2023
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Âm nhạc có tầm quan trọng như thế nào đối với tôn giáo trong Kinh thánh mà ta có thể dễ dàng suy ra qua từ “ca hát”, là một trong những từ được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Trong Cựu ước từ này được nhắc đến 309 lần và trong Tân ước được nhắc đến 36 lần.
Ở nơi Thiên Chúa nhập cuộc để tiếp xúc với con người thì lời nói không còn đủ nữa. Những tồn tại của cuộc sống được chạm đến và tự khắc trở thành bài ca: những gì là của con người không còn đủ để con người diễn tả nữa, và vì thế, con người mời gọi tất cả các thụ tạo cùng với mình trở thành bài ca: “Thức dậy đi, hồn tôi hỡi, thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm, tôi còn đánh thức cả bình minh. Lạy Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ, giữa lòng muôn nước, con đàn hát xướng ca. Vì tình thương của Ngài cao ngất trời xanh, và lòng thành tín vượt ngàn mây thẳm” (Tv 57, 9-11). Bài hát đầu tiên được tìm thấy, trong Kinh thánh, là sau cuộc vượt qua biển đỏ. Lúc ấy dân Israel được giải phóng hoàn toàn khỏi ách nô lệ, họ đã cảm nghiệm tràn trề quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trong hoàn cảnh thất vọng thê lương. Giống như Môsê từ lúc nhỏ được cứu khỏi nước sông Nil và bằng cách này ông thực sự đã được cứu sống, cũng vậy đến lượt mình dân Israel cảm thấy mình được cứu ra khỏi nước, được tự do, lần nữa được trở về với chính mình từ bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Phản ứng của dân trước biến cố nền tảng của ơn cứu độ trong trình thuật kinh thánh được diễn tả bằng những từ sau: “Họ tin vào Thiên Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ Người” (Xh 14,31). Tuy nhiên, phản ứng thứ hai tiếp sau đó cao hơn so với lần đầu, với sự thôi thúc cơ bản: “Bấy giờ ông Môsê cùng con cái Israel hát mừng Thiên Chúa…” (Xh 15,1). Trong việc cử hành đêm vượt qua các tín hữu đã cất lên bài ca này, từ năm này sang năm khác, họ ca hát như thể đó là bài ca mới của họ, vì họ cũng biết rằng, họ được “kéo ra khỏi nước” nhờ quyền năng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa giải thoát để có được cuộc sống đích thực. Sách Khải huyền của thánh Gioan tiếp tục mở rộng thêm đề tài này.
Rồi khi những kẻ thù cuối cùng của Dân Chúa đã bước vào bức màn lịch sử – bộ ba satan, bao gồm con thú, tượng của nó và con số tên tuổi của nó – nghĩa là khi mọi thứ dường như bị biến mất, đối với dân thánh Israel của Thiên Chúa, ngay trước một sức mạnh quá mức như vậy thì vị tiên tri được ban cho thị kiến về người chiến thắng: “Tôi thấy có cái gì như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa” (Kh 15,2). Điều nghịch lý xưa kia nay càng trở nên mạnh mẽ hơn: những con thú khổng lồ hung dữ, với sức mạnh truyền thông và kỹ năng của nó lại không thắng nổi; người chiến thắng là con chiên được hiến tế. Và thế là một lần nữa âm thanh lại vang lên cách rạch ròi, bài ca của Môsê, người tôi tớ Chúa, giờ đây đã trở thành bài ca của Con Chiên.
Bài ca phụng vụ được đặt trong khung cảnh của lịch sử vĩ đại đầy căng thẳng này. Đối với dân Israel biến cố cứu độ từng xảy ra ở vùng biển Canne vẫn còn là lý do để ca ngợi Thiên Chúa, là chủ đề cơ bản trong việc ca hát của họ trước mặt Thiên Chúa. Đối với các tín hữu, sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng đã vượt qua “biển đỏ” của sự chết đã bước vào thế giới tăm tối và đã phá vỡ những cánh cửa ngục tù, là cuộc xuất hành thực sự, biến mình thành một sự hiện diện mới trong bí tích rửa tội: phép rửa là cuộc sống được bén rễ trong cái đồng thời của việc Chúa Kitô đi xuống âm phủ và lên trời, qua đó Người đón nhận chúng ta bước vào trong sự hiệp thông của cuộc sống mới. Ngay trong ngày tiếp theo sau niềm vui của cuộc Xuất hành, dân tộc Israel đã nhận ra rằng họ phải đối diện với sa mạc, với những nguy hiểm của nó và các mối đe dọa không hề chấm dứt trong cuộc viễn hành hướng về Đất hứa. Nhưng luôn có những hành động của Thiên Chúa cho phép họ tiếp tục hát bài ca của Môsê và cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của quá khứ nhưng là Thiên Chúa của hiện tại và tương lai. Tất nhiên, trong mỗi bài ca mới cũng có ý thức về tính tạm thời và nhu cầu về một bài ca mới và sự dứt khoát, nhu cầu cứu độ không còn kèm theo bởi bất kỳ khoảnh khắc sợ hãi nào, mà chỉ bằng bài thánh ca ngợi khen. Những ai tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô, thực sự nhận ra được ơn cứu độ viên mãn và biết rằng, người tín hữu giờ đây tìm thấy khoảnh khắc ấy trong “giao ước mới”, giờ đây họ hát lên bài ca mới, là bài ca sau cùng và thực sự mới, vì điều hoàn khác biệt đã xảy ra với sự phục sinh của Chúa Kitô. Những gì mà chúng ta đã nói trong phần đầu về giai đoạn trung gian của thực tại Kitô giáo – không còn là cái bóng, cũng không phải thực tại đầy đủ, mà là “hình ảnh” – vẫn đang có giá trị ở đây: bài ca mới sau cùng đã được cất lên, nhưng tất cả những đau khổ của lịch sử cần được thực hiện, tất cả mọi nỗi khổ được gom góp và được dâng lên trong hy lễ ngợi khen, để chúng ta được biến đổi trong bài hát ngợi khen.
“Dẫn vào tinh thần phụng vụ”, San Paolo, Cinisello Balsamo 2001, trang 132-134.
Chuyển ngữ: G. Võ Tá Hoàng
2023
Tầm quan trọng của âm nhạc và nền tảng Kinh thánh
“Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài thương cứu độ. Rồi chúng con sẽ ngày ngày xướng hoạ đàn ca trong nhà ĐỨC CHÚA, suốt cả cuộc đời” (Is 38,20).
“Hát lên mừng CHÚA một bài ca mới, tán tụng Người đi, từ cùng cõi địa cầu!” (Is 42, 10).
Tính khách quan của âm nhạc có khả năng làm phát sinh nơi chủ thể những phản ứng cụ thể, mà vào thời điểm đó nó được đặt với cái tên là Affetti, và chỉ có nghệ thuật này mới cho phép. Nhưng theo cách giải thích của Hegel, nguyên tắc chủ thể tính đã trở nên như một phần của tôn giáo. Như chúng ta đã biết, người Tin lành đã dựa vào chính nguyên tắc này. Do đó, theo Hegel, sự trao đổi khách thể-chủ thể này cho phép một sự tổng hợp tuyệt vời, giúp đưa ý thức chủ thể đến gần hơn với nguyên lý tuyệt đối của nó. Nói cách khác, âm nhạc là một trong những phương tiện được Thiên Chúa ban cho chúng ta để tôn vinh danh Ngài, để tích cực tham gia vào vẻ đẹp và sự hài hòa của việc sáng tạo. Thực vậy đã có lời chép rằng “Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng CHÚA đi nào!” (Tv 150, 6).
Diễn tả đầu tiên về sức mạnh của âm nhạc có thể được rút ra từ sách Sử biên niên (5, 13-14), được trình bày như sau : “Họ thổi kèn và ca hát, cùng nhau cất tiếng tung hô và ngợi khen ĐỨC CHÚA. Họ cất tiếng hát cùng với tiếng kèn, tiếng não bạt và các nhạc cụ khác, để tung hô ĐỨC CHÚA, “vì Chúa nhân từ, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Vậy khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ ĐỨC CHÚA. Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây. Quả thật, vinh quang ĐỨC CHÚA đã tràn ngập Đền Thờ của Thiên Chúa”.
Từ đoạn vừa đọc trên chúng ta thấy xuất hiện một nét đặc thù trong Kinh thánh : Âm thanh thường được nối kết với sức mạnh của Thiên Chúa. Một biểu tượng giữa mọi biểu tượng, không cần phải bình luận, đó là âm thanh ra trận của kèn Trumpet. Chúng ta thấy nhạc cụ này xuất hiện qua những đoạn thánh kinh sau: Xuất hành 19,13; 19,16; 19,19; 20,18; Lêvi 25,9; Dân số 10,4; Giôsuê 6,5; 6,20; Thẩm phán 3,27; 6,34; 7,16; 7,18; 1Samuel 13,3; 2Samuel 2,28; 6,15; 15,10; 18,16; 20,1; 20,22; 1Vua 1,34; 1,39; 1,41; Nêhêmia 4,18; 4,20; Gióp 39,24; Thánh vịnh 47,5; 81,3; 150,3; Isaia 18,3; 27,13; 58,1; Giêrêmia 4,5; 4,19; 4,21; 6,1; 6,17; 42,14; 51,27; Êzêkien 7,14; 33,3-6; Hôsê 5,8; 8,1; Gioel 2,1; 2,15; Amos 2,2; 3,6; Sôphônia 1,16; Zacaria 9,14; Matthêu 6,2; 24,31; 1Côrintô 14,8; 15,52; Do thái 12,19; Khải huyền 1,10; 4,1; 8,13; 9,14.
Những đoạn đề cập đến việc ca ngợi Thiên Chúa có rất nhiều trong bộ Thánh vịnh. Liệt kê ở đây một danh sách, không phải là tất cả, nhưng hy vọng có thể giúp ích cho những ai muốn tham chiếu: Xuất hành 15,1; 15,21; 32,18; Dân số 21,17; Thẩm phán 5,3; 1Samuel 21,11; 2Samuel 22,50; 1Sử biên niên 16,9; 16,23; 16,33; 2Sử biên niên 20,22; 23,13; 29,30; Gióp 29,13; Thánh vịnh 7,17; 9,2; 9,11; 13,6; 18,49;21,13; 27,6; 30,4; 30,12; 33,2-3; 47,6-7; 51,14; 57,7; 57,9; 59,16-17; 61,8; 65,13; 66,2; 66,4; 67,4; 68,4; 68,32; 71,22-23; 75,9; 81,1; 89,1; 92,1; 95,1; 96,1,2; 98,1,4,5; 101,1; 104,12, 33; 105,2; 108,1, 3; 135,3; 137,3,4; 138,1,5; 144,9; 145,7; 146,2; 147,1,7; 149,1,3,5; Châm ngôn 29,6; Isaia 5,1; 12,5; 24,14; 26,19; 27,2; 35,6; 38,20; 42,10; 42,11; 44,23; 49,13; 52,8; 52,9; 65,14; 20,13; Giêrêmia 31,7,12; 51,48; Êzêkien 27,25; Hôsê 2,15; Sôphônia 3,14; Zacaria 2,10; Rôma 15,9; 1Côrintô 14,15; Do Thái 2,12; Giacôbê 5,13; Khải huyền 15,3.
Một số người lưu ý rằng trong sách Đanien 3,10.15 âm nhạc trở thành công cụ cho việc tôn thờ ngẫu tượng. Sự quyến rũ đầy nguy hiểm của âm nhạc được thánh Augustinô, Luther, Calvin và một số người khác cảnh báo trước. Mỗi người có mỗi phản ứng khác nhau: ác cảm nổi tiếng ban đầu đối với đàn organ của Luther, lệnh cấm âm nhạc của Calvin…., Tuy nhiên, tất cả đều phải chấp nhận bằng chứng hiển nhiên : Âm nhạc cũng như bất kỳ phương tiện nào của sự sáng tạo tự nó không có gì nguy hiểm, nhưng vấn đề là nó được sử dụng như thế nào. Luther khẳng định rằng : Giới trẻ cần phải thay thế các bài hát thô tục của họ, và thay vào đó là học những bài hát mang tính giáo dục và học cách tiếp cận những điều tốt đẹp phù hợp với họ. Vấn đề thực sự ở đây, như đã nói, âm nhạc không phải là như vậy, nhưng đó là quà tặng của Thiên Chúa vì vậy nên đi kèm với các bản văn phù hợp với đặc quyền này. Cho nên âm nhạc chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa.
Trong lĩnh vực cải cách, sau này, Martin Luther đã coi âm nhạc là một hình thức diễn đạt tôn giáo có tầm quan trọng to lớn về mặt giáo lý. Đối với nhà cải cách, cũng như đối với Thánh Augustinô, hát là cầu nguyện hai lần. Bài ca cho phép qui tụ các tín hữu, những người mà thời đó hầu hết là thất học, dễ dàng tìm hiểu các chủ đề đức tin kitô giáo, vì lúc bấy giờ ca từ của Lieder bằng tiếng Đức. Muốn thực hiện một so sánh, cả hai đều thực hiện chức năng tương tự, nhưng với mục đích và khái niệm thần học khác biệt, giống như những bức tranh khảm và tranh vẽ bên trong các nhà thờ Công giáo. Hơn nữa, âm nhạc, trong bản chất của nó, đã tạo nên sự liên đới (Koiné) sâu sắc giữa cộng đoàn các tín hữu.
Giờ đây chúng ta xem thử các nhà cải cách nói gì về tầm quan trọng của âm nhạc: Âm nhạc phần nào đó như một kỷ luật giúp con người thêm nhẫn nại và dịu dàng, giản dị và biết điều hơn. Người khinh miệt nó, hành động như những kẻ cuồng tín, thì không thể đồng ý về quan điểm này. Âm nhạc là quà tặng của Thiên Chúa chứ không phải của con người. Âm nhạc xua đuổi điều xấu xa và đem lại hạnh phúc. Nhờ âm nhạc mà người ta quên đi mệt nhọc và tất cả mọi tật xấu. Cho nên âm nhạc hoàn toàn làm cho chúng ta tin vào điều mà tôi nói và không có bất cứ nỗi lo sợ nào khi nói về nó. Xét về quan điểm thần học thì không có nghệ thuật nào có thể tồn tại như âm nhạc […] Âm nhạc tuyệt đối cần phải bảo tồn trong các trường học […] cần tập cho những người trẻ có thói quen về nghệ thuật này […]. Ca hát là nghệ thuật tuyệt vời và sự rèn luyện đúng đắn […] Ai biết ca hát thì không bỏ cuộc, không bất mãn và không buồn rầu. Âm nhạc thì vui tươi và xua tan các mối lo bằng những bài ca (Thư gửi cho các nhạc sĩ, 1530).
Nhưng ngay cả trước Luther, một đồ đệ thuộc trường phái Augustinô nói về bài thánh ca được thánh Augustinô ca ngợi: “Tôi cảm thấy linh hồn của chúng tôi bay lên trong ngọn lửa thương xót với nhiệt tâm và lòng sùng mến lớn lao đối với những lời ca thánh thiện, khi chúng đi kèm với bài ca, và tất cả những cảm xúc khác nhau trong tâm hồn tìm thấy nơi bài ca nét diễn đạt của riêng nó, làm thức tỉnh các linh hồn (Tự thú, lib. X, c. 33).
Luther đã thực hiện dự án của mình, chỉ làm Vinh Danh Thiên Chúa, qua hợp xướng: một hình thức hát đơn giản nhưng diễn cảm. Tên gọi “hợp xướng” là một tính từ được sử dụng như danh từ có nguồn gốc từ chữ «cantus choralis», tức là một giai điệu, thường là đồng âm, ban đầu được thực hiện bằng đồng giọng mà không có nhạc đệm.
Theo dòng ký ức, chúng ta tóm lược cách ngắn gọn nguồn gốc và ý nghĩa của hợp xướng trong phụng vụ Tin lành. Các bản hợp xướng, không giống như các bài thánh ca Công giáo, không được viết bằng tiếng Latinh, điều này nhằm khuyến khích sự tham gia tối đa của các tín hữu. Vua Louis II (855-875) phàn nàn về sự tham gia ít ỏi của cộng đoàn tín hữu trong thánh lễ; trong “Capitula Ecclesiastica” (năm 856), ông đã nói: Tertium intimandum, ut ad salutationes sacerdotales congrue responsiones discantur, ubi non solum clerici et Deo dicatae sacerdoti responsionem offerant, sed omnis plebes devota consona voce respondere debet. [Điểm thứ ba cần nói là, hãy học cách đáp lại lời chào của linh mục một cách thích hợp, ở đây không phải chỉ các giáo sĩ và những người tận hiến cho Chúa mới đáp lại linh mục, mà cả cộng đoàn tín hữu nên đồng thanh đáp lại].
Từ góc độ âm nhạc, bài ca phụng vụ này ban đầu là đơn âm, mặc dù được hát bằng nhiều giọng: tối đa là có một vox organalis, chuyển động song song, một quãng 4 hoặc 5[1]. Nó bắt nguồn từ phụng vụ “secundum uso romanum” được hát theo cách dùng giai điệu, tức là bằng concentus, đối lại “accentus”, cách hát gần giống với kiểu hát nói – ngâm tụng. Dựa theo sự tiến bộ của kỹ thuật âm nhạc, hợp xướng phát triển thành nhiều hình thức khác nhau: đơn âm, đa âm dạng motet và dạng hòa âm. Nhiều bài hát bằng tiếng địa phương, từ bài của Minnesänger đến bài sám hối và thậm chí cả những bài quân sự, sau này đã trở thành hợp xướng. Do đó, nguồn gốc của hợp xướng này có từ rất lâu trước sự cải cách. Ở dạng hoàn chỉnh, chúng ta có các bản Lied bắt đầu từ thế kỷ XI. Sự phát triển sôi động của những bài hát tôn giáo trong giai đoạn này được minh chứng, một cách gián tiếp, qua các lệnh cấm khác nhau của Giáo hội, được ban hành bởi các hội nghị công giáo Basilê (1435) và Eichstatt (1446), qua các thượng hội đồng ở Praha (1406) và Schwerin (1492). Trong thực tế, hình thức duy nhất của bài ca phụng vụ được chấp nhận là thánh ca Latin-Gregoriano.
Vì vậy, Luther không làm gì, hầu như không có phát minh gì trong việc tổ chức phụng vụ mới, có thể ông đã dựa trên một truyền thống đã được phổ biến trong dân chúng; có lẽ đó là con đường trực tiếp mau thấy nhất, và thậm chí ông cũng không nghĩ ra rằng mọi người có thể hát được thánh ca Grêgôriô khó. Nói về việc soạn thảo, hợp xướng và tuyển tập thánh ca (Gesangbücher) vào lúc này, từ phía Luther nói riêng hoặc của Giáo hội Tin lành nói chung, không nằm trong ý định của bài viết này. Chúng ta chỉ nói thêm là hình thức hợp xướng đã đạt đến đỉnh huy hoàng nhất của nó nhờ một trong những nghệ sĩ nổi tiếng của mọi thời đại là : Johann Sebastian Bach (1685- 1750).
Để kết thúc, chúng tôi muốn tóm kết tư tưởng của thánh Tôma Aquinô về đề tài này, ngay cả khi nó không hoàn toàn thuộc bối cảnh của chúng ta, chỉ vì nó theo sát thánh Augustinô. Trong Tổng Luận Thần Học (IIa IIae, q.91, a.2), Thánh Tôma đưa ra thắc mắc rằng liệu việc dâng lời ca tụng Thiên Chúa có cần thiết phải hát không. Câu trả lời bắt đầu từ tiền đề là mục đích của con người là yêu mến Thiên Chúa. Ngài nói rằng thật chính đáng khi dùng mọi thứ có thể để giúp chúng ta củng cố tình yêu này. Ca hát hay âm nhạc là phương tiện phù hợp nhất, bởi vì, trong phạm trù cảm xúc, sự sáng tạo thiêng liêng thì hướng về cái thiêng liêng nhất. Hơn nữa, tất cả những gì được Thiên Chúa tạo nên đều được chuẩn bị cho vinh danh Ngài, vì mọi thứ được tạo ra không vì sự cần thiết mà vì chính Chúa (propter se ipsum). Tôi muốn thêm vào đây thánh vịnh 150 để khép lại chủ đề này :
Halêluia!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa,
ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh.
Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ,
ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và,
ca tụng Người, hoạ tiếng cầm tiếng sắt.
Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa,
ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.
Ca tụng Chúa đi, với chũm choẹ vang rền,
ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.
Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng CHÚA đi nào!
Halêluia!
————————————–
[1] ND: Khởi đầu của đối âm là một hình thức rất đơn giản, được gọi là organum[1], có hai bè : vox principalis (dòng ca chính), người ta hát cantus firmus, tức là giai điệu bình ca và vox organalis (o organum); sau khi bắt đầu bằng đồng giọng, người ta thêm vào một quãng 4 hoặc 5 (đôi khi trên một quãng tám) song song với giọng chính, nốt đối nốt (punctum contra punctum, từ đó phát sinh ra từ đối âm). Và kết thúc bằng việc trở lại đồng giọng.
Lm Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Khi đề cập đến tầm quan trọng của việc đệm đàn trong phụng vụ nghĩa là chúng ta sẽ phải nói đến việc xây dựng một bản đàn như thế nào cho phù hợp với những đòi hỏi của Hội thánh trong các cử hành phụng vụ, một bản đàn cử lên phải có âm thanh du dương, không có yếu tố kích động hoặc kịch trường, vũ điệu…, nhưng có chất thánh thiêng, và phải được kiến tạo (có thể phải viết ra giấy hoặc ứng tấu) dựa trên quy tắc khách quan của nghệ thuật âm nhạc. Khi bài hoà âm cho bản đệm đàn (BĐĐ) được viết ra trên giấy, người nghệ sĩ chơi đàn chỉ việc nhìn vào đó và dùng đôi tay của mình cử lên trên phím đàn; nhưng cũng có những đàn sĩ giỏi hơn, không cần viết ra giấy các bè của bản đàn nghĩa là không cần nhìn vào BĐĐ mà có thể ứng tấu BĐĐ ngay trên đàn. Dù thế nào hay cách nào đi nữa, như vậy rõ ràng là chúng ta đang đề cập đến yếu tố hoà âm.
A- Tầm quan trọng của hoà âm trong sáng tác ca khúc:
Khi người nhạc sĩ bắt đầu hình thành một ý tưởng giai điệu cho một ca khúc nào đó, nếu trong tiến trình này vị nhạc sĩ đó không có ý tưởng gì về cấu trúc hoà âm cho nó thì đó chính là một sự khó khăn rất lớn cho những ai làm công việc hoà âm cho ca khúc đó. Tại sao chúng ta phải nói đến sự quan trọng của cấu trúc hoà âm khi sáng tác một ca khúc?
Khi ta viết được một dòng nhạc nào đó và được gắn liền với lời ca hẳn hoi, nói chung nghĩa là ta đã sáng tác ra một ca khúc. Ở đây chúng ta chưa nói đến bố cục, chất liệu, hình thể… nhưng khi một ca khúc như vậy được hình thành, nó cũng chỉ là một dòng ca với một bè hát, nghĩa là nó chưa được hoà âm. Điều này cũng giống như một em bé khi mới chào đời vậy! Ta cần phải mặc áo cho nó.
Có một phương tiện duy nhất để mặc áo cho nó là Hòa âm, hoà âm một dòng ca cho nhiều giọng nhiều bè hát khác nhau thì ta gọi là hòa âm cho ca đoàn, và khi hòa âm một dòng ca cho một hay nhiều thứ nhạc cụ ta gọi là hòa âm cho bản đệm đàn. Như vậy, vấn đề hoà âm lại là yếu tố quan trọng không kém gì so với việc sáng tác ban đầu, có thể gọi đó là việc sáng tác lần thứ hai; một việc xem ra khó hơn bởi vì người nghệ sĩ phải sáng tác trên dòng ca cho sẵn, nghĩa là dựa trên những gì đã có rồi bây giờ tạo nên cái mới để bổ túc, để trang điểm, để nâng đỡ … làm cho dòng ca ấy được đánh nổi và toàn bộ nhạc phẩm trở nên phong phú hơn! Vì vậy khi sáng tác, các nhạc sĩ nên hết sức lưu ý đến mối liên hệ giữa các hài thanh (HT) với nhau, nó sẽ là nền móng để viết các móc nối hoà âm cho tác phẩm và từ đó dẫn đến một BĐĐ hoàn chỉnh.
Để vấn đề này dần được sáng tỏ, xin mời các bạn cùng theo dõi bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long.
1-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với đơn ca giai điệu cho sẵn.
2-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với hợp xướng 4 bè dị giọng.
3-Các câu TK theo BĐĐ thông thường, Kiểu 1 chỉ dùng các HT chính, Kiểu 2 dùng cả HT chính và phụ, Kiểu 3 dùng cả việc chuyển thể.
B- Tầm quan trọng của Bản đệm đàn trong thánh nhạc phụng vụ:
Chúng ta vừa nghe và hát bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long với phần đệm đàn mà ta gọi là đệm đàn phụng vụ, vì ca khúc này là một bài thánh ca phụng vụ! Đệm đàn phụng vụ nghĩa là làm sao?
Theo cuốn HƯỚNG DẪN MỤC VỤ THÁNH NHẠC của UBTN trực thuộc HĐ Giám Mục VN ban hành vào tháng 7/2017, từ số 44 đến 47 và từ số 82 đến 85, cùng một số văn kiện của Toà Thánh, đặc biệt là HUẤN THỊ VỀ ÂM NHẠC TRONG PHỤNG VỤ (Instructio de Musica in Sacra Liturgia – 05.3.1967), từ khoản 62 đến 67, thì đàn đại quản cầm cùng âm thanh của nó được quan tâm nhiều hơn mọi thứ nhạc cụ khác khi cử hành phụng vụ. Trong bài này xin tạm gọi chung là organo khi muốn nói đến cây đàn này, vì thực tế khi sử dụng đàn keyboard hay đàn Electon ta cũng có thể mở được sắc tiếng của cây đàn đại quản cầm này… Khi đàn organo được dùng chung với tiếng hát trong việc cử hành phụng vụ, thì Hội Thánh mẹ dạy rằng chức năng của nó chỉ là nâng đỡ tiếng hát, dùng các kỹ thuật hòa âm để làm cho tiếng hát được nổi lên mà không nhuốm màu trần tục, đó là đệm đàn phụng vụ.
Theo giáo huấn đó, trong bài này chúng tôi xin đề cập đến một số kỹ thuật để thực hiện hoà âm một bản đệm đàn trên một tác phẩm thánh ca phụng vụ, từ bản đệm đàn của một bài thánh ca phụng vụ được viết trên giấy, chúng ta cử lên cây đàn organo cùng với tiếng hát của ca đoàn, lúc đó ta gọi là đệm đàn phụng vụ.
Bản đệm đàn tiếng Đức gọi là Bekleidung nghĩa là mặc áo, tiếng Pháp, Anh và Ý thì kêu là accompagnement hoặc accompaniment, accompagnare nghĩa là đi theo, là hộ tống. Mục đích của nó là đánh nổi bài ca chứ không gây rối hoặc lấn át bài ca. Có nhiều kỹ thuật khác nhau để đánh nổi bài ca như, bài ca chuyển hành nhanh, BĐĐ đi chậm, bài ca ngân dài ở một dấu nhạc, BĐĐ chạy nhanh hay phỏng diễn ý nhạc trước đó hoặc giới thiệu một nét mới của nhạc đề sẽ xuất hiện sau đó…
Xem những BĐĐ của các nhạc sĩ bậc thầy như Bach, Mozart, Beethoven, Verdi … ta thấy BĐĐ là thành phần cốt yếu của bài ca, nó được dùng để đánh nổi, để bổ túc và để nói lên những gì mà dòng ca chưa tỏ ra hết. Điều mà bản thân lấy làm thích thú nhất là nó cũng như chiếc áo đẹp, chỉ mặc vừa cho người này mà không vừa cho người khác, và khi BĐĐ được viết cho nhiều nhạc cụ thì ví như chiếc áo thêu dệt công phu nhiều màu sắc, lại càng thêm giá trị … Hoặc có thể ví BĐĐ như một vườn hoa đầy màu sắc và bài ca như những con ong con bướm bay lượn trên nó. Hơn nữa, một người thì có thể có nhiều chiếc áo để thay đổi, thì bất cứ bài ca nào cũng vậy, có thể có nhiều kiểu viết hòa âm cho BĐĐ hoặc những bản đàn độc tấu dựa trên nhạc đề đó, và từ đây phát sinh lối viết khai triển nhạc đề theo nhiều kiểu khác nhau và ta thường gọi là các khúc biến tấu trên một nhạc đề (variations), và cái khó còn lại là chọn những kiểu nào cho thích hợp nhất, xứng đáng nhất với bài ca. Vì nhạc đề là bài ca đã có sẵn nên nó phải là thành phần chính yếu của BĐĐ và nó không thể sửa chữa, và như thế công việc này rất bao la mênh mông với nhiều đòi hỏi cho người viết BĐĐ và nghệ sĩ chơi đàn, trong đó trình độ, lương tri và sự kiên nhẫn là ba yếu tố cần thiết nhất.
Ngay từ đầu môn học hòa âm, nhà trường thường bắt học viên phải biết chơi đàn dương cầm (piano) hoặc đại quản cầm (organo), là hai thứ đàn có thể chơi được nhiều bè cùng một lúc, biết để có thể chơi được những bản hòa âm mà bạn viết ra, như thế mới có kết quả, bởi lẽ học hòa âm không phải là viết các công thức móc nối thế này thế kia, nhưng phải biết nghe, biết phân biệt các cơ cấu, liên kết hòa hợp hay tương phản trong các âm thanh… Nói đến đây ta sẽ thấy thêm một lợi ích khác, nếu bạn biết chơi dương cầm hay đại quản cầm thì mới có khả năng để viết một BĐĐ ít nhất là thích ứng với khả năng đa dạng của hai cây đàn này, dĩ nhiên bạn phải học xong môn hòa âm, một môn học hao tổn khá nhiều công sức và đã khiến cho bao người bỏ cuộc, nhưng nó lại là nền tảng của mọi vấn đề trong ngành nghệ thuật này.
Xem ra có một số người đệm đàn ở các xứ đạo chưa hiểu rõ chức năng của nó cũng như sự học hỏi cần thiết cho việc làm này, vì thế mới có những hiện tượng đáng tiếc như chúng ta đã thường gặp.
Để cụ thể hóa vấn đề, và thời gian cũng có hạn, chúng tôi xin trưng dẫn ra đây một vài kiểu kỹ thuật viết hòa âm cho BĐĐ, đây không phải là tất cả, nhưng theo cách nhìn khách quan về lĩnh vực này, nó chỉ là vài kiểu căn bản mà chúng tôi nghĩ rằng trong số đó có những kiểu rất xứng đáng, rất phù hợp với cung cách đệm đàn phụng vụ ở mức độ dễ chấp nhận, nghĩa là không quá kinh điển, không quá cầu kỳ, không như cung cách nhạc đời nhưng cũng không tầm thường và nhiều người có thể đàn được, lại đúng với quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi. Và như thế, vấn đề được đặt ra không phải là BĐĐ dễ hoặc khó, đơn giản hay phức tạp, mà nó có phải là thành phần không thể thiếu của một bài ca hay không, hoặc nó có xứng hợp để đánh nổi, để bổ túc cho bài ca hay không, đặc biệt là các bài thánh ca phụng vụ.
Sau đây, là sáu kiểu viết hòa âm cho BĐĐ (gồm 3 kiểu thông thường và 3 kiểu biệt lập) dựa trên nhạc đề của Lm. Kim Long, đó là bài LỜI CHÂN THÀNH.
- BẢN ĐỆM ĐÀN THÔNG THƯỜNG:
- Nhạc đề là bè trên cùng của BĐĐ:
- Ô nhịp 1: Dấu SO ở dòng ca là dấu hoa mỹ, có thể coi đó là dấu nhấn, vì nhấn ở thì yếu nên không hiệu quả lắm.
- Ô nhịp 4: DO-RE-MI-FA và LA-TI-DO-RE ở hai bè trong có ý để phỏng diễn lại ý nhạc trước đó ở ô nhịp 3 (SO–LA–TI) để tạo thành đoạn nối câu, đồng thời sau đó thêm dấu RE và FA ở hai bè trong (DO–RE–MI–FA và LA–TI–DO–RE) thì trở thành một nét nhạc đảo lộn sẽ được giới thiệu ngay sau đó ở ô nhịp 5 (RE–DO–TI–LA).
- Cũng vậy, ở ô nhịp 6 có bè trong là LA–SO–FA–MI–REchuyển hành nhanh để phỏng diễn ý RE–DO–TI–LA trước đó, tuy là những dấu nhạc hoa mỹ ở bè trong, nhưng lại là nhạc đề sẽ được đánh nổi ngay sau đó ở bè trên trong cùng ô nhịp 7 – 8 (LA–SO–FA–MI–RE).
- Câu tiểu khúc được hòa âm bằng việc “Ghi động” (agitato), kỹ thuật này rất được ưa chuộng vào thời kỳ Baroque (TK.17), tức là mỗi thì nhịp trong nhạc đề đều được thay phiên nhau bị động liên tục, khi thì bè trên, lúc thì bè dưới hoặc bè giữa, nét nhạc ghi động này được lấy từ nhạc đề của Điệp khúc (SO–FA–MI–RE/ DO–TI–LA–SOL/ FA–MI–MIb–RE ở các ô nhịp 11, 13 và 15).
Lời bình:
Đây là lối viết BĐĐ được xem là lý tưởng nhất và phổ biến nhất, có thể áp dụng cho hầu hết các ca khúc. Vì dòng ca của bài hát lại là bè trên cùng của BĐĐ nên lối viết này dễ giúp cho người hát giữ vững được cung giọng trong khi hát, nhất là đối với những ban hát ca đoàn còn giới hạn về khả năng chuyên môn, cũng dễ cho người chơi đàn nhận ra diễn tiến của bài ca mà phối hợp nhịp nhàng trong khi hát. Lối viết hòa âm BĐĐ này không quá khó cho tác giả, nhưng muốn viết hòa âm cho hay cũng không phải là dễ như ta thường thấy trong khi học hòa âm, và thực sự cách này đã thể hiện được điều mong muốn của Giáo hội : nhạc cụ dùng trong nhà thờ là để nâng đỡ tiếng hát.
(Lời Chân Thành 1)
- Nhạc đề là bè giữa của BĐĐ:
Cũng được dùng với kỹ thuật ghi động như đã mô tả ở 1.d nhưng không mất tính đồng nhất. Trong 3 ô nhịp đầu, bè trên cùng được chuyển hành lên, có ý tạo nên sự tương phản với bè trầm chuyển hành xuống đồng thời (RE–DO#–DO–TI–LA), là một ý của nhạc đề nhằm giới thiệu trước sẽ xuất hiện sau cùng của phần ĐK (LA–SO–FA–MI–RE). Sự tương phản này như cái khung để trưng ra một bức tranh là nhạc đề được xuất hiện ở khu vực giữa.
- Đoạn nối câu ở ô nhịp 4 được sử dụng dấu trì hoãn và dấu lượn.
- Ô nhịp 6cũng cùng một ý như đã mô tả ở số 1.c.
- Ô nhịp 8 có bè trên cùng (RE–DO–TI–LA–SO) là phỏng diễn ý cuối của nhạc đề (LA–SO–FA–MI–RE) ở ô nhịp 7 trước đó.
- Phần TK cũng được ghi động, và cố gắng phỏng diễn nét chính tuy không cân đối.
Lời bình:
Lối viết hoà âm BĐĐ này nếu điều chỉnh lại một chút để đem ra thực hiện trên bốn bè hát dị giọng Soprano, Alto, Tenore và Basso thì phải khéo léo lắm mới có thể làm nổi được dòng ca chính, có nghĩa là cách thức này dễ làm cho dòng ca bị che lấp, điều này cũng là một thách đố đối với tác giả. Và như vậy, sẽ không quá khó khi ta xét về phương diện âm sắc và âm lượng, ý muốn nói đến sự khác biệt âm sắc và âm lượng của tiếng đàn với tiếng hát, nếu biết điều chỉnh hợp lý sao cho tiếng hát vẫn được tiếng đàn làm cho nổi bật do sự tương phản về âm sắc thì cũng dễ dàng chấp nhận. Ví dụ nếu dùng sắc tiếng Choir Ahhs hoặc Voice Ohhs hoặc sắc tiếng gần giống giọng người như bộ kèn Sax của đàn organo để chơi Bđđ loại này thì có thể sẽ phủ lấp dòng ca của bè hát; tốt hơn là dùng những âm sắc khác biệt với giọng hát nhưng không chói tai như Strings, như Organ Pipe … thì khá lý tưởng. Đó là chúng ta vẫn chưa bàn đến sự tương phản của nhịp điệu, khi dòng ca chuyển hành thì các bè còn lại của Bđđ đứng yên chẳng hạn, hoặc khi dòng ca đứng yên vì hết câu nhạc thì các bè còn lại chuyển hành … vậy nói cho đúng, mặc dù dòng ca nằm ở bè giữa hay khu vực giữa của BĐĐ, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội để thực hiện các giải pháp sao cho dòng ca được đánh nổi, vấn đề còn lại là sự hiểu biết, là khả năng chuyên môn, là tính thẩm mỹ và lương tri của chúng ta.
(Lời Chân Thành 2)
- Nhạc đề là bè trầm của BĐĐ:
Có nhiều hạn chế hơn để phỏng diễn ý nhạc, các bè trên thường giữ vai trò hòa âm đắp cho đầy, tuy nhiên ta cũng thấy:
- Ô nhịp 2 sang đầu ô nhịp 3: Bè trên cùng như giới thiệu trước (RE–DO#–DO–TI ) nét nhạc cuối cùng của phần ĐK (SO–FA–MI–RE).
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5 cũng là hình thức đó ở bè trên cùng. Rồi sau này lại tái diễn bằng hình thức đảo lộn ở ô nhịp 12 sang đầu ô nhịp 13 và cũng ở bè trên cùng.
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5, ở bè giữa (RE–MI–FA–RE–MI) là nét phỏng diễn của ý nhạc đề trong ô nhịp 3 trước đó (SO–LA–TI–SO–LA).
- Nét nhạc này cũng được phỏng diễn ở bè trên cùng từ giữa ô nhịp 5 sang ô nhịp 6 (LA–TI–DO–LA–TI ).
- Một lần nữa, nét nhạc cuối cùng từ ô nhịp 7 sang ô nhịp 8 (LA–SO–FA–MI–RE) cũng được mô phỏng bằng việc đảo lộn nét nhạc ngay sau đó ở bè trên cùng (SO–LA–TI–DO–RE) để kết thúc phần ĐK.
- Ô nhịp 13 : Có 2 bè trong là nét mô phỏng phóng khoáng của ý nhạc đề vừa đi qua trong ô nhịp 12 (FA–SO–LA–FA–RE), đồng thời nó cũng đóng vai trò là đoạn nối câu.
- Ô nhịp 15: Bè trên cùng đã giới thiệu 1 nét nhạc mà nhạc đề sẽ xuất hiện thực sự ngay sau đó ở ô nhịp 16.
Lời bình:
Để viết hòa âm cho một bè trầm có sẵn ở giai đoạn đầu của môn học này thì thường rất đơn giản, nhưng thật không phải dễ ở mức độ sâu hơn. Theo cách này thì nhạc đề chính nằm ở bè thấp nhất, vậy nhạc đề càng khó được nổi bật hơn, nhạc đề càng ít có cơ hội được nâng đỡ nên ta có thể nhận xét ngay: không mấy thích hợp để thực hiện trong thánh ca thánh nhạc. Nói rằng không mấy thích hợp ở đây chỉ là theo nhãn quan của giới bình dân, theo quan điểm của nghệ thuật thì giải pháp nào cũng tốt đẹp nếu người nghệ sĩ biết khéo léo vận dụng các qui tắc khách quan của nghệ thuật, rồi ca đoàn và dàn nhạc phụ họa được vị chỉ huy có hiểu biết và kinh nghiệm đứng ra hướng dẫn điều khiển thì chắc chắn vẫn tốt đẹp và xứng đáng như thường. Ta có thể dễ thấy rất nhiều bài thánh ca, trong các version của nó, bè trầm là nhạc đề chính như bài “Away in a manger”, “Adeste Fideles” … Mà hai ban hợp xướng Mormon Tabernacle và Mendalion đã từng trình bày… Hoặc hơn nữa, một số tác phẩm thánh ca VN mà phần hòa âm (nguyên chỉ nói đến 4 bè hợp xướng) đã để dòng ca chính làm bè trầm mà chúng ta vẫn dễ dàng chấp nhận như nhiều ca đoàn đã thể hiện, mặc dù ở tầm tiếng thấp nhưng nhạc đề chính vẫn được nổi bật, như: “Chiên vượt qua”, của Cát Minh – hòa âm TL, “Tâm tình hiến dâng” của Oanh Sông Lam – hòa âm: CH.
(Lời Chân Thành 3)
- BẢN ĐỆM ĐÀN BIỆT LẬP
- BĐĐ được viết bằng những HT rập dấu cùng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ:
- Đoạn nhạc mở đầu được lấy từ các HT móc nối trong đoạn cuối của Điệp khúc (ô nhịp 8-9-10).
- Cơ cấu hoà âm được lấy từ BĐĐ kiểu 1.
- Dấu RÊ ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 là dấu trì hoãn (retard) sẽ được giải nghịch sang DO, nhưng không sang ngay mà lượn xuống nốt TI trước, có ý tạo ra nét nhạc TI–DO–RE–MIlà nét đảo lộn của ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó ở ô nhịp 8 (RE–DO–TI–LA) đồng thời làm nhiệm vụ nối câu.
- Bè trên của BĐĐ ở ô nhịp 8-9-10 (FA–MI–RE–DO#) như giới thiệu trước ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó.
- Ở ô nhịp 9, BĐĐ có bè trong chuyển hành cũng là để giới thiệu nguyên vẹn hình ảnh của nhạc đề (LA–SO–FA–MI) sẽ được trình diện ngay sau đó.
- Cũng trong 3 ô nhịp 8,9,10bè trầm chuyển hành cũng lấy nguyên ý cuối của nhạc đề sau đó nhưng đã được đảo lộn và nới rộng (RE–MI–FA–SO–LA). Nét nhạc này cũng lập lại ở ô nhịp 11 (MI–FA–FA–SO).
- Cũng bằng cách ghi động, các bè của BĐĐ trong phần phiên khúc thay phiên nhau, làm cho đầy đặn bằng những HT rập dấu, bằng một chút phỏng diễn, bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ để bổ túc vào những chỗ trống của nhạc đề và để đối đáp với nhạc đề.
- Phần kết thúc cũng giống như những điều đã mô tả ở 1.c.
Lời bình:
Nói chung BĐĐ biệt lập là BĐĐ mà trong đó không có sự hiện diện của nhạc đề chính, rồi chính BĐĐ cũng có thể trở thành một tác phẩm riêng biệt để độc tấu mà không cần sự xuất hiện của nhạc đề. Thông thường thì BĐĐ biệt lập cho người nghe một hiệu ứng rất tráng lệ huy hoàng, các BĐĐ biệt lập mà không theo công thức nhịp điệu thường đòi hỏi ca đoàn và người chơi đàn phải có một trình độ nhất định, theo cách này thì chức năng của BĐĐ như để trải thảm, nhạc đề chính như những con ong con bướm bay lượn lên trên nó. Như vậy, cách này đòi hỏi người viết BĐĐ phải có kiến thức và người chơi đàn cũng như ca đoàn phải có trình độ nhất định, cách này rất xứng hợp với phụng vụ vì bản thân nó dễ tạo nên những điều kiện cho dòng ca chính được đánh nổi.
(Lời Chân Thành 4)
- Viết BĐĐ bằng những HT trải dấu và công thức nhịp điệu:
- Đoạn mở đầu được dùng nguyên công thức trải dấu của Bđđ, cuối đoạn mở đầu được dùng các dấu nhạc liền bậc như để lấy đà dẫn vào bài ca một cách tự nhiên (giữa ô nhịp 4).
- Ô nhịp 8 được dùng các dấu nhạc liền bậc làm thành đoạn nối câu.
- Các HT rập dấu ở ô nhịp 13 có ý để lập lại những dấu cuối cùng của nhạc đề (FA-MI-RE).
- Câu tiểu khúc được dùng các HT rập dấu bằng công thức nhịp điệu, nghe có vẻ máy móc tầm thường.
- Ô nhịp 21 và 22 : Công thức nhịp điệu được biến đổi để làm thành đoạn nối câu, để trở về ĐK bằng hình thức trải dấu.
- Phần kết được lấy nguyên vẹn công thức đệm của phần ĐK như để nhắc lại và đóng khung toàn bộ tác phẩm.
Lời bình:
Nhìn kỹ những tác phẩm bậc thầy, ta thấy có muôn vàn kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu, các BĐĐ viết theo kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu thường dễ đàn hơn là các BĐĐ viết theo lối mô phỏng. Kiểu này dễ được chấp nhận trong các ca đoàn mà khả năng còn hạn chế, đặc biệt là những ca đoàn thiếu nhi ở xứ ta. Vì bản thân nó dễ làm cho người hát giữ vững nhịp điệu (tempo) của bài ca, do đó mà các ca viên ca đoàn tự tin hơn khi hát, rồi người chơi đàn cũng dễ luyện tập hơn; Nhưng xem ra, trải dấu kiểu nào cũng mang tính máy móc công thức, mà đã là công thức thì tầm thường nên không phù hợp lắm đối với những bài ca mang tính tôn nghiêm trang trọng, và như vậy càng không thích hợp với việc đệm đàn phụng vụ.
(Lời Chân Thành 5)
- Bằng sự đối chọi nhịp điệu của nhạc đề và bè trên của BĐĐ. Bằng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục:
- Phần đầu gồm 4 ô nhịp, 4 ô nhịp này gần như đã gói trọn các ý chính của nhạc đề trong phần ĐK. Ô nhịp 1 (LA–RE–DO#–RE–MI) là lấy từ nét nhạc của “Lời chân thành dâng tiến”. Ô nhịp 2 (MI–LA–SO–FA#–MI) là lấy từ “Nguyện Chúa Cha nhân từ”. Ô nhịp 3 (LA–SO–FA–MI–RE) và ô nhịp 4 (TI–LA–SO–FA–MI) là lấy từ nét nhạc cuối của phần ĐK “Lễ hy sinh trên bàn thờ”.
- Đồng thời nét nhạc này lại là bè trên của BĐĐ để phụ họa cho vế 1 của phần ĐK (từ ô nhịp 5 đến 8) nhưng có nhịp điệu biệt lập (chuỗi liên 3) và đều đều, gây tương phản với nhịp điệu của đề (hình thức chẵn).
- Ô nhịp 8 là đoạn nối câu (LA–TI–DO#–RE–MI) là sự đảo lộn ý cuối của nhạc đề ĐK (LA–SO–FA–MI–RE) để dẫn vào đầu câu sau một cách tự nhiên, vì nét nhạc này đã được giới thiệu nguyên hình ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 trước đó rồi. Sau đó nó còn được giới thiệu một lần nữa ở bè trầm từ ô nhịp 9 đến 11 cũng bằng hình thức đảo lộn nhưng được nới rộng.
- Như vậy, trong phần ĐK, toàn bộ ý tưởng của BĐĐ luôn được gắn chặt với nhạc đề, tương phản và đối đáp với nhạc đề để cái này đánh nổi cái kia, sự tương phản về nhịp điệu thì ta thấy rõ, còn về nét nhạc chuyển hành lênxuống thì được BĐĐ đối đáp hoặc mô phỏng trên bình diện khác, khi thì chỗ này lúc thì chỗ kia, ví dụ ý nhạc của ô nhịp 9 (LA–RE–DO–TI–LA) được BĐĐ giới thiệu ở ô nhịp 6 (MI–LA–SO–FA#–MI) rồi lại được mô phỏng ngay sau đó từ cuối ô nhịp 10 sang đầu ô nhịp 11 (RE–SO–FA–MI–RE).
- Phần TK được BĐĐ áp dụng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục (Basso continuo) bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ như dấu nối, dấu lượn, dấu nhấn.
- Đoạn kết (từ ô nhịp 23 trở đi) mô phỏng lại ý nhạc của vế 2 phần ĐK nhưng được biến đổi nhịp điệu.
Lời bình:
Một tác phẩm âm nhạc giá trị nào bao giờ cũng tiềm ẩn các yếu tố của sự tương phản, bởi lẽ để thưởng thức được một tác phẩm nghệ thuật thì thông thường tác phẩm ấy phải có tính hấp dẫn, mà tính hấp dẫn được thể hiện nhiều nhất qua sự tương phản. BĐĐ biệt lập được viết theo kiểu mô phỏng nhằm để thực hiện điều đó, nhưng thường thì rất khó viết. Để viết BĐĐ theo cách này thành một tác phẩm có giá trị thì đòi hỏi nhạc sĩ phải có khá nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhất là phải thông thạo về các kỹ thuật của bộ môn đối âm (contra puntum); lại đòi hỏi cả người chơi đàn cũng phải giỏi, hay ít ra cũng phải được rèn luyện công phu để ngón đàn trở nên thông thạo xuôi chảy thì mới có thể ráp nối với ca đoàn; rồi khi ráp chung, ca đoàn và người chỉ huy cũng phải có một trình độ nhất định mới giải quyết được tất cả các vấn đề chi tiết của tác phẩm … nếu thiếu hiểu biết, các BĐĐ loại này rất dễ làm dịp tội cho người chơi đàn, vì nếu họ không được chỉ dẫn cặn kẽ sẽ vướng phải điều tối kị là “khoe tiếng đàn”, làm cho tiếng đàn lấn át tiếng hát thì phản tác dụng rồi, điều đó thật không phù hợp, không đúng tinh thần mà Hội thánh mong muốn.
Như vậy, để có thể thực hiện tác phẩm với BĐĐ loại này, ta thấy có khá nhiều đòi hỏi về trình độ chuyên môn của các thành phần liên quan, không mấy thích hợp cho các ca đoàn bình dân còn có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nếu nơi nào có khả năng thực hiện thì nó rất xứng đáng, vì nó có có khả năng làm tăng thêm vẻ trang trọng, lộng lẫy huy hoàng của khung cảnh lễ nghi phụng vụ.
(Lời Chân Thành 6)
Ta có thể nói tóm tắt rằng, tầm quan trọng của BĐĐ trong việc sáng tác, dù là bài thánh ca lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp, để gọi là mặc áo nên tất cả cần phải được viết hoà âm cho bản đệm đàn, để người đàn có thể nhìn vào đó mà cử lên cùng với tiếng hát của ca đoàn. Đó là việc làm đúng đắn và cần thiết, chứ không phải là ta viết tên hợp âm như Am, Dm bên trên dòng nhạc như nhiều nơi thường làm. Như vậy, để viết một bản đệm đàn thì ngoài việc biết chơi đàn, bó buộc chúng ta phải học hoà âm, học để viết được bản đệm đàn cho đúng các giá trị và quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi, như điều mà Hội thánh mẹ mong muốn chúng ta thực hiện khi nói đến đặc tính hình thức tốt đẹp (bonitas formae) trong Huấn thị Âm nhạc trong Phụng vụ, khoản 4.
Để kết thúc, chúng tôi xin trình bày lại một lần nữa bài LỜI CHÂN THÀNH ở một bình diện Hợp xướng bốn bè dị giọng, kết hợp với Bản đệm đàn biệt lập theo hình thức trải thảm.
Antôn Tiến Linh
2023
Thiên Chúa vĩ đại hơn những vấn đề của bạn
Thiên Chúa vĩ đại hơn những vấn đề của bạn
Cuộc chiến thuộc về Thiên Chúa
“Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Chúa Giêsu không bao giờ cố phủ nhận sự thật rằng cuộc sống có những khó khăn của nó. Ngay cả khi trở thành một trong những môn đệ của Người và phó thác cuộc đời của bạn cho Người thì bạn cũng không được miễn nhiễm khỏi những thử thách và gian nan.
Cho dẫu thực tế là chúng ta sẽ gặp những vấn đề và đau khổ, chúng ta đừng bao giờ quên rằng những vấn đề của chúng ta chẳng là gì đối với Thiên Chúa. Nếu vấn đề của chúng ta có vẻ như quá lớn để giải quyết, thì Thiên Chúa chúng ta đã trở nên quá nhỏ bé.
Một khi bạn nhận ra rằng các khả năng của bạn có hạn (điều dường như xảy ra mỗi ngày, phải không?), bạn sẽ dễ dàng rơi vào sợ hãi hoặc thất vọng. Tôi có xu hướng kiểm soát, và vì thế tôi có thể rơi vào tình trạng hoảng sợ trong một vài phút. Điều thường cứu tôi là tôi biết rằng, cho dù những vấn đề của tôi quá lớn đối với tôi, nhưng chúng lại không quá lớn đối với Thiên Chúa. Đây là một thí dụ thực tế trong quá khứ cách đây không lâu.
Vào tháng 9 năm 2016, tôi đã tiếp cận ban quản trị của chương trình Holy Spirit Radio ở Philadelphia và đã trình bày tầm nhìn của tôi về một chương trình Chào Buổi Sáng của Công Giáo một cách mới mẻ và lành mạnh. Họ thích ý tưởng đó và sau một vài cuộc họp và hoạch định công việc, thì chương trình “Tinh Thần của Bình Minh” đã được khai mở vào ngày 10 tháng 10 năm 2016. Cùng với Dave Parker, người đồng dẫn chương trình, tôi đã bắt đầu một kế hoạch kéo dài hai năm để giới thiệu các vị khách Công Giáo hàng đầu và âm nhạc Kitô giáo đương đại.
Sau cùng, tôi đã trở nên thoải mái khi đương đầu những thách đố của chương trình phát thanh trực tiếp, nhưng lúc đầu thì không phải như vậy. Nói rằng tôi đã không biết những gì tôi làm thì không đúng. Dave Parker là một người bạn tốt và là một người đồng dẫn chương trình tuyệt vời, nhưng anh chỉ biết hơn tôi một chút về những thông tin chi tiết của chương trình phát thanh trực tiếp. Vậy làm cách nào chúng tôi đã sống sót?
Thiên Chúa đã gửi ai đó đến giúp, như Người rất thường xuyên làm như thế. Frank Eliason đã đến hiện trường để đảm nhận vai trò giám đốc điều hành cho đài phát thanh. Anh đã gắn bó với đài phát thanh, làm việc từ xa nhiều năm. Bây giờ anh góp phần quan trọng vào các các hoạt động studio hằng ngày. Và mặc dù anh có ít kinh nghiệm về đài phát thanh, nhưng khả năng học hỏi và vượt trội trước áp lực quả là đáng nể.
Bất cứ thử thách nào chúng tôi giao phó cho Frank, anh ta đều giải quyết được. Thường xuyên làm việc dưới áp lực đáng kinh ngạc, Frank dường như không bao giờ bối rối bởi bất cứ điều gì. Ngoài việc giữ cho chương trình chúng tôi phát sóng, Frank còn chịu trách nhiệm vô số thiết bị nâng cấp và các ý tưởng lập trình sáng tạo. Nói tóm lại, Frank Eliason là một thiên tài.
Thời gian trôi qua, tôi có thể thư giãn và tập trung vào những bổn phận dẫn chương trình chính của mình, biết rằng Frank ở đó để giải quyết bất cứ khủng hoảng nào xảy đến. Tôi không còn lo lắng về mọi thứ có thể gặp sự cố. Thay vào đó, tôi tập trung vào việc dẫn chương trình phát thanh cách tốt nhất mà tôi có thể. Nếu một vấn đề kỹ thuật nảy sinh, Frank sẽ giải quyết nó. Biết rằng tôi có “Frank” đứng bên cạnh khiến cho mọi vấn đề không mong đợi xem ra nhỏ hơn nhiều.
Thiên Chúa Vĩ Đại Thế Nào? Nếu bạn muốn hiểu được ý tưởng về quyền năng của Thiên Chúa, Thánh Kinh là một nơi tuyệt vời để bắt đầu. Nhiều lần, suốt Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, chúng ta thấy rõ về quyền năng của Thiên Chúa đối với kẻ thù của dân Người và trên các thế lực thiên nhiên. Những thí dụ về quyền năng của Thiên Chúa cho chúng ta sự tự tin chúng ta cần để đối diện với những thách đố của cuộc sống mà không sợ hãi. Thiên Chúa càng vĩ đại thì các vấn đề của chúng ta càng nhỏ bé.
Lúc Khởi Đầu…
Không có nơi nào tốt hơn để bắt đầu bằng lúc khởi đầu: Sách Sáng Thế, chương 1, câu 1. Thiên Chúa của chúng ta quá vĩ đại đến nỗi sự vĩ đại của Người thể hiện rõ ràng ngay từ những lời đầu tiên của Thánh Kinh:
“Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: ‘Phải có ánh sáng’. Liền có ánh sáng” (St 1,1-3).
Ý tưởng về việc tạo dựng cái gì đó từ hư không là một khái niệm khó nắm bắt, và có lý do chính đáng. Con người không thể làm điều đó. Đúng vậy, một người thợ vẽ có thể tạo nên một bức chân dung đẹp, nhưng anh ta phải sử dụng cọ, sơn và vải. Tương tự, một nhà soạn nhạc không thể sáng tác một bài hát mà không sử dụng những nốt nhạc và các nhà thầu không thể xây dựng những căn nhà mới mà không sử dụng các chất liệu và dụng cụ có sẵn. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể tạo dựng nên vật gì đó từ hư không.
Ngoài việc cho chúng ta một thoáng nhìn về sự vĩ đại của quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa, ba câu đầu tiên của Thánh Kinh buộc chúng ta phải chạm trán với một khái niệm cực kỳ thách đố. Để sáng tạo trời và đất lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã phải hiện diện trước thời điểm đó. Nói cách khác, không bao giờ có lúc Thiên Chúa không hiện hữu. Người không có khởi đầu và sẽ không có kết thúc. Người đơn giản là đã luôn luôn hiện hữu và sẽ luôn luôn hiện hữu.
Khi phải đối diện với một vấn đề lớn, tôi thường suy gẫm về câu chuyện tạo dựng, mượn lời của ngôn sứ Giêrêmia: “Lạy Đức Chúa, Chúa Thượng của con, này Ngài đã tạo thành trời đất bằng sức mạnh vĩ đại và cánh tay uy quyền của Ngài. Không có gì mà Ngài không làm được!” (Gr 32,17)
Tôi đã trải qua nhiều ngày khi những vấn đề của tôi dường như quá khó để giải quyết. Còn bạn thì sao? Thật may mắn, chúng ta có Cha trên trời Đấng mà không có gì là quá khó với Người. Hãy ghi nhớ điều đó bất cứ khi nào bạn bắt đầu cảm thấy thất vọng. Dù đó là điều gì, Thiên Chúa đều có thể giải quyết được.
Trong Cuộc Chiến với Những Tên Khổng Lồ. Bạn đã từng phải giáp mặt với một vấn đề to lớn chưa? Tôi biết tôi có: COVID-19, thất nghiệp, cô đơn, bệnh nặng, v.v. Những vấn đề của bạn có thể khác với các vấn đề của tôi, nhưng tôi tin chắc rằng bạn đã chạm trán với những vấn đề dường như không thể vượt qua được. Có thể là ngay bây giờ bạn đang đối diện với một vấn đề như thế.
David biết cảm giác khi giáp mặt với một tên khổng lồ là như thế nào. Anh cũng biết sự tự tin đến từ việc sẽ ra trận dưới sự bảo vệ của Thiên Chúa toàn năng.
Những người Philitinh luôn là cái gai đối với người Ítraen. Thực vậy, quân đội của hai bên đã đụng độ nhau nhiều lần. Sách Samuel quyển thứ nhất đã ghi lại cuộc chiến đáng chú ý nhất (x. 1 Sm 17). Một thung lũng nằm giữa hai quân đội, khi họ giáp mặt nhau trên những ngọn đồi đối diện. Bất thình lình, Gôliat, cao 9 feet, đã thách thức quân đội của Ítraen: “Sao chúng bay ra dàn trận? Ta đây chẳng phải là người Philitinh, còn chúng bay chẳng phải là bề tôi Saun sao? Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. Nếu nó đủ mạnh để chiến đấu với ta và hạ được ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bay. Còn nếu ta mạnh hơn nó và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ chúng tao và sẽ hầu hạ chúng tao” (1 Sm 17,8-9).
Nghe những lời chế nhạo của Gôliat, Thánh Kinh cho chúng ta biết, vua Saun và dân Ítraen đã “kinh khiếp sợ hãi lắm” (1 Sm 17,11). Kết quả là, dân Ítraen đã không đáp lại lời thách thức của Gôliat và trong bốn mươi ngày, Gôliat lại tiếp tục hống hách ngang ngược trước quân đội Ítraen. Cuối cùng, có ai đó đã đứng ra và thể hiện sự sẵn lòng để chấp nhận lời thách thức của tên khổng lồ.
Đavít, người con trai út của một người đàn ông tên là Giêsê, đã nghe những lời chế nhạo của Gôliat. Cảm thấy bị xúc phạm vì quân Philitinh “thách thức hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống” (1 Sm 17,26) và khủng bố quân lính, Đavít đã đến với Vua Saun với một đề nghị can đảm: “Ðừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Phi-li-tinh ấy” (1 Sm 17,32).
Nại vì Đavít còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, nhà vua đã từ chối lời đề nghị của anh. Đúng thôi, phải không? Nếu bạn chọn một người để giao chiến với một tên khổng lồ, bạn sẽ chọn một ai đó mạnh mẽ, chứ không phải một thanh niên mà chỉ có kinh nghiệm làm việc chính là chăn chiên cho cha mình. Nhưng Đavít vẫn kiên trì:
“Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” Ðavít nói: “Đức Chúa là Ðấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Philitinh này” (1 Sm 17,34-37).
Cuối cùng, nhà vua đã mủi lòng và đã sai người chiến binh trẻ tuổi vào trận chiến. Bị người đại diện cho quân đội của Ítraen xúc phạm và thực tế là vũ khí lựa chọn của Đavít chỉ là súng cao su, Gôliat buông lời đe dọa. Đavít tự tin đáp lại bằng những lời có thể tăng sức mạnh cho chúng ta khi chúng ta đối diện với những tên khổng lồ của chính mình: “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ítraen mà mày thách thức. Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Philitinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ítraen, và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!” (1 Sm 17,45-47).
Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, Đavít đã có thể hạ gục Gôliat và đã chiến thắng. Chứng kiến cái chết của chiến binh hùng mạnh của mình, quân Philitinh đã quay đầu bỏ chạy.
Đó là những gì sẽ xảy ra khi bạn đi vào cuộc chiến có Thiên Chúa đứng về phía mình. Người chưa thua một trận chiến nào. Hãy ghi nhớ điều này khi bạn nhìn vào những tên khổng lồ của bạn hôm nay. Bạn có thể cảm thấy bị áp đảo bởi những vấn đề to lớn của mình, nhưng bạn có Thiên Chúa ở bên cạnh.
Đây là một đoạn trích từ cuốn sách có tựa đề “Hành trình với Thiên Chúa”, tác giả là Gary Zimak (The Word Among Us Press, 2021), có thể truy cập tại from www.wau.org/books.
Tác giả: GARY ZIMAK
Nguồn: WAU, Personal Spirituality Resources
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương