2023
Tháng Sáu – Tháng Thánh Tâm
Tháng Sáu – Tháng Thánh Tâm

Để có thể mến yêu và sùng kính Thánh Tâm Chúa cách sốt sắng, nhất là, trong Tháng Thánh Tâm này, ước gì chúng ta hãy để cho Thánh Tâm Chúa uốn nắn lòng trí chúng ta, để từ nơi sâu thẳm cõi lòng mình, chúng ta cũng có thể làm vọng vang những lời yêu thương, tha thứ, những lời tóm kết hết những lời của Đức Giêsu trên Thánh Giá, như một bản tóm lược sáng ngời giá trị Kitô giáo.
Điểm hẹn cuối cùng của cuộc sống chúng ta phải là Thánh Giá, nơi có Đấng đã tự nguyện bị treo lên và thí mạng vì chúng ta. Quả vậy, nếu không có Thánh Giá, thì Đức Kitô đã không bị đóng đinh, máu cùng nước thanh tẩy thế giới cũng không vọt ra từ bên sườn Người, văn khế tội nợ cũng không bị xé. Thánh Giá vừa là đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa. Là đau khổ, bởi vì, Người đã tự nguyện chết trên đó; là chiến tích, bởi vì, ma quỷ đã bị trọng thương và bị đánh bại ở đó, thần chết cũng đã bị thua cùng với nó; then sắt hoả ngục bị đập tan và Thánh Giá trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá là vinh quang của Đức Kitô, Thánh Giá nâng Người lên cao. Thánh giá là chén đắng Người khát khao, là bảng thâu tóm mọi cực hình Người đã chịu vì chúng ta. Ước gì trong tháng Thánh Tâm này, chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa, học lấy sự khôn ngoan từ Thánh Giá, để tất cả những gì chúng ta làm trong cuộc sống, đều mang những thương tích tình yêu của Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta.
Để sống tháng Thánh Tâm cách tốt đẹp như lòng Chúa ước mong, chúng ta không thể quên lời di chúc của Đức Giêsu trên Thập Giá: “Thưa Bà, đây là con Bà”, và “Đây là Mẹ của con”. Sự liên kết của Mẹ với Đức Kitô trong công cuộc cứu độ, được biểu lộ từ lúc: Mẹ thụ thai Chúa, cho đến lúc, Người chịu chết trên Thập Giá.
Biến cố Truyền Tin đánh dấu một khởi đầu; biến cố Thánh Giá báo hiệu một kết thúc: Lời Truyền Tin thứ nhất do sứ thần đem đến: báo cho Mẹ biết: Mẹ sẽ làm Mẹ Thiên Chúa; lời Truyền Tin thứ hai do chính Ngôi Lời Thiên Chúa trăn trối cho Mẹ biết: Mẹ sẽ làm Mẹ Hội Thánh, Mẹ của toàn thể nhân loại.
Vào những giây phút khởi đầu của biến cố Nhập Thể, Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa; vào những giờ phút cuối cùng của biến cố Thập Giá, Mẹ đã trở thành Mẹ Hội Thánh, Mẹ của toàn thể loài người.
Trong Mầu Nhiệm Truyền Tin, Mẹ đã trao dâng cung lòng trinh trong cho Con Thiên Chúa ngự vào; nơi Mầu Nhiệm Thập Giá, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào trong tâm hồn. Trong Vườn Địa Đàng, bên cây Trái Cấm, bà Evà đã đánh mất quyền làm mẹ chúng sinh; trên đồi Canvê, dưới chân Thánh Giá, Mẹ đón nhận quyền làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ước gì trong tháng Thánh Tâm này, chúng ta cũng bắt chước Mẹ: bước đi cùng với Đức Kitô từ khởi đầu cho đến lúc kết thúc dưới chân Thập Giá.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu! Trong tháng Thánh Tâm này, xin cho chúng con ý thức rằng: Thập Giá là điểm hẹn cuối cùng của cuộc đời chúng con, bởi vì, ở nơi đó, từ cạnh sườn bị đâm thâu, với trái tim rộng mở, Chúa đã khai sinh Hội Thánh, bí tích cứu độ cho toàn thể nhân loại. Trong tháng Thánh Tâm này, xin cho Hội Thánh biết vâng nghe lời Chúa dạy: đón Mẹ về nhà mình với lòng hiếu thảo, tôn vinh, và sùng kính Mẫu Tâm của Mẹ Thiên Chúa cách đặc biệt: trong phụng vụ và qua các kinh nguyện dành riêng cho Mẹ. Amen.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
2023
Mối tương quan giữa Giáo Lý và Phụng Vụ
Mối tương quan giữa Giáo Lý và Phụng Vụ

Giáo lý và phụng vụ là hai phạm trù khác nhau với những đặc tính chuyên biệt. « Giáo lý là trình bày Lời Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể, sống động, để giúp tín hữu hiểu và sống đức tin. »[1] Phụng vụ là nơi Lời Chúa được công bố, được lắng nghe, được nội tâm hóa và được giải thích[2]. Tuy nhiên, hai phạm trù này luôn liên kết với nhau và bổ sung cho nhau. Điểm chung của giáo lý và phụng vụ đều quy về một đức tin sống động, làm cho đối tượng tham gia được hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa và gặp gỡ cá vị với Ngài, nhờ vào nguồn mạch Lời Chúa. Ngoài ra, mối tương quan này còn được biểu lộ khi mà giáo lý là nơi đọc lại kinh nghiệm sống đức tin trong phụng vụ ; phụng vụ là nơi nuôi dưỡng và củng cố đức tin được truyền đạt trong giáo lý. Thánh bộ giáo sĩ trong Hướng dẫn đại cương về việc dạy giáo lý nhận định rằng : « Do tính cách sinh động nội tại, đức tin buộc phải được biết, được cử hành, được sống và được diễn tả bằng sự cầu nguyện. Việc dạy giáo lý phải cổ động tất cả những chiều kích đó.» (số 84) Nói cách khác, giáo lý phải nối kết với cử hành phụng vụ và các bí tích để giúp người tham dự có kinh nghiệm sống động về đức tin- kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô và để Ngài lớn lên trong cuộc sống. Để hiểu rõ hơn mối tương quan này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những điểm sau đây.
- Giáo lý là nơi đọc lại kinh nghiệm sống đức tin trong phụng vụ
- Học viên được tham gia phụng vụ qua cử chỉ làm dấu thánh giá để tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi; qua cầu nguyện, ca hát, băng reo, trò chơi, đố vui… để thờ phượng, tôn vinh, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa; qua việc sám hối để lãnh nhận các Bí tích.
- Học viên được thấy ý nghĩa của các nghi thức được cử hành trong phụng vụ qua việc lắng nghe, học hỏi, giải thích, cắt nghĩa Lời Chúa. Ví dụ, việc đổ nước trong Bí tích Rửa tội có thể tìm thấy trong trình thuật sáng tạo: Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước, khai sinh mầm sống (x.St 1,1-2) ; lụt hồng thủy làm chết đi một thế giới cũ đầy tội lỗi (x.St 7,21-23) và sinh ra một thế giới mới tràn ngập ân sủng (x.St 8,15-17) ; vượt qua biển đỏ- nước biển đỏ giết chết người Ai Cập, nhưng là nước tái sinh người Do Thái. « Cũng như người Do Thái vượt qua Biển Đỏ để đến bến bờ của tự do, người Kitô hữu, nhờ dòng nước tái sinh của bí tích này, trở nên con cái Thiên Chúa. Họ bước qua tăm tối để đến với ánh sáng. Dòng nước tái sinh đã gột rửa họ khỏi tội nguyên tổ và những tội lỗi đã phạm. »[3] Ngoài việc được thấu hiểu Lời Chúa, Lời Chúa còn đánh động tâm hồn, chất vấn con người và cuộc sống, để nhận biết mình hầu sửa đổi và tích cực làm chứng cho đức tin đã lãnh nhận.
- Học viên được mời gọi nối dài việc cử hành phụng vụ trong đời sống thường ngày, bằng việc tích cực sống đức tin được tuyên xưng, dám để cho những gì mình cảm nhận và xác tín được thể hiện trong cuộc sống dưới cái nhìn và cách thức của Đức Kitô.
- Phụng vụ là nơi nuôi dưỡng và củng cố đức tin được truyền đạt trong giáo lý
Ngoài ra, phụng vụ là nguồn mạch của giáo lý. Phụng vụ hiện tại hóa các mầu nhiệm Kitô giáo được truyền đạt trong giáo lý. Qua việc tham dự phụng vụ, học viên giáo lý được lắng nghe Lời Chúa, được lời của Chúa Kitô cảm hóa và biến đổi, được gặp gỡ cá vị và đón nhận các chân lý mạc khải của Thiên Chúa, được đi sâu vào mối tương quan hiệp thông thân mật với Ngài. Hiến chế về phụng vụ nêu rõ: « Trong việc cử hành Phụng Vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, người ta trích từ Thánh Kinh những bài để đọc, những bài để dẫn giải trong bài giảng, cũng như những ca vịnh để hát. Chính nguồn cảm hứng và sức phấn khởi của Thánh Kinh cũng làm xuất phát những lời kinh, lời nguyện và những bài phụng ca, đồng thời còn làm cho những động tác và các biểu hiệu trở thành ý nghĩa. » (số 24) Quả thật, chính nhờ tham dự phụng vụ mà đức tin của học viên giáo lý được nuôi dưỡng. Một khi đức tin được lớn mạnh, chắc chắn họ tự nguyện tuyên xưng và can đảm sống lời Chúa dạy. Như vậy, đức tin được truyền đạt trong giáo lý được củng cố và được tuyên xưng cụ thể trong đời sống. Vì thế, học viên giáo lý cần tham dự phụng vụ cách tích cực, « một cách ý thức, thành kính và linh động: [Các Kitô hữu] được đào tạo bởi lời Chúa; được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô Trung Gian, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người. »[4] Chính Đức Giêsu hiện diện trong các nghi thức phụng vụ và chính Ngài hướng dẫn đời sống mỗi người : « Người hiện diện thiết thực trong các Bí Tích nhờ quyền năng của Người […] Người hiện diện thiết thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo Hội. Sau hết Người hiện diện khi Giáo Hội khẩn cầu và hát Thánh Vịnh »[5]. Nếu học viên giáo lý tham dự phụng vụ cách tích cực như đã nêu trên, thì đức tin của họ thật sự sống động và có sức lan tỏa. Họ có kinh nghiệm sâu sắc về Chúa, sống đức tin cách chủ động hơn trong việc loan báo Tin Mừng, làm cho Tin Mừng vang vọng trong lòng mọi người. Thánh sử Luca cho chúng ta thấy rất rõ điều này, khi đọc tường thuật « Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau ». Sau khi được Chúa Giêsu đồng hành, chia sẻ, giải thích Thánh Kinh và nhất là qua cử chỉ « bẻ bánh », hai môn đệ tin nhận Ngài là Đấng phục sinh. Nhờ « tiệc » Thánh Thể này, đức tin của hai ông được củng cố- mắt họ mở ra, lòng họ bừng cháy và tim họ được thôi thúc lên đường làm chứng cho Chúa (x.Lc 24,13-35). Đức tin là quà tặng mà Thiên Chúa ban nhưng không cho mỗi người Kitô hữu. Nó không thể vững vàng nếu không được tuyên xưng, được cử hành, được sống và được gắn kết với Đức Kitô. Môi trường giáo lý và phụng vụ là nơi thuận tiện nhất để đào sâu sự hiểu biết về đức tin, nuôi dưỡng và phát triển đời sống đức tin. Sự liên kết chặt chẽ giữa giáo lý và phụng vụ dẫn đưa con người vào cuộc gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô. Đây cũng là mục đích tối hậu của giáo lý[6].
- Mối tương quan mật thiết giữa giáo lý và phụng vụ
Một học viên giáo lý phổ thông, sau khi rước lễ lần đầu, không tha thiết học giáo lý và bỏ học giáo lý ; nhưng vẫn tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật. Việc em tham dự phụng vụ Thánh lễ có giúp em cảm nhận ơn ích của việc mình làm không, hay chỉ vì để chu toàn bổn phận- bỏ lễ sẽ mắc tội trọng ? Ngược lại, một em đi học giáo lý đều đặn, nhưng không bao giờ tham dự phụng vụ và bí tích, nhất là Thánh lễ. Có thể em biết về Chúa, biết trên lý thuyết (kiến thức đức tin), nhưng lại mới mẻ về việc cử hành đức tin (tham dự phụng vụ). Đức thánh cha Phanxicô, trong buổi tiếp kiến chung ngày 03/02/2021, nhận định : « Người Kitô hữu chúng ta cần phải tham dự vào các mầu nhiệm thánh. Một Kitô giáo không có phụng vụ là một Kitô giáo không có Chúa Kitô. »[8] Quả thật, nhờ phụng vụ mà ta liên kết với Đức Kitô, cảm nghiệm rất riêng về Ngài, đụng chạm đến Ngài, đức tin được vững vàng khi cọ sát với những thách đố và cám dỗ của thời đại. Cho nên, dạy giáo lý không dừng lại ở việc truyền tải đức tin, hiểu biết về đức tin, nhưng còn giúp học viên tuyên xưng đức tin trong cử hành phụng vụ, cầu nguyện và chiêm niệm mầu nhiệm Đức Kitô, giáo dục đời sống cộng đoàn và khai tâm cho việc truyền giáo[9]. Chính phụng vụ làm cho đức tin được thông truyền qua giáo lý trở nên rõ ràng và cụ thể hóa trong cuộc sống.
Mặc khác, toàn bộ nội dung giáo lý hầu như được xoay quanh các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ; và phụng vụ làm cho ta lặng sâu vào cuộc sống của Thiên Chúa thông qua các nghi thức cử hành. Nhờ lắng nghe, suy niệm các bài đọc trong Thánh lễ, ta biết được chính mình vì được Lời Chúa chất vấn. Quả thật, tiếp xúc với Lời Chúa là tiếp xúc với Đức Kitô. « Đức Kitô hằng hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Sự hiệp thông với Chúa Kitô đưa đến cử hành sự hiện diện cứu độ của Người trong các Bí Tích, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Hội Thánh ước ao hết sức cho tất cả giáo dân được tham dự đầy đủ vào Bí tích đó, cách ý thức và linh động »[10]. Thánh bộ giáo sĩ nhận định rằng : « việc dạy giáo lý phải liên kết mật thiết với toàn thể sinh hoạt phụng vụ và bí tích. Thế mà thường xuyên việc dạy giáo lý chỉ có mối tương quan rất ít và rời rạc với phụng vụ. Người ta chỉ chú tâm đến dấu chỉ và nghi thức phụng vụ mà không đánh giá cao cội nguồn phụng vụ. Rất ít hay không hề có những phần giáo lý nói đến năm phụng vụ và những cử hành phụng vụ chỉ được coi như chuyện bên lề. »[11] Là giáo lý viên, việc dạy giáo lý của tôi có hướng đến phụng vụ nhằm giúp học viên đi « vào mầu nhiệm Đức Kitô (mystagon), dẫn từ hữu hình đến vô hình, từ dấu chỉ đến thực tại, từ “các bí tích” tới “các mầu nhiệm” »[12] không ? Tôi có thao thức giúp học viên tiếp xúc với Lời Chúa và giải thích Lời Chúa cách đơn giản, cụ thể, sống động trong giờ giáo lý, để giúp họ cảm được Chúa đang nói, đang sống, đang hoạt động trong cuộc sống, và nhất là trong mọi cử hành phụng vụ và các bí tích không ? Đức thánh cha Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Mỗi khi chúng ta cử hành một Bí tích Rửa tội, hoặc thánh hiến bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể, hoặc xức dầu thánh cho thân thể một người bệnh, thì Chúa Kitô ở đây! Chúa hiện diện giống như Người đã hiện diện khi chữa lành chi thể đau yếu của một người bệnh, hoặc khi trao ban di chúc của Người trong Bữa Tiệc Ly để cứu độ thế gian.”[13]
Tạm kết
Bài viết nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự liên kết giữa giáo lý và phụng vụ, đối với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cả hoạt động giáo lý và phụng vụ đều hướng họ đến đức tin sống động và trưởng thành- một đức tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua cuộc sống, được chuyển thành lời cầu nguyện. Để có thể đạt đến điều này, một mặt, giáo lý viên cần quan tâm hơn nữa đến việc nối kết giáo lý với phụng vụ trong giờ gặp gỡ giáo lý, hầu giúp học viên giáo lý yêu thích tham dự phụng vụ và nhờ phụng vụ, họ đón nhận ân sủng Chúa ban để nuôi dưỡng đời sống đức tin ; giúp họ gặp gỡ và yêu mến Giêsu hơn, yêu mến Giáo hội hơn . Mặt khác, thừa tác viên cử hành phụng vụ và các bí tích, nhất là Thánh lễ cần chuẩn bị bài giảng thật chu đáo, vì « có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô. » (Rm 10,17). Thông qua bài giảng, học viên và người tham dự thấy, hiểu, cảm Chúa đang nói với mình và mình trò chuyện với Chúa, gặp gỡ Chúa, chạm đến Chúa và được Chúa chạm đến. Gặp gỡ Chúa làm cho đức tin của họ được nuôi dưỡng, được củng cố, được đào sâu và được lớn lên. Nhờ thế, họ có thể làm chứng cho Đức Kitô ngay cả khi đối diện với mọi biến cố và thách đố của cuộc sống.
( MTG QN)
2023
Ban Thánh nhạc: Bản ghi nhớ để thực hiện việc hát cộng đồng trong phụng vụ
Ủy ban Thánh nhạc: Bản ghi nhớ để thực hiện việc hát cộng đồng trong phụng vụ
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
ỦY BAN THÁNH NHẠC
BẢN GHI NHỚ ĐỂ THỰC HIỆN
VIỆC HÁT CỘNG ĐỒNG TRONG PHỤNG VỤ
Hội thảo Thánh nhạc Toàn quốc lần thứ 50 với chủ đề Nhận định và góp ý về việc ca hát của cộng đoàn phụng vụ đã diễn ra tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25-4-2023. Với sự hiện diện và đồng hành của Đức cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị, Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc và cha Phêrô Kim Long, nguyên Phó chủ tịch, các Ban Thánh nhạc thuộc các Giáo phận đã chia sẻ về việc hát cộng đồng trong phụng vụ.
Các hội thảo viên đã thảo luận về các bản tường trình của các Giáo phận (Bà Rịa, Bắc Ninh, Bùi Chu, Đà Lạt, Hà Nội, Huế, Hưng Hóa, Mỹ Tho, Phan Thiết, Phát Diệm, Phú Cường, Qui Nhơn, Sài Gòn, Xuân Lộc) và đúc kết như sau:
- Nhận định:
- Trong phụng vụ, toàn thể việc phụng tự công cộng được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là Đầu cùng các chi thể của Người. Bản chất của phụng vụ đòi hỏi mọi người tham dự vào các việc cử hành phụng vụ cách ý thức và tích cực – đây là quyền lợi và bổn phận của mọi Kitô hữu nhờ được lãnh nhận phép Rửa tội.Hát cộng đồng là phương thế hàng đầu để có được sự tham dự trọn vẹn này.
- Ca đoàn hỗ trợ chứ không thay thế cộng đoàn.
- Cộng đoàn phụng vụ Việt Nam có được những thuận lợi: tín hữu thích hát và có khả năng hát, có nhiều bài hát cộng đồng, có dồi dào các phương tiện công nghệ.
- Và cũng có những khó khăn: nhiều cộng đoàn thiếu người chọn bài hát đúng phụng vụ và tập hát; nhịp sống đời thường khiến dân chúng khó dành thời giờ cho việc tập hát; nhiều ca đoàn quá chú trọng đến việc hát bài mới nhưng thiếu tính cộng đồng; một số nơi chưa có được sự chăm sóc mục vụ thánh nhạc đúng mức.
- Giải pháp thực hiện:
- Quan tâm đến cả hai thành phần: cộng đoàn và ca đoàn – vừa cổ võ việc đồng thanh ca hát của cộng đoàn, vừa khích lệ ca đoàn trau chuốt những bài ca có nghệ thuật cao.
- Chọn cho cộng đoàn bài hát mới hay cũ có ca từ chính xác, dễ hiểu, với giai điệu dễ hát và dễ nhớ.
- Chọn lựa hài hòa các bài hát cho các đại lễ và các Thánh lễ có nghi thức riêng, vì đây là dịp thuận tiện nhất để cả cộng đoàn và ca đoàn đều có thời gian để ca hát.
- Tạo lập dần dần sự thống nhất từ cấp giáo xứ đến tầm mức toàn quốc ở các bài ca cho những phần thường lễ mà giáo dân được đồng thanh ca hát (những phần đối đáp, bộ lễ, lời tung hô sau truyền phép, vinh tụng ca Amen kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể, kinh Lạy Cha) và các bài ca cho các phần riêng (thánh vịnh đáp ca, Alleluia).
- Soạn thảo danh sách đề nghị các bài ca phụng vụ cho từng Chúa nhật và Lễ trọng với tỉ lệ đáng kể dành cho việc hát cộng đồng.
- Ban hành những chỉ thị chi tiết và cụ thể về mục vụ thánh nhạc cho cộng đoàn và ca đoàn.
TP.HCM, ngày 25 tháng 4 năm 2023
Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc
(đã ấn ký)
† Aloisiô Nguyễn Hùng Vị
Giám mục Giáo phận Kontum
Thư ký Ủy ban Thánh nhạc
(đã ký)
Lm. Rôcô Nguyễn Duy
2023
Hỏa Ngục Có Phải Là Một Nơi?
Hỏa Ngục Có Phải Là Một Nơi?
Hỏa ngục ở đâu? Nếu bạn đào sâu xuống dưới lòng đất, xuyên qua lớp vỏ bề mặt và lớp vỏ mắc ma (magna), bạn sẽ tới lõi sắt của trái đất, nhưng sẽ không tìm thấy Ma Quỷ và tay sai của hắn. Hỏa ngục không có vị trí trong không gian, không có kinh độ hoặc vĩ độ. Không GPS nào có thể tìm thấy và cũng không có mã ZIP, hoặc mã vùng hoặc URL.
Tuy nhiên, hỏa ngục là có thật. Bách khoa toàn thư Công giáo (The Catholic Encyclopedia) trích dẫn lời thánh Gioan Kim Khẩu [John Chrysostom (347–407 AD)] nói với chúng ta rằng “Chúng ta không nên hỏi hỏa ngục ở đâu, nhưng nên hỏi làm thế nào chúng ta thoát khỏi đó.” Chúa Giêsu cảnh báo về lửa hỏa ngục (tiếng Do Thái gọi là Gehenna) ít nhất mười lăm lần trong các sách Tin Mừng. Tiếng Hy Lạp sử dụng hai từ cho hỏa ngục là hádés và géenna. Cũng vậy, tiếng Do Thái sử dụng tương ứng với hai từ Sheol và Gehenna. Từ đầu tiên chỉ nơi cư ngụ tạm thời của người đã chết, và từ thứ hai là một nơi ở vĩnh viễn. Tuy nhiên, tiếng Anh sử dụng một từ để diễn tả cả hai: hỏa ngục. Cách duy nhất để chúng ta phân biệt là một từ để nói về “hỏa ngục của người chết” và từ còn lại để nói về “hỏa ngục của người bị kết án đời đời”.
Sau tội nguyên tổ, không một linh hồn nào có thể lên thiên đàng cho đến khi loài người được Đấng Cứu Thế, là đức Giê-su Ki-tô cứu chuộc. Chỉ có kẻ dữ mới đáng bị án phạt đời đời trong hỏa ngục, nhưng nếu họ không thể lên thiên đàng, mà lại không quá xấu để phải xuống hỏa ngục, thì họ đã đi về đâu? Điều gì đã xảy ra với A-Đam và E-và, Ab-ra-ham và Sa-ra, I-sa-ác, Gia-cóp, Giu-se, Ra-khen, Rút, Ét-te, Giút …? Các nhà thần học sử dụng thuật ngữ “hỏa ngục của người chết” để mô tả nơi các vị anh hùng tốt lành và đạo hạnh này của thời Cựu Ước đã đến và đợi hằng thế kỷ cho đến khi đấng Mê-si-a xuất hiện.
Tuy nhiên, kẻ dữ phải sa “hỏa ngục đời đời”. Đây là nơi ban đầu được tạo ra cho ma quỷ và và các sứ thần của nó. Thiên Chúa chỉ tạo ra những thiên thần tốt, nhưng một phần ba trong số họ đã ra hư hỏng vì ý chí tự do của mình. Lu-xi-phe là một trong những thiên thần thông minh nhất trong số đó. Mi-ca-e, Ga-ri-en, và Ra-pha-en (các tổng lãnh thiên thần) là một phần của hai phần ba các thiên thần đã chọn sự thiện. Những thiên thần xấu, Lucifer, Bê-en-dê-bun, As-mo-đê-us, và Lê-vi-a-than, trở thành những thiên thần “sa ngã”, và hỏa ngục được tạo ra cho chúng như là nơi ở vĩnh viễn; đó là một nơi rất khó chịu, đặc trưng bởi sự đau khổ triền miên, vì hoàn toàn vắng bóng tình yêu.
“Đau khổ của hỏa ngục” (poenae inferni) có hai loại. Đau khổ của mất mát (poena damni) là đau khổ vì vĩnh viễn xa cách Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Thiên Chúa là sự viên mãn những gì linh hồn con người khao khát và ước muốn – về căn bản, đó là chân lý và sự thiện – Hai điều này là đối tượng của của lý trí và ý chí. Lý trí tìm kiếm chân lý, và ý chí tìm kiếm điều thiện hảo; Cả lý trí và ý chí chỉ hoàn toàn thỏa mãn và trọn vẹn trong Thiên Chúa, Đấng là Chân Lý và Sự Toàn Thiện (summum bonum). Không bao giờ có được điều và chỉ điều duy nhất có thể khiến bạn hạnh phúc vĩnh cửu là đau khổ của mất mát. Đau đớn giác quan (poena sensus) là đau khổ thể chất đi kèm với đau khổ mất mát. Đó cũng chính là “lửa” và “khóc lóc nghiến răng”, là sự tra tấn và đau khổ phải chịu trong hỏa ngục – đặc biệt sau khi cơ thể được hợp nhất với linh hồn sau phục sinh.
Lửa là cách nói ẩn dụ, vì linh hồn phi vật chất nên không thể bị thiêu đốt, nhưng thân xác phục sinh có thể cảm nhận được đau đớn của sức nóng dữ dội và vĩnh viễn. Điều đó có nghĩa là những người trong hỏa ngục sẽ phải chịu khổ hình mãi mãi; sẽ không có dấu chấm hết cho sự trừng phạt. Hình phạt vĩnh viễn là một trong những lý do đáng để tránh sa hỏa ngục bằng mọi giá. Tuân thủ đèn đỏ và giới hạn tốc độ là một cách tốt để tránh tai nạn và tử vong, nhưng một động cơ khác là cảnh sát có thể lẩn trốn đâu đó và sẵn sàng phạt bạn chạy quá tốc độ. Cũng vậy, sợ hãi hỏa ngục có thể không phải là lý do tốt nhất để tránh phạm tội (do đó, nó được gọi là sám hối chưa trọn), nhưng cũng có thể là một lý do đủ. Lý do tốt nhất để tránh phạm tội hay để sám hối khi chúng ta phạm tội là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (gọi là sám hối cách trọn).
Đàng khác, thiên đàng hoàn toàn ngược lại. Hỏa ngục cô đơn, không phải vì không có ai ở đó, nhưng là vì mọi người ở đó thù ghét lẫn nhau. Mọi người trong hỏa ngục muốn được ở một mình; mọi người trên thiên đàng hạnh phúc vì có những người khác ở đó. Về căn bản, các linh hồn trên thiên đàng được ơn “phúc kiến”. Giáo lý Công Giáo số 1028 định nghĩa: “Thiên Chúa siêu việt, nên ta chỉ thấy được Người khi chính Người mặc khải mầu nhiệm cho ta chiêm ngưỡng và khi Người ban cho ta khả năng đó. Việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong vinh quang Thiên Quốc được Hội Thánh gọi là “phúc kiến”. Nói cách khác, phúc kiến là biết Thiên Chúa trực tiếp và ngay lập tức, nhìn thấy Người diện đối diện và ở trong sự hiện diện của Người mọi lúc. Hiệu năng của ơn phúc kiến này là hạnh phúc vĩnh cửu và niềm vui bất tận.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 71-73.