lúc nảy lửa của những kỷ niệm nồng nàn ngắn ngủi. Tình yêu càng sâu sắc thì càng ẩn sâu bên trong chứ không nằm ở miệng hay sự thể hiện hời hợt bên ngoài.
Giá trị đích thực của hôn nhân đôi khi không nằm ở sự đúng sai chính yếu, cũng không hệ ở sự ngọt ngào, lãng mạn và bay bổng như những ngày đầu mới yêu mà nằm ở những chi tiết hết sức nhỏ bé trong cuộc sống thường nhật. Đó là những quan tâm chân thành, những hi sinh nho nhỏ hàng ngày không chút đắn đo. Đó là khi trời lạnh, có người nhắc ta mặc thêm áo ấm. Đó là khi ta tăng ca về khuya, trong nhà vẫn có ánh đèn đợi ta về. Đó là khi ta gặp chuyện buồn hay khó chịu, luôn có người sẵn sàng lắng nghe. Mọi khoảng sáng tối của cuộc đời ta đều có một người đồng hành, vui vì niềm vui của ta, buồn vì nỗi buồn của ta. Nếu không có những thứ này, hai người sẽ không thể bên nhau dài lâu được. Trong hôn nhân, một người cố gắng là không đủ, nó cần sự nỗ lực của cả hai. Có những người chia tay không phải vì hết yêu, mà vì quá mệt mỏi để tiếp tục tình yêu ấy…
Trong năm qua, vì lệnh giãn cách xã hội, phần đông người Sài Gòn đã không đi làm, các em học sinh nghỉ học và phải ở trong nhà nhiều tháng. Chắc hẳn chưa khi nào các gia đình Sài Gòn đông đủ lâu dài như thế vì hầu như mọi thành viên trong gia đình, thuộc nhiều thế hệ, nhiều lứa tuổi, đã ở trong nhà nhiều tháng. Không gian chật hẹp với 4 bức tường của căn phòng trọ hay ngôi nhà trong hẻm sâu đã khiến không ít người cảm thấy bức bí, khó chịu và mệt mỏi. Không ít gia đình xảy ra cãi vã xích mích, va chạm về những điều vụn vặt mà trước đây, vì sự bận rộn của công việc và cuộc sống người ta dễ lơ đi nhanh hơn. Chính trong những lúc đồng lao cộng khổ, ta nhận ra sự chân chính của một tình yêu thủy chung. Chính trong những giai điệu của ngày thường, ta nhận ra nhịp điệu của tình yêu, nhịp điệu của cuộc đời vang lên trong mênh mông sâu thẳm.
Gió Biển
2022
Cái động và cái tĩnh của người tu – Một góc nhìn về ơn gọi thánh hiến
Cái động và cái tĩnh của người tu – Một góc nhìn về ơn gọi thánh hiến
Hạt suy tư được gợi hứng từ đoạn Tin Mừng Gioan 8, 1-11
Nếu đoạn Tin mừng Ga 8, 1-11 được chuyển thể thành phim, thì chắc chắn đó sẽ là một bộ phim rất hấp dẫn, vô cùng kịch tính và đầy dãy những hình ảnh đánh động người xem đến từng chi tiết nhỏ nhất. Một cuộc giao tranh giữa động và tĩnh.
Bộ phim của chúng ta được bắt đầu với một cảnh tĩnh: Sau một ngày giảng dạy nhiệt tâm, đám đông ai về nhà nấy, thì Chúa Giêsu đến Núi Ôliu nghỉ ngơi và cầu nguyện một mình cùng Chúa Cha. Sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha thì không cần phải bàn cãi. Chính Người đã khẳng định mạnh mẽ với chúng ta rất nhiều lần: Ta và Cha Ta là một. Khung cảnh trên núi Ôliu có lẽ tĩnh lắm, vì Chúa Giêsu đâu cần nói nhiều với Chúa Cha. Khi hai người đã hiểu nhau và gắn bó khăng khít đến độ nên một thì không cần phải nói gì nhiều. Ngôn ngữ của họ không còn là ngôn ngữ của lời nói nữa, nhưng là ngôn ngữ của sự hiện diện và của ánh mắt; nhiêu đó thôi cũng đã đủ để hiểu tất cả rồi! Cái tĩnh từ sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha là nguồn sức mạnh cho cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu phá vỡ sự im lặng của màn đêm: khi trời vừa sáng, Người đã trở lại đền thờ. Không khí bắt đầu xôn xao và kéo theo cảnh động vào sân đền thờ. Dân chúng đua nhau đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng dạy. Xem ra họ rất thích đến với vị thầy Giêsu này, vì giáo lý của Người thì mới mẻ và Người dạy lại có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ. Thêm vào đó, lâu lâu Người lại ra lệnh cho các thần ô uế, rồi trừ quỷ, rồi chữa bệnh… Quả thật, có một sự sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn đến từ nội tâm, lời nói, cử chỉ và việc làm của Chúa Giêsu. Tất cả đều toát lên cái gì đó rất Chúa, đến độ người ta phải nói với nhau: Ông này thật là một vị ngôn sứ. Ông đúng thật là Đức Kitô…
Cảnh phim bắt đầu sôi động hơn, khi các người Pharisêu và các kinh sư lôi một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu. Một đám đông hầm hầm sát khí và bạo lực, phá tan bầu khí hứng thú của một buổi giảng dạy tôn giáo. Mỗi người một tiếng, kẻ thì bĩu môi, người thì chế giễu, kẻ thì chỉ chỏ, người thì kết án… Cứ thế, cái động ngày càng sôi sục của một phiên tòa đầy âm mưu và nham hiểm đã tràn ngập xung quanh Chúa Giêsu. Đến giây phút này, Người vẫn tĩnh!
“Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Môsê dạy chúng tôi ném đá y. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Một người Pharisêu kênh kiệu hỏi thách, để gài bẫy Chúa Giêsu. Câu hỏi thách ấy như một viên đá đầu tiên ném vào mục tiêu là Chúa Giêsu. Người phụ nữ vẫn đứng giữa họ. Lòng đầy tủi nhục, mặt mũi bết bát xấu hổ. Cái chết đang chờ chị. Sự hối hận hòa theo những giọt nước mắt ăn năn muộn màng rơi xuống ướt đôi bàn chân xinh của chị, chảy vào lòng đất khô cằn như cõi lòng những người đang đứng xung quanh chị.
Đến giây phút ấy, Chúa Giêsu vẫn tĩnh – cái tĩnh của Thiên Chúa. Cái im lặng mà chúng ta vẫn thường lầm tưởng Thiên Chúa làm ngơ trước nỗi đau khổ của con người. Nhưng thực ra đâu phải như thế. Có bao giờ Thiên Chúa làm ngơ trước loài người mà Ngài đã hết lòng yêu thương và dựng nên họ vì chính họ đâu. Ngài đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài cơ mà. Có loài thụ tạo nào được như thế đâu. Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta cách vô điều kiện. Chúa Giêsu đã chứng minh điều đó.
Trước câu hỏi của người Pharisêu, Chúa Giêsu cúi xuống đất và bắt đầu viết. Người viết gì thì chỉ có những người ở đó biết. Nhưng dường như Người đang đan mây dệt gió để tạo một cơn mưa, cơn mưa làm dịu đi những cái đầu động, đang sùng sục sát khí, la lối và kết án. Người nói: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Câu nói ấy như một gáo nước lạnh xối thẳng vào mặt những kẻ đang thù ghét và bày mưu tính kế gài bẫy Người. Nói xong, Chúa Giêsu lại cúi mặt xuống đất lần thứ hai, như thể không muốn nhìn những con người tội lỗi sắp lìa bỏ Ngài mà đi.
Thế rồi, kẻ trước người sau, từng người một, lặng lẽ bỏ đi. Cái sôi động lúc đầu giờ đã trôi đâu mất, nhường chỗ cho cái tĩnh của Chúa Giêsu và người phụ nữ. Đám đông nãy giờ quan sát cũng dần dần rút lui. Ắt hẳn họ cũng đồng tình với bản án ném đá người phụ nữ hư hỏng kia. Điều đó chứng minh một điều: họ đến với Chúa Giêsu chỉ vì vụ lợi thôi, bởi vì họ không hề hiểu gì về giáo lý và hành động yêu thương của Chúa Giêsu. Tất cả sự sôi động đã tan biến chỉ với một câu nói của Chúa Giêsu. Cái tĩnh của Người đã chiến thắng bao nhiêu cái động xung quanh Người.
Tưởng như câu chuyện đã kết thúc ở đó, nhưng chưa. Còn người phụ nữ thì sao? Chúa Giêsu không kết án chị. Người không phủ nhận tội chị đã phạm, nhưng tha thứ cho chị. Tình yêu của Người luôn đi bước trước, tha thứ tất cả và chịu đựng tất cả. Giờ đây, chị không còn đứng giữa một đám đông đòi kết án chị nữa, nhưng chị đứng giữa một tình yêu bao la và lòng thương xót vô hạn của Chúa Giêsu. Chị đứng giữa một Đấng thánh luôn yêu thương chị và hiến mình vì chị và cho cả những kẻ đã kết án chị nữa, dẫu cho từ đầu tới gần cuối câu chuyện, Chúa Giêsu chỉ toàn im lặng và tĩnh mà thôi. Đó là cái tĩnh của tình yêu, cái tĩnh của sự tha thứ vô ngần của Thiên Chúa, mà con người không thể hiểu nỗi.
Trong cuộc sống thường ngày, dường như chúng ta cũng động quá nhiều. Cái động có thể đến từ chính con người chúng ta, hoặc có thể do những sự kiện và biến cố xảy ra hằng ngày, hoặc cũng có thể do người khác mang lại cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta bị cuốn theo những cái động bên ngoài đó, nhưng vẫn cho rằng mình ổn, vì đã thành công lướt thắng được tất cả. Tuy nhiên, nhìn kỹ lại coi: tâm hồn chúng ta có thật sự tĩnh và bình an không? Nếu câu trả lời là không, thì Chúa Giêsu cho chúng ta một giải pháp, để đánh tan mọi cái động đang phá đi sự bình an nội tâm của chúng ta. Cái động làm cho chúng ta thấy mình dường như trống rỗng, mất phương hướng, không tìm ra ý nghĩa của đời sống hiện tại. Cái động làm cho tâm hồn chúng ta nhạt đi, theo cái vô vị của những công việc thường ngày, chứ không còn mặn mòi như thuở ban đầu mới yêu Chúa…
Đức Hồng y Robert Sarah, Tổng trưởng bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa của việc ngày nay người Kitô hữu bị khủng hoảng đức tin, muốn rời bỏ Chúa và Giáo Hội, không còn quan tâm đến người khác mà chỉ sống hưởng thụ cho chính mình. Đó là vì người ta đã không còn kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể nữa. Thánh Thể là nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống đức tin và đời sống Kitô hữu. Một khi đã xa rời nguồn mạch thì làm gì có sự sống nữa? Chúng ta chỉ là những cái xác Kitô hữu không có sức sống, vì không cắm rễ vào nguồn mạch là Chúa Giêsu Thánh Thể.
Tôi có quen một cha xứ nọ. Trước đây ngài là con người rất hiền hòa, vui tươi và hay quan tâm tới mọi người xung quanh. Tuy nhiên, sau khi chuyển đến một giáo xứ có nhà thờ cách khá xa nhà xứ, ngài đã dần dần thay đổi tính cách. Ngài chỉ ở trong nhà thờ mỗi khi dâng thánh lễ. Công việc bao la, công chuyện bao quanh, nào là tương giao với chính quyền đang gây khó khăn, nào là xây dựng, nào là củng cố hội đoàn… Dần dần, điếu thuốc và ly cà phê là bạn đường suy tư của ngài. Cây đàn Guitar là bạn tâm giao chia sẻ vui buồn của đời sống ơn gọi. Chiếc Smartphone là nơi ngài tìm đến, để kiếm một giải pháp cho công việc mục vụ đang làm… Cứ như thế, giờ gặp gỡ và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể đã trở thành xa sỉ đối với ngài lúc nào không hay. Và đó là lý do giải thích cho sự thay đổi tính cách của ngài. Giờ đây, ngài dễ nỗi cáu, ít cười và trầm tư hơn.
Thật ra, đó cũng chính là kinh nghiệm thiêng liêng rất riêng của tôi. Năm Thần 1 và Thần 2, tôi chăm chăm vào học hành, với bao nhiêu là mục tiêu. Rốt cuộc, tôi nhận ra sau này những mục tiêu ấy cũng mục và tiêu hết thôi. Tạ ơn Chúa, sau những năm tháng miệt mài đó, Chúa đã cho tôi nhận ra hình như tôi đang đặt sai mục tiêu. Tôi đi tu đâu phải chỉ để học. Tôi đi tu là để ở lại và sống với Chúa cơ mà. Đại dịch Covid 19 làm tôi sống chậm hơn; những cái đau như nhiễm Virus Covid 19 hay đau chân cả tháng trời củng cố thêm cái chậm và cái tĩnh mà Chúa cần nơi con người tôi, để rồi, tôi khám phá ra Chúa Giêsu Thánh Thể mới là nơi tôi cần tìm đến và sống với. Từ đó, tôi thấy tâm hồn mình được bình an hơn. Và lạ thay, khi dành ít thời gian để học hơn nhưng việc học của tôi lại trở nên dễ dàng và thư thái hơn. Tôi ngủ ngon hơn, da mặt đẹp hơn, sáng hơn và bớt đi mấy nếp nhăn…
Vậy thì đâu là giải pháp cho chúng ta? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời. Đó chính là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Thể. Hãy dành thời gian và không gian riêng tư để kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể. Đừng sợ mất thời gian ngồi trong tĩnh lặng và nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Bởi vì, chính lúc đó, chúng ta đang đắm mình trong nguồn mạch sung mãn của đời sống đức tin của Giáo Hội. Chính những giây phút đó, tâm hồn chúng ta mới tìm được sự bình an đích thực. Sự bình an đủ sức giúp chúng ta chiến thắng được những cái động của thế giới xung quanh, của cái vô vị và nhạt nhẽo hay hiện diện trong đời sống cộng đoàn. Chính cái tĩnh của Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ là nguồn sức mạnh cho cuộc sống và sứ vụ của chúng ta. Cái tĩnh ấy sẽ ban cho chúng ta có đủ sức mạnh để đánh tan mọi cái động của thế gian đang tác động lên chúng ta. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể gìn giữ tất cả chúng ta. Amen.
Giuse hạt bụi tro
2022
Sự thánh thiện của linh mục qua đức ái mục tử
Trong Tông huấn Gaudete et Exsultate (về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày hôm nay), Đức Thánh cha Phanxicô muốn nhấn mạnh đến vấn đề chính yếu về ơn gọi nên thánh mà Chúa nói với mỗi người trong chúng ta, lời mời gọi này Chúa nói một cách cá nhân với từng người là “phải thánh thiện vì Ta là Đấng thánh” (Lv 11,44, x. 1Pr 1,16). Đồng thời, Đức Thánh cha cũng nhắc lại lời khẳng định của Công đồng Vaticanô II rằng: “Tất cả các Kitô hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng được Chúa kêu gọi, để mỗi người một cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành”[1]. Cách riêng khi nói về ơn gọi nên thánh của các linh mục thì trong Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (về tác vụ và đời sống các linh mục) đã nói rõ: cùng chung với các Kitô hữu khác khi được lãnh nhận bí tích Rửa tội các linh mục cũng được mời gọi hướng đến sự hoàn thiện mà Chúa Giêsu đã mời gọi: “Các con hãy trở nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Tuy nhiên, các linh mục còn có một lý do đặc biệt buộc phải đạt tới sự hoàn thiện này, do bởi các linh mục được thánh hiến cho Thiên Chúa qua bí tích Truyền chức thánh. Các linh mục trở nên khí cụ sống động của Đức Kitô Tư Tế vĩnh cửu, để tiếp tục thực hiện các công trình kỳ diệu của Người cho toàn thể xã hội con người qua mọi thời. Vì thế, khi trở thành hiện thân của Đức Kitô theo chức vụ của mình, mỗi linh mục cũng nhận được những ơn riêng, để khi phục vụ dân được trao phó cho ngài cũng như phục vụ toàn thể Dân Chúa, các ngài có thêm khả năng vươn đến sự hoàn thiện của chính Đấng đã trao tác vụ cho các ngài, và để sự yếu đuối của xác thịt phàm nhân được chữa lành nhờ sự thánh thiện của Đấng đã vì chúng ta mà trở nên Vị Thượng tế “thánh thiện, vô tội, vẹn toàn, tách biệt khỏi các tội nhân” [Hr 7,26] (PO 12). Nói tóm lại, các linh mục chúng ta phải trở nên là các linh mục thánh thiện của thời đại ngày hôm nay[2]. Nhưng làm như thế nào để đời sống linh mục trở nên thánh thiện trong thời đại này?
- Sự thánh thiện của linh mục qua đức ái mục tử
Trong bài giáo lý nói về sự thánh thiện vào ngày 13 tháng 4 năm 2011 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã nhắc lại những lời giải thích của Công đồng Vaticanô II để xác định rõ đâu là trọng tâm của sự thánh thiện. Công đồng cho chúng ta biết rằng sự thánh thiện của Kitô hữu không gì khác hơn là sống bác ái một cách trọn vẹn. “Thiên Chúa là tình yêu; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần được ban cho chúng ta (x. Rm 5,5); vì thế, tặng phẩm thứ nhất và cần thiết nhất chính là đức ái, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân vì Ngài” (LG 42).
Bởi vậy, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã chỉ ra phương cách nên thánh của linh mục là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô Mục Tử và là thực thi đức ái trong mục vụ (PDV 27). Hay nói cách khác, các linh mục nên thánh qua việc theo gương mẫu của Chúa Giêsu là Vị Mục tử đích thực biết rõ, yêu thương đàn chiên, đến nỗi hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10,15). Tình yêu dành cho đàn chiên đến nỗi Người chấp nhận chết trên thập giá. Tình yêu của Chúa Kitô không có sự chọn lựa ai để yêu, nhưng dành cho tất cả mọi người, không loại trừ ai. Người đã nhắc chúng ta về điều này khi nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Những lời này cho thấy Chúa Giêsu muốn mọi người có thể đón nhận tình yêu thương của Chúa Cha. Và chính các linh mục được mời gọi để thực hiện sứ vụ này của Chúa Kitô, Vị Mục tử nhân lành yêu thương tất cả mọi người, cả những người không thường xuyên hoặc không bao giờ đến nhà thờ, cả những người chống đối hoặc gây ra các tổn thương cho mình. Bởi lẽ tất cả đều là con Chúa, những người mà Chúa Cha giao phó cho các mục tử chăm sóc[3]. Như thế, linh mục là dấu chỉ hữu hình về tình yêu nhân từ của Chúa Cha[4]. Cũng như, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã khẳng định:
“Thái độ mến Chúa và yêu người là dấu xác nhận người môn đệ đích thực của Đức Kitô” (LG 42). Đây là sự đơn sơ đích thực, sự vĩ đại và chiều sâu của đời sống Kitô hữu, của sự thánh thiện. Đây là lý do tại sao thánh Augustinô, khi chú giải về chương thứ tư trong thư thứ nhất của thánh Gioan, có thể tuyên bố táo bạo: “Dilige et fac quod vis [Yêu và làm những gì bạn muốn]”; và ngài tiếp tục: “bạn có thinh lặng, hãy thinh lặng vì yêu thương; bạn có nói, hãy nói vì yêu thương; bạn có sửa lỗi, hãy sửa lỗi vì yêu thương; bạn có tha thứ, hãy tha thứ vì yêu thương; hãy để tình yêu thương bén rễ trong bạn, vì từ cội rễ này không gì khác ngoài điều thiện mới có thể tiến triển được” (7,8 PL 35). Những ai được tình yêu hướng dẫn, những ai sống bác ái hết mình, đều được Thiên Chúa hướng dẫn, vì Thiên Chúa là tình yêu. Do đó những từ quan trọng này được áp dụng: “Dilige et fac quod vis”, “Yêu và làm những gì bạn muốn”[5].
Như vậy, chính nhờ sống đức ái mục tử trọn hảo mà các linh mục sẽ trở nên thánh thiện như Cha trên trời. Cũng thế, mọi người sẽ nhận ra nơi người linh mục có Chúa trong họ (x.Ga 13,35). Như những gì trong Tông huấn Pastores dabo Vobis đã nói: “Các linh mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Kitô, Vị Mục tử duy nhất và tối cao, bằng cách noi theo lối sống của Người và bằng cách làm sao cho mình như thể được Người xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình” (PDV 15).
- Người linh mục là hình ảnh sống động của Chúa Giêsu – Vị Mục tử nhân lành
Bài tham luận Ước nguyện của giáo dân về linh mục tại Công nghị Tổng Giáo phận Hà Nội (ngày 20 tháng 01 năm 2022) vừa qua, đã nói lên nhiều mong muốn của người giáo dân về linh mục, nào người linh mục là gương sáng trong đời sống dấn thân, người làm chứng cho chân lý, người tốt lành tử tế, trí tuệ… nhưng đặc biệt là giáo dân mong ước linh mục là một chứng nhân tình yêu – Nhìn thấy Chúa nơi linh mục, luôn hạnh phúc với sứ vụ và hết lòng vì tha nhân[6].
Thật vậy, trong thời đại ngày hôm nay, giáo dân mong muốn rất nhiều điều về linh mục. Nhưng chỉ có một điều mong ước là căn bản và cần thiết nhất mà dù trong bất kỳ thời đại nào, dù ở giáo xứ miền quê hay thành thị, dù ở những nơi giàu có hay nghèo khó, đó chính là mong ước giống như ước nguyện của tông đồ Philipphê nói với Chúa Giêsu năm xưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Quả vậy, ước nguyện này của thánh Philipphê cũng chính là ước nguyện của người giáo dân mong muốn nơi linh mục của họ.
Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. Không phải là một nghệ sĩ, không phải một giáo sư, không phải một kỹ sư. Nhưng là một người Cha. Trong một giáo xứ không có nhu cầu cần một kỹ sư hay một nghệ sĩ, nhưng chỉ có nhu cầu cần một người cha. Người mục tử chúng ta hôm nay cũng phải đáp trả cho những con chiên của mình như những gì Chúa Giêsu đã trả lời cho Philipphê: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.” (Ga 14,9-11). Dĩ nhiên là những linh mục chúng ta ngày hôm nay không dám trả lời như Chúa Giêsu đã trả lời với thánh Philipphê. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu phải luôn là khuôn mẫu và luôn là mục tiêu mà các linh mục vươn tới, bằng cách trong nếp sống và sứ vụ của mình mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Để rồi, trong sự e sợ và run rẩy, nhưng với một đức tin mạnh mẽ và can đảm thì người linh mục chúng ta ngày hôm nay cũng dám nói lên rằng: ai nhìn thấy tôi là thấy Chúa Giêsu.[7]
Để có thể trở nên hình ảnh sống động và phản chiếu đức ái mục tử của Đức Giêsu Kitô vị Thượng Tế đời đời một cách rõ ràng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống của người linh mục, ngoài việc thi hành các tác vụ của mình cách ý thức, các linh mục còn tìm thấy các phương thế khác. Đặc biệt là nơi Đức Maria.
- Chúa Giêsu trao ban cho các linh mục những gì quý giá nhất của Người, đó là Thánh mẫu của Người
Công đồng Vaticanô II đã mời gọi các linh mục luôn hướng nhìn Đức Maria như là một mẫu gương hoàn hảo cho sự hiện hữu của các linh mục (PO 18). Ai không biết noi gương đức hạnh của Mẹ Maria thì không phải là người con tận tình. Do đó, linh mục phải nhìn lên Mẹ Maria nếu muốn trở thành một chứng nhân cho đức ái qua việc dâng hiến toàn thân cho Chúa và cho Giáo hội. Cũng như việc chiêm ngưỡng Đức Trinh nữ Maria luôn làm sáng tỏ lý tưởng mà linh mục phải theo đuổi trong sứ vụ chăm sóc đoàn chiên của mình[8]. Bởi thế, Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở: “Các linh mục phải lấy tình con thảo thành kính tôn sùng và mến yêu Đấng là mẹ của Vị Thượng tế đời đời, là Nữ vương các tông đồ và là nguồn trợ lực cho tác vụ linh mục” (PO 18).
Thật vậy, do bởi vai trò quan trọng của Đức Trinh nữ Maria trong đời sống và sứ vụ của linh mục, nên các linh mục đều biết rằng Đức Maria là người mẹ, là nhà đào tạo xuất sắc của chức linh mục, vì Mẹ là người biết cách uốn nắn trái tim linh mục; Do đó, Đức Trinh nữ Maria biết và muốn bảo vệ các linh mục khỏi những nguy hiểm, khi bị kiệt sức và những lúc nản lòng: với sự ân cần của một người mẹ, Mẹ trông nom người linh mục để người con của Mẹ có thể ngày càng thêm khôn ngoan, thêm sức mạnh và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (x. Lc 2,52)[9].
Như vậy, chúng ta nhận ra rằng có một môi liên hệ gần gũi và bền chặt giữa Chúa Giêsu với Đức Trinh nữ Maria và chức linh mục. Như Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã trích dẫn lại lời của một trong những người con hiếu thảo của Mẹ Maria đó là thánh Gioan Maria Vianey, những lời mà cha thánh họ Ars yêu mến và thường xuyên lặp lại: “Chúa Giêsu Kitô, sau khi cho chúng ta tất cả những gì Người có thể cho chúng ta, Người còn muốn làm cho chúng ta thành người thừa kế những gì quý giá nhất của Người, đó là Thánh mẫu của Người”. Điều này áp dụng cho mọi Kitô hữu, cho tất cả chúng ta, nhưng theo một cách đặc biệt là đối với các linh mục. Chúng ta hãy cầu nguyện để Mẹ Maria làm cho tất cả các linh mục trở nên giống với hình ảnh của Chúa Giêsu là con của Mẹ, trong mọi vấn đề của thế giới ngày nay, như những người quản lý kho tàng tình yêu quý giá của Người với tư cách là Vị Mục tử nhân lành. Lạy Mẹ Maria, mẹ của các linh mục, xin cầu bầu cho chúng con![10]
- Vấn tâm
Trong dịp tĩnh tâm hôm nay, chúng ta cùng nhau vấn tâm với những gợi ý từ bài giảng của Đức Thánh cha Phanxicô dành cho các linh mục trong thánh lễ Truyền Dầu ngày 14 tháng 4 năm 2022 vừa qua.[11]
- “Chăm chú nhìn Chúa Giêsu” là một ân sủngmà linh mục chúng ta phải trau dồi. Là điều tốt vào cuối ngày, nhìn lên Chúa, và để Chúa nhìn vào tâm hồn chúng ta, cùng với những người chúng ta đã gặp. Đây không phải là việc đếm tội, nhưng là một chiêm ngắm đầy yêu thương, chúng ta nhìn vào ngày sống của mình với cái nhìn của Chúa Giêsu và như thế nhìn thấy những ân sủng trong ngày, những ân ban và tất cả những gì Người đã làm cho chúng ta, để tạ ơn. Và chúng ta cũng cho Chúa thấy những cám dỗ của chúng ta, để nhận ra và từ chối chúng.
- Có ba không gian của việc tôn thờ ngẫu tượng ẩn giấu,trong đó Ác thần sử dụng các thần tượng của chúng để làm suy yếu chúng ta khỏi ơn gọi làm mục tử và từng chút một, tách chúng ta khỏi sự hiện diện tốt lành và yêu thương của Chúa Giêsu, của Chúa Thánh Thần và của Chúa Cha.
– Thần tượng trong tinh thần thế gian mang tính thiêng liêng đó là “một đề xuất cho cuộc sống, một nền văn hóa của phù du, bề ngoài, hoá trang”. Tiêu chí của nó là sự chiến thắng, một chiến thắng không thập giá… Tinh thần thế gian tìm kiếm vinh quang của chính mình lấy khỏi chúng ta sự hiện diện của Chúa Giêsu khiêm nhường và chịu đau khổ. Chúa gần gũi với mọi người, Chúa Kitô đau khổ với tất cả những người đau khổ. Một linh mục theo tinh thần thế gian không gì khác hơn là một kẻ ngoại đạo khoác áo giáo sĩ.
– Thần tượng Quan tâm trước tiên đến tính thực dụng của những con số được coi là ưu tiên hàng đầu. Những người yêu mến thần tượng ẩn giấu này có thể được công nhận vì tình yêu của họ đối với các số liệu thống kê, những thứ có thể làm mất tính chất con người trong các cuộc thảo luận và lấy số đông làm tiêu chí cho sự phân định. Đây không thể là cách duy nhất và cũng không thể là tiêu chí duy nhất trong Giáo hội của Chúa Kitô. Con người không thể được “đánh số”, và Thiên Chúa không ban Thần khí “bằng thước đo” (Ga 3,34). Thực tế, trong sự quyến rũ của những con số, chúng ta tìm kiếm chính mình và chúng ta hài lòng với sự kiểm soát được đảm bảo bởi lý luận này, vốn không quan tâm đến các khuôn mặt cá nhân và xa rời tình yêu.
– Thần tượng Duy chức năng, nhắm hiệu quả. Điều này có thể quyến rũ nhiều người “nhiệt tình với các danh mục hơn là lên đường”. Tâm thức của người theo chủ nghĩa chức năng hướng đến hiệu quả, không quan tâm đến mầu nhiệm. Từng chút một, thần tượng này đang thay thế sự hiện diện của Chúa Cha trong chúng ta. Cha chúng ta là Đấng Tạo Hóa, nhưng không phải là Đấng chỉ làm cho mọi thứ “hoạt động”. Ngài “tạo nên” chúng ta với tư cách là Cha, với sự dịu dàng, chăm sóc thụ tạo và làm cho con người tự do hơn… Linh mục với tâm thức chức năng nuôi dưỡng chính mình, đó là cái tôi của mình. Theo chủ nghĩa chức năng, chúng ta bỏ qua một bên việc tôn thờ Chúa Cha trong những việc nhỏ và lớn của cuộc đời mình và chúng ta hài lòng với hiệu quả các chương trình của mình.
Trong hai không gian cuối cùng của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu (theo các con số và duy chức năng) chúng ta thay thế hy vọng, là không gian của cuộc gặp gỡ với Chúa, bằng các kết quả thực nghiệm. Đó là một thái độ hư danh về phía mục tử, một thái độ làm tan rã sự kết hợp của dân với Thiên Chúa và định hình một thần tượng mới dựa trên những con số và chương trình: thần tượng “sức mạnh của tôi, sức mạnh của chúng tôi”. Việc che giấu những thần tượng này và không biết cách vạch mặt chúng ra trong cuộc sống hàng ngày làm tổn hại đến lòng trung thành của giao ước linh mục của chúng ta và làm cho mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Chúa trở nên nguội lạnh.
(Trích: Suy niệm tĩnh tâm linh mục Giáo phận Phú Cường, tháng 5/2022)
[1] x. ĐTC Phanxicô, Tông huấn Gaudete Et Exsultate, số 10.
[2] x. ĐTC Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XV (2000), số 3.
[3] x. ĐTC Phanxicô, Bài giảng trước kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Chúa nhật 25/4/2021.
[4] x. Bộ Giáo sĩ, Đào tạo linh mục – 2016 (Bản dịch của Uỷ ban Giáo sĩ và Chủng sinh trực thuộc HĐGMVN), nxb Tôn giáo, 2017, số 35.
[5] ĐTC Bênêđictô XVI, Bài giáo lý nói về sự thánh thiện, 13/4/2011.
https://www.vatican.va/content/benedictxvi/it/audiences/2011/documents/hfben-xvi_aud_20110413.html
[6] x. Bài tham luận Ước nguyện của giáo dân về linh mục https://www.tonggiaophanhanoi.org/bai-tham-luan-uoc-nguyen-cua-giao-dan-ve-linh-muc/
[7] x. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Scoprite la gioia della speranza, Art, Roma 2006.
[8] x. NORBERTO RIVERA, The blessed Virgin Mary in the life and ministry of the priest (Đức Trinh Nữ Maria trong đời sống và sứ vụ của linh mục), Conference at the 2° International meeting of Priests – Yamoussoukro, 09/7/1997. https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cclergy/documents/rc_con_cclergy_doc_19071997_conri_en.html
[9] Ibid.
[10] x. ĐTC Bênêđictô XVI, Bài giáo lý nói về Đức Maria Mẹ của tất cả các linh mục, 12/8./2009.
https://www.vatican.va/content/benedictxvi/it/audiences/2009/documents/hf_ben-xvi_aud_20090812.html
[11] ĐTC Phanxicô, Bài giảng trong thánh lễ Truyền Dầu, 14/4/2022.
https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-04/dtc-phanxico-cu-hanh-le-truyen-dau-tai-den-tho-thanh-phero.htmlLM Phaolô Nguyễn Phú Cường
2022
Đối diện với những thử thách về đức tin
Đối diện với những thử thách về đức tin
Trong hành trình đức tin, có lẽ chúng ta đã từng trải nghiệm: khi thì mình rất mạnh mẽ trong đức tin, nhưng lại có những lúc mình hoang mang, ngờ vực và không tin vào Thiên Chúa; Một lúc nào đó, chúng ta thấy mình hoàn toàn tin tưởng và can đảm bước theo Chúa Giêsu Kitô, nhưng không lâu sau, chúng ta lại thấy nghi ngờ, bất an, và dễ dàng bị khuất phục trước những nỗi sợ hãi phi lý của mình.
Kinh nghiệm của thánh Tôma về sự dao động trong đức tin có thể giúp làm sáng tỏ những trải nghiệm rất phổ biến này. Khi Chúa Giêsu kiên quyết trở lại miền Giuđêa, bất chấp việc người Do Thái ráo riết tìm cách để ném đá và giết chết Người, thánh Tôma đã khích lệ các môn đệ đồng môn của mình rằng: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11,16) Khi đó, đức tin, sự can trường, hăng hái nơi thánh Tôma mạnh mẽ biết bao! Thánh Tôma đã sẵn sàng đi theo Đức Kitô dù có phải đau khổ và thậm chí là phải chết, không những thế, ngài còn khuyến khích những môn đệ khác cũng làm như vậy.
Nhưng rồi, chỉ ít tuần sau đó. Mọi người khác đều đã tin vào Chúa Phục Sinh, ngoại trừ Tôma. Lúc này, thánh Tôma đã định hướng cho mình một đức tin có điều kiện, “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20,25) Người đã từng có đức tin rất mạnh mẽ trước đây, đến nỗi sẵn sàng chịu đau khổ và chết với Đức Kitô thì nay lại đòi phải chạm vào vết thương của Đức Kitô thì mới tin vào sự phục sinh của Người. Người đã từng dẫn đầu nhóm mạnh dạn trong đức tin thì giờ đây lại làm cho những người khác cũng cảm thấy hoài nghi về đức tin của họ vào Đức Kitô Phục sinh.
Chúng ta học được một số điều từ kinh nghiệm của Thánh Tôma về cách động viên bản thân khi chúng ta thấy mình bắt đầu dao động trong đức tin vào Chúa Kitô Phục sinh.
- 1. Những giây phút dao động ấy là những khoảnh khắc mà chúng ta phải nuôi dưỡng lòng biết ơn đối với hồngân đức tin. Đức tin là ânban của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Ðấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, … Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6,44.65) Chúa Giêsu tự nguyện đón nhận thập giá để chúng ta có một đức tin chiến thắng sự chết, “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3,14-15)
Khao khát và quyết tâm theo Chúa Giêsu Kitô trong đức tin và trung kiên tuân giữ lời Người là một món quà của tình yêu thương xót mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Khi đức tin bị dao động, có bao giờ chúng ta dừng lại để tạ ơn về hồng ân đức tin mà Đức Kitô đã ban cho chúng ta trên đồi Canvê và trong Bí tích Rửa tội chưa? Chúng ta biết ơn như thế nào về đức tin mà chúng ta có được vào sự Hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể? Chúng ta có biết ơn về đức tin, mà nhờ đó, chúng ta khiêm tốn xưng thú tội lỗi của mình với linh mục và nhận được ơn tha thứ cùng với sự bảo đảm của chính Thiên Chúa không? Những thử thách trong đức tin là để dẫn chúng ta đến với lòng biết ơn sâu sắc này đối với hồng ân đức tin mà chúng ta dễ dàng cho là đương nhiên.
- 2.Những khi đức tin bị dao động cũng là lúc chúng ta cần đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.Chỉ có Chúa Giêsu Kitô, “Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin của chúng ta” (Dt 12,2) mới có thể dập tắt những nghi ngờ và khôi phục lại đức tin khi chúng ta dao động. Chúng ta không thể giả mạo và cũng không thể khôi phục đức tin chỉ bằng hành động của mình. Không phải câu nói “Chúng tôi đã thấy Chúa” của các tông đồ khác thốt ra có thể phục hồi đức tin của thánh Tôma. Ông cần một cuộc gặp gỡ với chính Chúa Kitô Phục sinh.
Khi trải qua những thử thách đau đớn về đức tin, chúng ta hãy ghi nhớ điều này: “Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Ðấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Ðức Kitô, sẽ cho anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.” (1Pr 5,10) Chỉ Thiên Chúa, Đấng ban đức tin cho chúng ta như một quà tặng mới có thể phục hồi đức tin đó. Thay vì hoảng sợ và từ bỏ đức tin, chúng ta có thể đối phó với đức tin đang chao đảo của mình bằng sự phó thác, kiên tâm chờ đợi Thiên Chúa đổi mới đức tin của chúng ta trong sự tin tưởng.
- 3.Chúng ta phải nuôidưỡng đức tin đang suy yếu của mình bằng cách kiên trì cầu nguyện và học hỏi Lời Chúa. Thánh Tôma tiếp tục nghe theo lời của các tông đồ khác, “Chúng tôi đã thấy Chúa”, ngay cả khi ngài không tin ngay lập tức. Thánh Tôma không chối bỏ nhưng ngài không thể tin vào những lời ấy. Và rồi, chính những lời đó đã giúp Tôma đón nhận một đức tin được phục hồi từ Đức Kitô Phục sinh.
Khi đức tin bắt đầu suy yếu, chúng ta cần nhớ rằng “có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô” (Rm 10,17). Như vậy, chúng ta tạo cơ hội để cho Chúa phục sinh khôi phục và đào sâu đức tin của chúng ta khi chúng ta trung thành dành thời gian cầu nguyện với sự trợ giúp của Lời Chúa.
- 4. Chúng ta đối diện với đức tin đang dao động của mình bằng cách siêngnăng xét mình hơn dưới ánh sáng của Lời Chúa. Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta muốn loại bỏ những trở ngại đối với đức tin, bắt đầu từ tội chưa xưngthú. Vì những tội đó giết chết và làm tổn thương đức tin của chúng ta, nên Chúa Giêsu đã ban cho Hội Thánh phương tiện để tha thứ tội lỗi nhân danh Người và bởi quyền phép của Người, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22)
Tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa không chỉ xóa bỏ tội lỗi mà còn khơi lại nơi chúng ta lòng tin vào Đức Kitô Phục sinh. Đức tin của chúng ta không thể được phục hồi khi chúng ta cố chấp hoặc thỏa hiệp với tội lỗi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,15) Bước đầu tiên của lòng tin mạnh mẽ là việc ăn năn chừa cải khỏi tội lỗi. Lòng thương xót của Thiên Chúa là phương thế dẫn chúng ta đến một đức tin sâu xa vào uy quyền của Đức Kitô Phục sinh, giống như đã xảy ra với thánh Tôma, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
- 5. Chúng ta không được đặt đức tin dựa trên những điều kiện, hoàn cảnh hoặc thành tíchcủa chúng ta trong cuộc đời này. Tôma đã đấu tranh với đức tin của mình bởi vì đólà một đức tin có điều kiện và phụ thuộc vào những gì ông có thể nhìn thấy và chạm vào, “Trừ khi tôi nhìn thấy, tôi chạm vào, tôi cảm thấy…” Niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô Phục sinh cũng mong manh như những điều kiện của cuộc sống khi chúng ta đặt niềm tin ấy vào những điều kiện bên ngoài của mình. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta một đức tin vô điều kiện vì đức tin là hồng ân Người ban tặng cho chúng ta, một đức tin không phụ thuộc vào hoàn cảnh trong cuộc đời này: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”
- 6. Chúng ta phải duy trì sự liên kết trong cộng đoàn đức tin ngay cả khi đức tin của chúng ta chaođảo.Mặc dù chưa thể tin vào việc Chúa Kitô Phục sinh, nhưng thánh Tôma không từ bỏ cộng đoàn đức tin, trái lại, ngài đã ở lại với cộng đoàn cho đến khi Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai chỉ để khôi phục đức tin của ông. Rất có thể, cộng đoàn đã tiếp tục cầu nguyện cho Tôma và kiên nhẫn với ông.
Cũng vậy, chúng ta không được bỏ cộng đoàn đức tin khi gặp thử thách trong đức tin. Đức Kitô luôn luôn trở lại với dân Người để khôi phục đức tin đang suy yếu của họ. Đức Kitô trở lại với chúng ta trong mỗi bí tích, đặc biệt là trong Bí tích Thánh Thể, làm cho những vết thương vinh quang của Người không ngừng hiện diện với chúng ta và chữa lành sự cứng lòng của chúng ta, “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành.” (1Pr 2,24)
- 7.Chúng ta kiên trì trong đức tin cho đến cùng,ngay cả khi đức tin bị lung lay vì chúng ta tin chắc rằng phần thưởng tối hậu cho đức tin của chúng ta là ở trên trời. Chúng ta không thể từ bỏ đức tin vì những điều kiện hoặc trải nghiệm trần thế của mình. Chúa Kitô Phục Sinh đã phán với Thánh Gioan tông đồ khi thánh nhân bị lưu đày rằng: “Ðừng sợ! Ta là Ðầu và là Cuối. Ta là Ðấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.” (Kh 1,17-18) Thánh Gioan thoáng nhìn thấy phần thưởng mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho những ai kiên trì trung thành làm chứng cho Ngài bất chấp những bách hại và gian khổ trong cuộc đời này.
Thật vậy, có rất nhiều thử thách trong cuộc sống đe dọa đức tin của chúng ta. Chúng ta có vô số lý do để từ bỏ đức tin. Chúng ta có vô vàn cuộc đấu tranh nội tâm tưởng như chẳng bao giờ dứt. Chúng ta cảm thấy bất lực khi đối diện với nhiều hành động xấu xa và bất công trong cuộc sống và trên thế giới. Tương lai của chúng ta có thể xuất hiện tối tăm và u ám, với đầy những thách thức và trở ngại. Ngay cả Giáo Hội, như là cộng đoàn đức tin, cũng vướng phải những tai tiếng đáng ghê tởm.
Không phải lúc nào chúng ta cũng tránh được những thử thách này, và chúng ta bị cám dỗ để ngưng lại trên một đức tin có điều kiện, giống như của Thánh Tôma, “Trừ khi tôi thấy, tôi nghe, tôi sở hữu, tôi cảm nhận, tôi thích thú, tôi đạt được …, tôi sẽ không tin.” Chúa Giêsu không ban thưởng cho chúng ta vì đức tin như thế nhưng vì một đức tin không liên quan gì đến điều kiện hoặc thành tích của chúng ta, “Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Bí tích Thánh Thể là cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa Kitô Phục sinh, là nguồn mạch và chóp đỉnh của đức tin của chúng ta. Không phải lúc nào Chúa Giêsu cũng ngăn cản những thử thách về đức tin vì Người muốn rằng nhờ những thử thách mà chúng ta vun trồng một đức tin mạnh mẽ và sống động, điều duy nhất có thể “chiến thắng thế gian” (1Ga 5,4). Chúa Giêsu biết rõ mọi thử thách về đức tin của cá nhân chúng ta hiện nay. Trong tình yêu thương xót, Chúa Giêsu đến để khôi phục và củng cố đức tin đang dao động của chúng ta, để một khi có thể tiến bước theo Người với một đức tin sống động trong suốt cuộc đời, và một ngày nào đó, chúng ta sẽ được thông phần vinh quang với Người trong Vương quốc vĩnh cửu.
Lm. Nnamdi Moneme, OMV – Nguồn: Catholic Exchange (27/4/2022)
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP – Dòng Đa Minh Thánh Tâm