2020
3 bài học từ cuộc đời của thánh nữ Têrêsa Avila cho người Kitô hữu hiện đại
3 bài học từ cuộc đời của thánh nữ Têrêsa Avila cho người Kitô hữu hiện đại
Thánh Têrêsa là một nhà cải cách và một người lãnh đạo vĩ đại. Cuộc sống và các tác phẩm của thánh nhân chứa đựng sự khôn ngoan lớn lao cho những người đi theo Chúa Kitô trong suốt nhiều thế kỷ.
Có rất nhiều vị thánh đáng kính mang tên là Têrêsa – Mẹ Têrêsa Calcutta, Têrêsa thành Lisieux, Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá – đến nỗi vị thánh Têrêsa đầu tiên rất dễ bị bỏ qua. Nhưng thánh Têrêsa Avila được gọi là “Têrêsa cả” vì lý do: Người nữ vĩ đại này đã sống đời thánh thiện và niềm xác tín mạnh mẽ mà những điều đó ghi dấu sáng ngời trong những trang lịch sử. Cuộc đời phi thường của ngài mang lại nhiều bài học cho chúng ta hôm hay; dưới đây chỉ là một số ít trong đó.
- HÃY CẦU NGUYỆN TRƯỚC RỒI MỚI HÀNH ĐỘNG Khi còn là một thiếu nữ, thánh Têrêsa đã bắt đầu cầu nguyện trong cuộc đối thoại suy niệm và chiêm niệm với Thiên Chúa, thường được gọi là “tâm nguyện”, và tình bạn của thánh nhân với Đức Kitô, cùng tình yêu sâu đậm dành cho Người đã theo đó mà triển nở. Tuy nhiên, sau một lần bệnh nặng, thánh nhân đã ngưng cầu nguyện theo phương cách ấy, mà chỉ tham dự những giờ đọc kinh cộng đoàn trong hơn một năm, vì theo như tự truyện của mình, ngài đã thuyết phục bản thân rằng“kiềm chế cầu nguyện là một dấu hiệu của sự khiêm nhường lớn lao hơn.”
Không ngạc nhiên gì, quyết định ngưng nguyện gẫm mang đến cho ngài sự đau khổ trong cảm xúc và tâm hồn. Sau này, ngài đã gọi khoảng thời gian đó là “cám dỗ lớn nhất mà tôi gặp phải” và nói rằng “nó gần như hủy hoại tôi.”
May mắn thay, thánh nhân đã tìm gặp được một linh mục dòng Đaminh thánh thiện và uyên bác làm cha giải tội cho mình, và vị linh mục ấy đã nhanh chóng giúp ngài trở lại. Ngài đã không bao giờ rời bỏ tâm nguyện một lần nữa, và thúc giục mọi người thực hành tâm nguyện như một thói quen thường xuyên. “Những ơn lành mà một người thực hành cầu nguyện nhận được – ý tôi là tâm nguyện – đã được ghi nhận bởi nhiều vị thánh và người đạo đức… Và vì tình yêu của Thiên Chúa, tôi cầu xin bất cứ ai chưa bắt đầu cầu nguyện thì đừng bỏ lỡ một ân phúc lớn lao như vậy.”
Những diễn giải của ngài về tâm nguyện đã trở nên những định nghĩa kinh điển cho việc thực hành thiêng liêng này. Thánh nhân viết rằng tâm nguyện “không là gì khác ngoài sự giao tiếp thân tình, và thường xuyên trò chuyện cách riêng tư, với Đấng mà ta biết Ngài yêu thương ta.” Tình bạn này là nguồn mạch của sự tốt lành vô hạn trong đời sống của một người và mang lại hoa trái thiêng liêng to lớn. Ngài cam đoan với chúng ta: “Không ai xem Thiên Chúa là bạn mà không được thưởng.”
Thánh Têrêsa đã để lại ảnh hưởng to lớn thông qua những cải cách thiêng liêng, những việc tốt lành và những tác phẩm, thậm chí ngài còn trở thành nữ tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên. Tất cả những điều đó phát xuất từ cội nguồn sâu thẳm của tình bạn sâu sắc và mật thiết với Thiên Chúa. Giống như rất nhiều vị thánh vĩ đại khác, cuộc đời của ngài cho thấy rằng những cố gắng trong việc tông đồ luôn phải bắt đầu và cắm rễ sâu trong cầu nguyện. Hãy đặt cầu nguyện và chiêm niệm lên hàng đầu, và ơn gọi cũng như sứ vụ của bạn sẽ tự nhiên tuôn trào từ cội nguồn đó.
- HÃY SỐNG GIỮA NHỮNG NGƯỜI BẠN VÀ NGƯỜI HƯỚNG DẪN TỐT Một đề tài mà thánh Têrêsa đã lặp đi lặp lại trong tự truyện của mình là tầm quan trọng của việc gìn giữ những mối tương quan tốt lành và thánh thiện. Thánh nhân nói về những người bạn và cả những cha giải tội đã đi vào cuộc đời của ngài tại những thời điểm khác nhau và dẫn ngài đến gần hoặc xa Thiên Chúa hơn.Như một bài học có được qua những kinh nghiệm khó khăn, ngài viết:“Tôi đã học được ích lợi to lớn đến từ tình bạn tốt lành.”
Thánh nhân đã nhận thức một cách sâu sắc sự tác động mà những người bạn có thể ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng của một người, đến nỗi ngài khuyến khích những người đang theo đuổi sự thánh thiện hãy cố gắng tìm kiếm những người bạn thánh thiện để cùng đi với họ trên cuộc hành trình đó – những người mà ngày nay chúng ta gọi là “người bạn cùng tiến”.
Ngài viết: “Tôi muốn khuyên những người thực hành cầu nguyện, đặc biệt là lúc khởi đầu, hãy vun đắp tình bạn và mối tương giao với những người khác cùng ý hướng với mình”. Đây là điều quan trọng nhất, không chỉ bởi chúng ta có thể giúp nhau bằng những buổi cầu nguyện chung, mà còn bởi nó mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích khác nữa.”
Thánh nhân đã thấy sự ảnh hưởng của bạn bè như một yếu tố quan trọng đến nỗi trong tự truyện của mình, ngài dừng lại để gửi những lời khuyên đến các bậc cha mẹ của những thanh thiếu niên: “Nếu tôi phải khuyên nhủ các bậc cha mẹ, tôi sẽ bảo họ phải hết sức quan tâm đến những người mà con cái họ kết giao ở độ tuổi đó. Nhiều điều tai hại có thể là kết quả từ mối quan hệ xấu và chúng ta tự bản tính có khuynh hướng làm theo những gì xấu xa, hơn là những điều tốt lành.”
Thanh thiếu niên đặc biệt nhạy cảm với áp lực từ bạn bè, bởi vì nhu cầu để được xã hội chấp nhận của họ ngày càng lớn, nhưng nguyên tắc trên vẫn đúng ở mọi lứa tuổi.
- HÃY LÀM CHO CUỘC SỐNG VÀ CHÍNH BẢN THÂN BẠN TRỞ NÊN NHẸ NHÀNG Người ta nói rằng“các thiên thần bay vì họ khiến bản thân trở nên nhẹ nhàng”. Cho dẫu tuyên bố này có thể bị nghi ngờ về mặt thần học, nhưng thực tế đúng là việc làm cho bản thân trở nên nhẹ nhàng là một dấu hiệu của sự thánh thiện, vì nó đòi hỏi sự khiêm nhường thật sự.
Thánh Têrêsa rất có khiếu hài hước, nhất là khi nhận xét về bản thân và những ý tưởng điên rồ của mình: Thánh nhân thường đề cập đến chuyện đùa vui về điều này hay điều khác, và có lúc ngài viết: “Đôi khi tôi cười chính bản thân và nhận ra mình là một thụ tạo đáng thương”. Sự khiêm nhường của ngài được thể hiện rõ khi ngài kể lại những hành động thiếu suy nghĩ của mình, hay khi liệt kê những lỗi lầm ngài phạm phải qua nhiều năm trong sự thật thà và không hề có ý tự cho mình là công chính.
Làm cho bản thân trở nên nhẹ nhàng sẽ không giúp bạn bay được, nhưng chắc hẳn sẽ làm bạn cảm thấy vui vẻ và dễ chịu. Quan trọng hơn, đó là một thái độ bắt nguồn từ sự hiền lành thánh thiện, và như Đức Kitô nói với những kẻ theo Ngài: “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa là gia nghiệp.” (Mt 5,4)
Sự hiền lành có thể không phải là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến khi nhắc tới một nhà cải cách kiên cường như thánh Têrêsa Avila, nhưng hiền lành thật sự không có nghĩa là rụt rè hay chịu khuất phục. Đúng hơn, nó ám chỉ sự tự chủ giữa nghịch cảnh, một phẩm chất mà thánh Têrêsa thể hiện xuất sắc khi ngài đã đương đầu với nhiều thử thách trong cuộc đời.
Những bài học trên đây chỉ là phần nổi của tảng băng khi nói về sự khôn ngoan vượt thời gian trong những tác phẩm của thánh Têrêsa cả. Để biết thêm, hãy xem 7 câu nói truyền cảm hứng cho cuộc sống từ các tác phẩm của ngài.
“Chỉ tình yêu mới mang lại giá trị cho tất cả mọi thứ.”
“Thật ngu ngốc khi nghĩ rằng chúng ta sẽ vào thiên đàng mà không vào trong chính mình.”
“Bạn ngợi khen Thiên Chúa bằng việc cầu xin những điều tuyệt vời nơi Người.”
“Điều quan trọng không phải là nghĩ nhiều mà là yêu nhiều, và vì vậy, hãy làm điều khơi dậy tối đa tình yêu của bạn.“Vì cầu nguyện không gì khác hơn việc ở trong tương quan tình bạn với Thiên Chúa.”
“Dưới ánh sáng của thiên đàng, thì sự đau khổ tồi tệ nhất trên trái đất cũng chỉ được xem là không nghiêm trọng hơn việc phải trải qua một đêm trong khách sạn thiếu tiện nghi.”
“Tình yêu biến công việc thành sự nghỉ ngơi.”
Tác giả: Theresa Civantos Barber
Chuyển ngữ: Ngọc Quí
2020
Gia đình cầu nguyện
Gia đình cầu nguyện
„Một gia đình cầu nguyện là một gia đình tồn tại. Một gia đình không bỏ cầu nguyện là một gia đình luôn luôn hạnh phúc“ (ĐGH Gioan Phaolo II)
Gia đình là tổ ấm thân thương nhất, là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ khi thất vọng, chán nản,
Gia đình là nơi những món ăn đơn sơ trở thành mỹ vị, là nơi tiền bạc không quý bằng tình yêu, là nơi nối kết các thành viên trong gia đình để trao cho nhau niềm hạnh phúc.
Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình vững chắc thì xã hội thăng tiến. Gia đình lung lay thì xã hội thoái hóa. Vì thế chúng ta hãy trân trọng tạo dựng gia đình thành một tổ ấm đẹp nhất trong cuộc đời chúng ta.
Gia đình yêu thương
Yêu thương con cái, cho chúng đồ chơi đắt tiền, quần áo hàng hiệu, ăn thức ăn ngon… mà vợ chồng bất hòa, cãi nhau hoài thì chỉ là phỉnh gạt con cái mà thôi. Chúng không thể quên được những cãi vã bất hòa của cha mẹ. Đừng để chúng bị tổn thương vì những tự ái của vợ chồng, vì cái tôi của mình.
* Đời sống gia đình luôn ảnh hưởng sâu đậm trên con cái suốt đời. Chúng chỉ tự hào, hãnh diện về tình thương yêu và sự hy sinh của cha mẹ mà thôi. vì thế tình thương yêu chan hòa trong gia đình rất quan trọng và cần thiết
* Hãy tạo dựng một gia đình thương yêu, cha mẹ yêu thương nhau, yêu thương con cái.
*Hướng dẫn con cái yêu thương bà con họ hàng, tạo điều kiện thăm viếng nhau luôn để giữ tình thân gia tộc.
*Dạy con cái biết kính yêu, tôn trọng cội nguồn, tổ tiên, ông bà (cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ tiên)
*Dạy con biết đạo nghĩa và nhân đức của Chúa Giêsu.
Gia đình kỷ Luật:
* Hãy tự có kỷ luật từ chính mình.
* Yêu chồng (vợ) là tự mình phải biết trở nên một người lý tưởng cho vợ (chồng) mình. Tại sao mình chỉ muốn vợ hay chồng mình phải là người lý tưởng của mình mà mình không tự huấn để trở nên người lý tưởng cho người khác.
* Hướng dẫn con cái từng chút một về mọi khía cạnh một cách nghiêm nghị mà mềm dẻo và đầy tình thương.
* Hướng dẫn và chăm sóc tình cảm của con cái với sự giàu có tình thương chan hòa.
* Hướng dẫn con cái biết quý trọng hạnh phúc hơn tiền tài danh vọng.
* Hướng dẫn con cái quý trọng giá trị tinh thần hơn giá trị vật chất.
* Hướng dẫn con cái biết quý trọng thân xác và kỷ luật.
* Hãy kiên nhẫn và mềm mỏng với đứa con ngang bướng, có đứa không bình thường, có đứa chậm lụt v.v…
* Hãy chăm học hỏi từ những người khôn ngoan và những người chuyên môn về tâm lý gia đình
Gia đình cầu nguyện
* Cả gia đình nên cầu nguyện chung trước bàn thờ để củng cố đức tin, trở nên nhân đức.
* Để trở nên tuyệt vời cho nhau và yêu nhau hơn và biết tha thứ cho nhau.
* Để tỉnh thức trước mọi hoàn cảnh và bình tĩnh, bình tâm giải quyết mọi việc.
* Để biết thông cảm và chịu đựng nhau, can đảm chấp nhận những sóng gió xảy đến.
* Để xin Chúa giúp cho mình thắng được tính nóng nảy, chì chiết, dằn vặt, cằn nhằn v.v…
* Để biết hàn gắn những vết nứt nho nhỏ vừa mới xảy ra giữa vợ chồng (vì nếu không hàn gắn ngay thì theo thời gian vết nứt càng lớn dần thì sẽ dẫn đến đổ vỡ).
* Để nhìn nhận những thiếu sót của cá nhân khi sự khác biệt giáo dục của hai gia đình và nhất là khi ai cũng có thể tự lực cánh sinh, không cần dựa vào ai nữa.
Hạnh phúc của con cái là thấy cha mẹ thương yêu nhau, chúng sẽ sung sướng bơi lội thỏa thích trong tình yêu thương nồng nàn của gia đình. Mục đích cuộc sống của chúng ta là làm vinh danh Thiên Chúa và nên hữu ích cho mọi người.
Đức cha Athanasius Schneider thuộc Giáo Phận Karaganda, Kazakistan khuyên: “Tôi muốn đưa ra lời mời gọi – đặc biệt các bạn trẻ và các gia đình trẻ – Xin mọi người hãy vun trồng Đức Tin Công Giáo ngay trong gia đình. Hỡi các cha mẹ trẻ, xin quý vị hãy cầu nguyện chung với con cái – Hãy dạy con cái biết cầu nguyện – Hãy nêu cao gương sáng cho con cái bằng chính cuộc sống đạo đức của quý vị – Hãy truyền thông Đức Tin Công Giáo tuyệt đẹp cho con cái quý vị“
„Tôi nhận Đức Tin Công Giáo qua giòng sữa của mẹ tôi cho tôi bú. Thật là một Hồng Ân trọng đại. Tôi nhớ rất rõ trong thời thơ ấu, lúc ấy hoàn toàn vắng bóng Linh Mục Công Giáo, đều đặn mỗi buổi tối cha mẹ tôi quy tụ 4 đứa con lại và cầu nguyện chung. Chúng tôi quỳ gối trong phòng cùng đọc kinh. Chúa nhật thì giờ đọc kinh chung trở thành buổi cử hành Phụng Vụ Lời Chúa thay cho Thánh lễ“.
Ước mong tất cả những gia đình Công Giáo luôn sống hạnh phúc trong tình thương yêu của Thiên Chúa để làm thăng tiến xã hội và thăng hoa Giáo Hội. EN
2020
Bốn cụm từ về Chúa Giêsu mà bạn không bao giờ nên nói với con mình
Bốn cụm từ về Chúa Giêsu mà bạn không bao giờ nên nói với con mình
Chúng ta nói những từ ấy mà không suy nghĩ, nhưng đôi khi những gì chúng ta nói có thể đẩy con chúng ta dần dần xa Chúa.
Như cô bé Anna nói trong cuốn sách Mister God, This Is Anna, (Thưa Ông Chúa, cháu là Anna đây) chúng ta có thể đặt Chúa vào những chiếc hộp nhỏ. Chúng ta thường giới thiệu cho trẻ em về một vị Chúa “hữu ích”, chẳng hạn như một người phát thưởng, một người làm phép lạ, một người giải thích được mọi chuyện, hoặc thậm chí là một ông ba bị (ông kẹ). Những cụm từ như vậy có thể ảnh hưởng đến con cái chúng ta mãi mãi. Dưới đây là một vài ví dụ về các câu cần tránh sử dụng.
- Tránh thường gọi Chúa Giêsu là “bé nhỏ”
Thực ra không sai khi nói về “Chúa Giêsu bé nhỏ” vì Chúa Giêsu đã được làm người và trước tiên, một cách tự nhiên, là một đứa trẻ nhỏ. Tuy nhiên, không phải là một ý kiến hay khi thường gọi Ngài như vậy bởi vì đối với đứa trẻ, Chúa Giêsu sẽ chỉ là “Chúa Giêsu bé nhỏ”, Hài nhi Giêsu trong cảnh Chúa giáng sinh, hoặc ngôi nhà ở Nazareth. Ngài sẽ trở thành “Chúa Giêsu bé nhỏ cho trẻ em”, bị bỏ lại trong bảo tàng của những món đồ chơi trẻ con và ký ức tuổi thơ. “Chúng ta không học được bất cứ điều gì trong thời thơ ấu mà sau này khi lớn lên chúng ta phải quên nó đi.”
- “Chúa Giêsu không yêu con khi con hành động như vậy”
Nên cấm tuyệt đối công thức này vì nó hoàn toàn sai sự thật. Chúa Giêsu yêu thương vô hạn mỗi người chúng ta, ngay cả khi chúng ta là tội nhân tồi tệ nhất. Một đứa trẻ nghe điều này sẽ lớn lên với nỗi sợ hãi mất đi tình yêu thương của Thiên Chúa và sẽ tin chắc rằng tình yêu này mình phải tự kiếm lấy, rằng Thiên Chúa không yêu thương tội nhân. Những gì cha mẹ nói trong những năm đầu tiên có tác động đến mức đứa trẻ, khi trưởng thành, sẽ được ghi dấu bằng hình ảnh rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta chỉ khi chúng ta cư xử đúng mực.
Tương tự, chúng ta đừng bao giờ nói: “Tôi không thích những cô bé nói dối (hoặc tôi không thích những cậu bé luôn kêu la và thét lác),” như một cách nói ngắn gọn rằng chúng ta không thích việc chúng nói dối. Nhưng điều mà đứa trẻ hiểu lại là chúng ta không thích chúng khi chúng nói dối. Điều này có vẻ chỉ là một điều gì đó nho nhỏ xét theo một cách hiểu nào đó, nhưng giáo dục được tạo nên từ những điều nhỏ nhặt, và trong trường hợp này, chúng ta phải nhớ rằng cách chúng ta yêu thương con cái, cách chúng ta cho chúng thấy tình yêu của mình, sẽ giúp chúng nhận thức và sống tình yêu của Thiên Chúa.
- “Chúa đang phạt con”
Mặc dù đúng là đau khổ là hậu quả của tội lỗi, nhưng việc coi đau khổ hoặc thất bại là hình phạt trực tiếp của một tội cụ thể là sai lầm và nguy hiểm. Hãy nhớ cách Chúa Giêsu trả lời các môn đệ của Ngài, khi họ hỏi Ngài về một người mù: “Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Gioan 9: 2-3). Nếu, khi một đứa trẻ bị tổn thương khi không vâng lời, nó nghe nói rằng đó là hình phạt từ Thiên Chúa, nó sẽ nghĩ rằng đau khổ là việc luôn luôn “đích đáng” và ngược lại, nó nghĩ rằng hạnh phúc hoặc ý tưởng mà nó có về hạnh phúc (sức khỏe, may mắn, không có đau khổ, vui sướng) luôn là một dấu hiệu của lối sống đẹp lòng Thiên Chúa.
- “Chúa Giêsu không vui, con làm tổn thương Ngài”
Không rõ ràng: câu nói này vừa đúng lại vừa sai cùng một lúc. Claire, với vẻ ngoài của một đứa trẻ 10 tuổi, nhận xét: “Chúa Giêsu không thể buồn vì ngài hạnh phúc mãi mãi trên Thiên đàng!” Hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta có thể chỉ ra cho Claire thấy rằng chính tội lỗi của cháu ấy, tội lỗi cháu phạm hôm nay, đã đóng đinh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phải chịu đựng trước tất cả tội lỗi của mọi người trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngay cả đó chỉ là tội lỗi của cháu mà thôi, thì Chúa Giêsu vẫn sẽ ban mạng sống của Ngài. Vì vậy, nói rằng tội lỗi của chúng ta làm cho Chúa Giêsu đau khổ là không sai. Nhưng chúng ta phải cảnh giác: những gì quan trọng không phải là những gì chúng ta định nói, mà là những gì đứa trẻ nhận thức và hiểu được. Đứa trẻ có thể nghĩ rằng hạnh phúc của Chúa Giêsu phụ thuộc vào đứa trẻ, vào hành vi tốt hay xấu của đứa trẻ đó, điều này là sai. Trong thực tế, không phải hạnh phúc của Chúa Giêsu bị phá hủy bởi tội lỗi mà là hạnh phúc của tội nhân bị hủy hoại. Tương tự như vậy, phẩm chất của tình yêu thương của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không phụ thuộc vào sự đáp lại của chúng ta. Thiên Chúa yêu chúng ta một cách tự do, hoàn toàn và vô điều kiện. Đó là tình yêu thương mà chúng ta cần phải rao truyền, lặp đi lặp lại, cho con cái của chúng ta.
2020
Việc linh hướng trong chương trình đào tạo các ứng sinh linh mục ở Chủng viện
- Dẫn nhập: Giáo hội và việc đào tạo cho tác vụ linh mục
Kiểu nói “linh hướng”, nhất là kiểu nói “cha linh hướng / linh giám”, có thể gây ra những hiểu lầm, nên cần được giải thích ngay từ đầu bài viết này. Trong rất nhiều chủng viện, cha linh giám là người chịu trách nhiệm việc đào tạo thiêng liêng, qua việc giảng dạy và cùng lúc đồng hành thiêng liêng với một số chủng sinh (các chủng sinh còn lại được đồng hành bởi các linh mục khác được bổ nhiệm làm việc này). Việc linh hướng vì thế có thể được hiểu theo nghĩa rộng này. Còn ở đây, chúng ta sẽ hiểu việc linh hướng theo nghĩa hẹp, tức là việc đồng hành cá nhân thuộc phạm vi tòa trong. Vì vậy, đây là một việc rất chuyên biệt, đòi hỏi sự liên tục và đều đặn trong suốt thời gian đào tạo.
Mục tiêu căn bản của việc đào tạo ứng sinh linh mục là nhằm giúp các chủng sinh chuẩn bị cho đời sống tương lai qua việc đào tạo nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ cách thích hợp, dựa theo những quy chuẩn đã được đặt ra trong các bản “Ratio” khác nhau của Giáo hội toàn cầu và địa phương. Nhưng bên trong việc đào tạo đó, cần có một sự phân định thiêng liêng nhằm lượng giá khả năng phù hợp của ứng sinh, trước khi giới thiệu lên Đức giám mục để chịu chức. Vì chính Đức giám mục là người, xét cho đến cùng và do trách nhiệm giám mục, chuẩn nhận việc đào tạo ở chủng viện dành cho các ứng sinh của giáo phận mình và quyết định gọi họ vào linh mục đoàn giáo phận hay không. Đức giám mục làm việc này dựa trên sự giới thiệu của Hội đồng chủng viện, mà Hội đồng này, trong một số trường hợp, có thể đưa ra một nhận định tiêu cực nếu họ xét thấy một ứng sinh không hội đủ những yếu tố cần thiết.
Hội đồng này đưa ra nhận định và trình bày với Đức giám mục theo tòa ngoài, dựa trên sự hiểu biết về chủng sinh qua dòng thời gian, và thẩm định khả năng của chủng sinh theo các chiều kích khác nhau của việc đào tạo. Đó là một nhiệm vụ tinh tế, được ủy thác cho các linh mục được xem là có khả năng phán đoán, có kinh nghiệm thiêng liêng và mang tâm thức mục vụ. Nó đòi hỏi một thái độ chia sẻ thật sự đời sống của chủng sinh, một sự cảm thông với những khát vọng của họ, và một cuộc đối thoại huynh đệ chân thành. Đây đích thật là một công việc của Giáo hội, vì chức tư tế của hàng linh mục là nhân danh Chúa Ki-tô mà phục vụ chức tư tế của các tín hữu, nhằm giúp họ tăng trưởng trong đức tin, đức cậy và đức mến. Chính vì vậy mà toàn thể Giáo hội tham gia vào quá trình đào tạo và chọn gọi các ứng sinh lên chức linh mục: Đức giám mục dĩ nhiên là người có thẩm quyền sau cùng, Hội đồng chủng viện được Đức giám mục bổ nhiệm, và sau nữa là tất cả những ai mà Giáo hội tham vấn, gồm linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ, giáo dân, là những người quen biết các ứng sinh và có thể đưa ra ý kiến đánh giá.
Chức tư tế của hàng linh mục là một hồng ân mà Giáo hội nhận được từ Chúa Ki-tô nhằm phục vụ con người, vì thế, chỉ được trao ban cho những ai có khả năng phù hợp theo cái nhìn của Giáo hội để thi hành sứ vụ này. Do đó, cần có một sự phân định dài lâu nhằm xác minh và thử thách các khả năng này. Cả Giáo hội và ứng sinh đều dấn thân vào quá trình này, mỗi bên theo cách thức và vai trò của mình: Giáo hội với tư cách là người chịu trách nhiệm chọn gọi và phong chức linh mục, ứng sinh với tư cách là người trao hiến cách tự do cho Giáo hội để phục vụ. Cả hai đều chỉ có một mục đích: lợi ích của các cộng đoàn tín hữu và của tất cả những ai mà các linh mục tương lai gặp gỡ và thi hành sứ vụ. Đó chính là nền tảng sự tin tưởng mà Giáo hội và ứng sinh dành cho nhau trong suốt những năm tháng đào tạo trước khi chịu chức. Ứng sinh đặt niềm tin vào Giáo hội vì biết Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong Giáo hội, và bởi chính trong Giáo hội và vì Giáo hội mà các linh mục hiến mình phục vụ con người; còn Giáo hội tin tưởng ở các ứng sinh vì biết rằng Chúa Thánh Thần cũng đang hoạt động nơi họ, khiến họ trao ban chính mình với tất cả sự chân thành, không che giấu.
- Niềm tin vào Giáo hội là người mời gọi và sự dấn thân cá nhân cách tự do
Trong viễn tượng này, trở thành linh mục không thể được xem là việc thi hành một ước vọng cá nhân. Các linh mục dấn thân phục vụ Giáo hội qua việc loan báo Tin mừng, và họ nhận sứ vụ này từ Giáo hội. Họ liên kết mật thiết với Giáo hội, không thể tách rời. Họ là thừa tác viên của Giáo hội. Họ nói và hành động nhân danh Giáo hội. Đời sống của một linh mục sẽ ra sao nếu thiếu đi niềm xác tín mà chúng ta đang nói tới đây? Dĩ nhiên đời sống này phải bắt đầu ngay từ thời gian đào tạo. Nó là tiền đề của sự cộng tác mà họ sẽ thể hiện sau này với giám mục của mình, với linh mục đoàn mà họ làm việc chung, và với giáo dân mà họ thi hành tác vụ. Để nhận định dễ dàng hơn, điều cần thiết là các ứng sinh phải bộc lộ con người mình để những người có trách nhiệm đào tạo có thể đánh giá một cách ý thức và đầy đủ về những khả năng thích hợp của ứng sinh đối với sứ vụ linh mục. Nếu họ che giấu những nết xấu trong tính cách của mình hoặc những tình tiết nghiêm trọng của lịch sử bản thân vì sợ không được làm linh mục, thì họ có nguy cơ sống đời linh mục như một cuộc chinh phục cá nhân, chứ không như một hồng ân Chúa ban qua tay Giáo hội.
Một thái độ như vậy, nếu có, là một hình thái phủ định, thường là một cách vô thức, về chính bản tính chức tư tế của hàng linh mục.
Đó là thái độ xem chức linh mục như một giá phải trả, chứ không phải là một hồng ân, xem đó là việc thực hiện một dự án cá nhân, chứ không phải là việc đón nhận một lời mời gọi từ Chúa qua Giáo hội. Dĩ nhiên trong thực tế, mọi việc thường phức tạp hơn, mờ mịt hơn, và khó xác định. Vì thế, điều cốt yếu là giúp các ứng sinh linh mục đừng cư xử như thể là người làm chủ dự án của mình, nhưng là đón nhận dự án đó từ Chúa qua Giáo hội. Đây là một trong những mục tiêu chính yếu của việc đào tạo. Ta có thể nói rằng khi một ứng sinh linh mục chân thành tin tưởng đặt để ơn gọi của mình vào tay Giáo hội, thì người đó sẽ sẵn sàng thi hành sứ vụ của mình với một sự tự do thiêng liêng mang lại hoa trái dồi dào. Nhưng tin tưởng phó thác vào Giáo hội không đồng nghĩa với một thái độ hoàn toàn trơ ì, thụ động. Giáo hội cần sự dấn thân tích cực của các ứng sinh.
Trong phần lớn trường hợp, chính các ứng sinh tự mình đến với Giáo hội, do được thúc đẩy bởi một tiếng gọi nội tâm mà họ nghe được từ giữa cuộc sống Ki-tô hữu và muốn trải nghiệm tiếng gọi ấy, nên họ bày tỏ ước nguyện với Giáo hội. Còn trong một số trường hợp khác, chính Giáo hội, qua trung gian một linh mục hoặc các thành viên của cộng đoàn địa phương, khởi xướng một đề nghị trực tiếp với những bạn trẻ có đời sống Ki-tô hữu mạnh mẽ và xác tín; các ứng sinh lúc đó phải xem câu hỏi người ta đặt ra cho mình như là của chính mình vậy. Dù việc tiếp xúc giữa Giáo hội và ứng sinh có theo hình thức nào đi nữa, thì chính ứng sinh, hoặc là người chủ động bày tỏ ước nguyện của bản thân hoặc là người đón nhận lời mời gọi của Giáo hội, phải cho thấy sự dấn thân tích cực trong việc định hướng đời sống đang mở ra trước mắt mình. Được cụ thể hóa qua việc phong chức, ơn gọi linh mục thật ra là cuộc gặp gỡ giữa hai ước nguyện, thường là mãnh liệt như nhau: một là mong ước của Giáo hội, vì Giáo hội cần các linh mục và ký kết giao ước với những người mà Giáo hội quyết định chọn gọi; hai là ước vọng của ứng sinh, người dấn thân trọn vẹn vào một dự án mà mình xây dựng song cũng đồng thời giao phó nó trong tay Giáo hội.
- Linh hướng: yếu tố hàng đầu trong cơ chế đào tạo
Cần phải luôn nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa hai ước nguyện trên đây và cuộc đối thoại kèm theo đó, nếu người ta muốn định vị đúng việc linh hướng trong toàn thể chương trình đào tạo linh mục. Cuộc đối thoại này được biểu tượng trong lời trao đổi diễn ra trong chính nghi thức truyền chức, giữa vị giám mục và người sắp lãnh nhận chức thánh. Đức giám mục hỏi ứng sinh có muốn được truyền chức và có chấp nhận những đòi hỏi của chức vụ sắp được giao phó cho mình hay không. Câu hỏi này rõ ràng không hoàn toàn mang tính hình thức. Câu trả lời cũng biểu lộ một ý chí tự do và xác quyết mạnh mẽ. “Thưa, con muốn”, lời đáp của người thụ phong có thể được hiểu thế này: “Con muốn với tất cả sức mạnh của ý chí, tận hiến chính mình như một quà tặng tự do tự nguyện”.
Qua cuộc đối thoại này, Giáo hội cho thấy tầm quan trọng của việc bày tỏ ước nguyện nơi các ứng sinh, và của sự tự do nơi họ nữa. Người ta chỉ có thể liều mình sống sứ vụ linh mục, nếu người ta dấn thân với tất cả sức lực và sự quảng đại do lòng khát khao của mình. Chính ở đây, việc linh hướng đóng vai trò quan trọng. Trong việc đào tạo, đây chính là nơi ưu tiên để xem xét và giáo dục ý hướng của các ứng sinh. Vì lý do đó, Giáo hội muốn làm sao để các chủng sinh có được các phương thế linh hướng nghiêm túc và đầy đủ. Các cha linh hướng được Đức giám mục bổ nhiệm, vì đây là một công việc chính thức, đòi hỏi kinh nghiệm và khả năng. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ của cha giám đốc chủng viện là lo liệu làm sao để mỗi chủng sinh có một cha linh hướng, và đảm bảo cho việc lựa chọn linh hướng được hài hòa. Việc lựa chọn cha linh hướng được thực hiện qua trung gian cha giám đốc. Cha giám đốc cũng chính là người mà chủng sinh sẽ thưa chuyện khi muốn thay đổi cha linh hướng. Cha giám đốc phải lưu ý làm sao để việc thay đổi cha linh hướng không phải là một ý thích nhất thời, nhưng nếu ngài nhận thấy có sự thiếu tự do thật sự trong tương quan đôi bên, thì ngài sẽ tạo điều kiện thay đổi dễ dàng, luôn với ý hướng mang lại cho các chủng sinh những phương thế dấn thân cách tự do nhất.
Một điều rất may mắn và vẫn thường xảy ra là, trước khi bước vào giai đoạn đào tạo ở chủng viện, các chủng sinh đã có kinh nghiệm về việc linh hướng, vốn là động lực đưa họ đến ngưỡng cửa chủng viện. Vị linh hướng đã đồng hành với một chủng sinh ở giai đoạn tiền chủng viện này, dù từng có vai trò quan trọng thế nào đi nữa, thì giờ đây cũng phải biết xóa mình đi. Nếu ngài cứ tiếp tục gặp gỡ thường xuyên người thụ hướng cũ của mình, sẽ khiến họ khó tạo lập sự tin tưởng với cha linh hướng mới. Kiểu “linh hướng song đôi” như vậy luôn có hại, người ta không nói cùng một sự việc cho cả hai vị linh hướng, và ít nhiều có khuynh hướng chọn lọc những lời khuyên nhận được. Điều này không có nghĩa là các chủng sinh phải cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ, mà chỉ muốn nói rằng họ phải làm cho mối liên hệ đó tiến triển nhằm giúp cơ chế đào tạo đóng vai trò trọn vẹn hơn.
Như vậy, việc linh hướng không được tách rời khỏi cơ chế đào tạo, ngược lại, nó là thành phần không thể thiếu, tùy theo mức độ trong đó vai trò của cơ chế đào tạo là thiết lập cuộc đối thoại giữa điều mà chúng ta đã gọi là ước vọng của Giáo hội và của ứng sinh, cuộc đối thoại mang ý nghĩa và đạt tới đỉnh cao trong lời vấn đáp ngày lễ phong chức. Thật vậy, việc linh hướng nhằm giúp xem xét và tinh luyện động cơ, ý hướng của người chủng sinh, và nhờ đó giúp họ chuẩn bị cho cuộc đối thoại với Giáo hội. Một cuộc hội thảo cách đây mấy năm, có một bài tham luận về đề tài này mang tựa đề “Việc linh hướng hay sự phòng vệ của người thụ hướng”, như thể người thụ hướng có những lý do để tự bảo vệ mình trước một Giáo hội bị coi là tấn công hoặc đe dọa anh ta. Điều đó là đúng nếu như có một cuộc cạnh tranh giữa đôi bên. Chúng ta đã nhấn mạnh điều này: cả cơ chế đào tạo lẫn người linh mục tương lai đều phụ thuộc vào một thiện ích vượt cao hơn họ: đó là lợi ích của những người nam, người nữ mà người linh mục tương lai nhận lãnh trách nhiệm săn sóc mục vụ. Như vậy, hai bên cùng có chung “lợi ích”. Và sự phân định của mỗi bên được đặt trên một nền tảng chung, đó là thiện ích của Giáo hội. Chính vì vậy, các quyết định sau cùng của họ liên quan đến định hướng chức thánh thông thường phải phù hợp với nhau, vì Chúa Thánh Thần soi sáng cho cả hai, cả cơ chế đào tạo lẫn ứng sinh linh mục. Thế nhưng, việc phân định cũng là việc của con người, và có thể xảy ra là những cái nhìn khác nhau đưa đến những kết luận khác nhau. Đau lòng nhất là trường hợp một ứng sinh cứ khăng khăng theo định hướng của mình, trong khi Hội đồng chủng viện đề nghị người đó từ bỏ ý định tu trì. Từ đó cho thấy tầm quan trọng của việc trao đổi, đối thoại trong suốt quá trình đào tạo. Thật vậy, cha giám đốc chủng viện gặp gỡ mỗi chủng sinh cách đều đặn (kinh nghiệm cho thấy nhịp độ hai lần mỗi năm là tốt) để cho họ biết quá trình tiến triển của mình, theo cách thức mà Hội đồng chủng viện nhìn nhận theo tòa ngoài. Chính trong cuộc gặp gỡ này, cha giám đốc cho chủng sinh biết những điểm tích cực, đồng thời cả những nhận xét tiêu cực nhằm giúp chủng sinh sửa mình. Đôi khi, ngài phải cho chủng sinh biết những e ngại của Hội đồng chủng viện về tương lai của họ, nhằm hướng dẫn họ đặt ra những câu hỏi căn bản hơn nữa về định hướng của mình. Cuộc trao đổi giữa cha giám đốc và chủng sinh tất nhiên sẽ được lặp lại trong việc linh hướng. Cha linh hướng cần lưu tâm nhất đến việc chủng sinh đã hiểu như thế nào về ý kiến mà cha giám đốc đã nói, nhằm giúp họ suy nghĩ và tiến triển hơn trong sự phân định của bản thân.
- Người thụ hướng và cha linh hướng
Không phải cha linh hướng là người phân định, nhưng là chính chủng sinh. Chính chủng sinh là người cho ý kiến về định hướng đời mình, và là người quyết định tiến lên chức linh mục hay không. Người chủng sinh không cần phải đợi cha linh hướng chỉ bảo tương lai của mình. Cha linh hướng hiện diện ở đó là để giúp người chủng sinh phân định, và không làm thay. Chính người chủng sinh dấn thân vào cuộc, và cha linh hướng phải để cho anh được hoàn toàn tự do mà đưa ra một quyết định đầy trách nhiệm.
Một trong những cám dỗ của cha linh hướng, khi thấy người thụ hướng do dự, là tìm cách giải quyết mau chóng tình trạng lưỡng lự của họ, thay vì dùng thời gian để giúp họ định hình tính cách của mình rồi tự quyết định sự việc một cách trưởng thành. Như vậy, nói đúng hơn, không phải cha linh hướng đại diện cho cái được gọi là tòa trong (tức là nơi đưa ra nhận định), nhưng là chính bản thân chủng sinh; cha linh hướng giúp họ làm việc này: là xây dựng con người nhân bản và thiêng liêng của mình làm sao để có thể đưa ra một lựa chọn đúng đắn, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Điều này không có nghĩa là cha linh hướng giữ thái độ im lặng thụ động. Nếu ngài nhận thấy người thụ hướng đang lầm lẫn khi định hướng tiến đến chức linh mục, thì ngài phải cho anh biết điều đó. Trong trường hợp ngược lại, ngài có thể kín đáo cho biết rằng quyết định xin phong chức mà người thụ hướng đưa ra là phù hợp với quá trình phân định bấy lâu nay. Nhưng ngài phải tránh quyết định thay cho người thụ hướng, và đừng đi trước anh trong sự lựa chọn này.
- Tôn trọng tự do của ứng sinh và sự tin tưởng của họ đối với cha linh hướng
Bây giờ ta hãy trở lại với ý tưởng đã được đề xuất trên đây: trong việc đào tạo, linh hướng là nơi ưu tiên để xem xét và giáo dục ý hướng của các ứng sinh. Nơi ưu tiên có nghĩa không phải là nơi duy nhất, vì toàn bộ việc đào tạo góp phần vào đó. Tuy nhiên, chính trong khuôn khổ việc linh hướng mà người ta có thể nhìn lại và tóm kết cả cuộc đời mình; những tình tiết cuộc đời xem ra rời rạc giờ đây có thể gắn kết làm một; người ta có thể dệt nên tấm lưới đan kết các sự kiện với nhau, nhờ vào khoảng cách mà cuộc trao đổi với cha linh hướng mang lại; toàn bộ đời sống nhờ đó mặc lấy ý nghĩa, tìm thấy lối đi và định hướng, qua việc đặt mọi phần của cuộc sống vào đúng vị trí trong lịch sử bản thân.
Việc xếp đặt lại mọi sự này sẽ được làm tốt hơn nhiều nếu người chủng sinh chịu để cho ánh sáng chiếu soi cách trung thực trên những động lực, ý hướng sâu xa của mình, trên những góc mờ khuất nhất của con người mình, nhằm giúp nhận ra bản thân cách tốt hơn, và nhờ vậy cho phép cha linh hướng giúp mình cách hiệu quả nhất. Như vậy, trung thực về bản thân rõ ràng là một đòi buộc, nhưng cũng là một trong những điều kiện thiết yếu để tiến bộ về đàng thiêng liêng, để thật sự chấp nhận bản thân trước mặt Chúa, để đón nhận với sự biết ơn lòng thương xót của Chúa, để lượng giá chính xác các khả năng của mình theo cái nhìn của Chúa, và nhờ đó có đủ thành thật khi tự hiến để phục vụ Giáo hội.
Như thế, trong việc linh hướng, rõ ràng người khởi xướng không phải là cha linh hướng, mà phải là chủng sinh. Đã hẳn, cha linh hướng có thể thúc đẩy, khuyến khích, khuyên bảo, nhưng không làm thay người thụ hướng. Duy chỉ người thụ hướng có khả năng mở rộng cánh cửa tâm hồn, điều mà mọi truyền thống linh đạo đều xem là một điều kiện thiết yếu để tiến bộ về đàng thiêng liêng. Chỉ khởi đi từ việc rộng mở lương tâm này mà cha linh hướng mới có thể, bằng kinh nghiệm và sự cảm thông chân thành của mình, giúp người thụ hướng làm sáng tỏ hết sức có thể những gì còn tối tăm mờ mịt trong đời sống của họ, giúp họ nhận ra ý muốn của Chúa và đưa ra quyết định cần thiết qua việc phân định.
Điều này giả thiết người thụ hướng phải có một sự tin tưởng đặc biệt đối với cha linh hướng. Người ta không thể vén mở lương tâm và bày tỏ những động cơ sâu kín của lòng mình, nếu lo ngại trước những phản ứng của người nghe, hoặc cảm thấy không được thông hiểu, thậm chí bị xét đoán. Ít ra người thụ hướng cần được an tâm về sự kín đáo của cha linh hướng. Về vấn đề này, luật giữ bí mật phải được áp dụng. Đó là điều kiện cần thiết để người thụ hướng có thể thổ lộ với tất cả tự do. Đã xảy ra trường hợp luật này bị đặt vấn đề. Ví dụ trường hợp cha linh hướng biết được những sự kiện hoặc hoàn cảnh nào đó tự bản chất ngăn trở người thụ hướng tiến chức, ngài không có bổn phận phải nói ra sao? Trong trường hợp đó, cha linh hướng trước tiên có bổn phận phải thông báo cho người thụ hướng về trách nhiệm nặng nề họ phải chịu nếu tiếp tục tiến chức, mời họ nói ra ở tòa ngoài, yêu cầu họ đi gặp bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý nếu đó là những điều gây mất sự cân bằng tâm lý, tình cảm.
Trong một số trường hợp và nếu không có nguy cơ bị vu khống hay hiểu lầm, cha linh hướng thậm chí có thể ngừng việc đồng hành và đề nghị họ thay đổi cha linh hướng. Nhưng nếu các vị linh hướng được phép tiết lộ điều mình biết, ngay cả trong những điều kiện rất hợp lý, thì việc này sẽ làm tổn thương nghiêm trọng đến sự tin tưởng của các chủng sinh, không chỉ đối với các vị linh hướng mà còn với cả toàn bộ cơ chế đào tạo nữa; hơn thế, điều này có thể dẫn đến hậu quả tai hại: những ai cảm thấy lo lắng về tương lai của mình sẽ không còn cởi mở nữa, và như thế sẽ không được trợ giúp để suy nghĩ thấu đáo về hoàn cảnh của mình. Vậy các cha linh hướng không được can thiệp ở Hội đồng chủng viện khi liên hệ đến những người thụ hướng của mình, và thông thường trong đời sống hằng ngày, các ngài phải giữ một sự kín đáo lớn nhất về họ nữa.
Sự kín đáo này nhấn mạnh rằng việc linh hướng có mục tiêu hàng đầu là việc đào tạo con người bên trong, ở đó họ lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, ở đó, như các bậc thầy của Trường phái linh đạo Pháp thường nói, Chúa Giê-su Ki-tô được thành hình trong các tâm hồn, ở chốn sâu thẳm nhất này của con tim là nơi tinh luyện thái độ sẵn sàng với Chúa Thánh Thần và là nơi chuẩn bị lễ vật dâng lên Chúa Cha. Trong một chủng viện, hành trình chuẩn bị cho việc tiến đến chức thánh phải dựa trên nền tảng của việc đào sâu đời sống Ki-tô hữu. Người ta không thể được đào luyện tinh thần của chức tư tế linh mục mà không đồng thời tiến sâu hơn luôn mãi trong đời sống Ki-tô hữu. Không phải người ta hết làm người Ki-tô hữu khi trở thành linh mục, ngược lại, họ phải sống Phép Rửa của mình cách sâu xa hơn. Khi dấn thân phục vụ các Ki-tô hữu khác, các linh mục vẫn là anh em của họ, và sống các đòi hỏi của Tin mừng khi thi hành tác vụ. Về điểm này, còn có thể kể đến một tình huynh đệ đích thật giữa các nhà đào tạo với những người chuẩn bị tiến chức. Bên cạnh việc thực thi trách nhiệm đối với các tiến chức, trong đời sống thường ngày của mình, các nhà đào tạo cũng sống chung một tiếng gọi Tin mừng với họ. Điều đặc biệt quan trọng là việc các chủng sinh nhận thấy được rằng các nhà đào tạo của mình sống kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô, khi thi hành sứ vụ bên cạnh họ. Cũng quan trọng không kém là việc các người thụ hướng cảm thấy được rằng cha linh hướng nói với mình bằng một kinh nghiệm sâu xa, ngay cả khi ngài không hề tìm cách áp đặt kinh nghiệm đó, cũng như không muốn nhào nặn họ theo gương mẫu của mình.
Vậy chúng ta hiểu rằng việc linh hướng phải đề cập đến toàn bộ đời sống; trước hết, bởi vì không gì có thể ra ngoài Tin mừng Chúa Ki-tô; sau nữa, bởi vì khi muốn trở thành linh mục, người ta cần phải xem xét hết mọi chiều kích cuộc đời trước mặt Chúa. Có thể xảy ra trường hợp là các chủng sinh ngần ngại nói về một vài khía cạnh nào đó của đời mình, chẳng hạn về tiền bạc hay tính dục. Nhưng làm sao họ có thể cam kết sống đời độc thân mà không thể nói với một ai khác về những khó khăn, rắc rối của họ ở vấn đề này; không thể suy nghĩ cùng với cha linh hướng về cách thức sống đời tính dục của mình; và không thể đánh giá xem liệu mình có thể từ bỏ đời sống hôn nhân, gia đình để sống đời dâng hiến cách hạnh phúc mà không phải che giấu những khó khăn hay không? Đứng trước những thái độ im lặng như vậy, vai trò rất quan trọng của cha linh hướng là mời gọi các chủng sinh mạnh dạn nói về những chủ đề tế nhị mà họ thường ngần ngại đề cập. Chính đây là lúc mà mối liên hệ tốt đẹp giữa cha linh hướng và người thụ hướng sẽ có thể giúp làm cho cuộc đối thoại dễ dàng hơn. Tác giả: Lm. Bernard Pitaud, PSS
Chuyển ngữ: Lm. Nguyễn Hữu Đức, PSS