2023
Thiên thần là ai? Các ngài được tạo dựng nên để làm gì?
Ts. Trần Mỹ Duyệt
Mỗi khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình”, chúng ta thường nghĩ đến những tạo vật vô hình là các thiên thần. Vậy thiên thần là ai? Các ngài được dựng nên để làm gì? Và làm cách nào chúng ta có thể biết được các ngài cũng như những sinh hoạt của các ngài?
NHỮNG TẠO VẬT VÔ HÌNH
Theo Thánh Kinh và căn cứ trên nhiều truyền thống tôn giáo, các thiên thần là những tạo vật thiêng liêng, vô hình vượt xa hơn con người là những tạo vật hữu hình: “Vì Ngài đã tạo nên con người thấp hơn các thiên thần một chút, và đã đội trên con người triều thiên danh dự và vinh quang” (Thánh Vịnh 8: 5).
Các thiên thần hơn con người một chút vì các ngài là những tạo vật thần linh. Trong khi đó, con người là những tạo vật hữu hình có hồn và có xác. Tuy nhiên, Thiên Chúa “đã đội trên con người triều thiên danh dự và vinh quang”, vì Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã mặc lấy hình hài và bản tính của con người.
Các thiên thần có nhiều nhiệm vụ và nhiều vai trò trong Vương Quốc của Thiên Chúa:
– Chầu chực trước ngai tòa Thiên Chúa.
– Phụng sự Thiên Chúa.
– Làm sứ giả của Thiên Chúa.
– Nối kết giữa Thiên Chúa và con người.
– Được chỉ định canh giữ, hướng dẫn con người, và cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Những tôn giáo như Do Thái Giáo (Judaism), Kitô Giáo (Christianity), và Hồi Giáo (Islam) luôn coi các thiên thần như những tạo vật thần linh nối kết giữa Thiên Chúa và con người. [1] Các thiên thần không phải là nam hay nữ theo sự hiểu biết và kinh nghiệm về phái tính của con người. Tuy nhiên, mỗi khi các ngài được nhắc tới trong Thánh Kinh, từ ngữ dùng để dịch “angel” luôn luôn là nam giới. Cũng vậy, mỗi khi xuất hiện, thiên thần luôn xuất hiện như những người nam. Ngay cả tên gọi của các ngài cũng mang giới tính nam. [2]
PHẨM TRẬT CÁC THIÊN THẦN
Có 250 lần các thiên thần được nhắc đến từ sách Sáng Thế Ký tới sách Khải Huyền. Tuy nhiên, Thánh Kinh không đưa ra con số chính xác các thiên thần được Thiên Chúa tạo dựng.
Trong Khải Huyền, Thánh Gioan viết: “Rồi tôi nhìn lên và nghe tiếng của nhiều thiên thần, con số hàng ngàn ngàn, và hàng vạn vạn” (Khải Huyền 5:11). Linh mục Nguyễn Thế Thuấn trong bản dịch Kinh Thánh của ngài, ngài dịch là: “vạn vạn ngàn ngàn”. Trước đó, trong thị kiến tiên tri Daniel đã nhìn thấy “hàng ngàn ngàn phục vụ Ngài; vạn vạn đứng trước Ngài” (Daniel 7:10). Và trong Thư Do Thái cũng nhắc đến con số đạo binh thiên thần hàng hàng lớp lớp (Do Thái 12:22). Hiểu là con số các thiên thần trên trời nhiều vô số kể.
Ngoài số đông các thiên thần tốt lành, Kinh Thánh còn nói đến những thần sa ngã. Đó là các thiên thần đã bị đuổi khỏi thiên đàng vì sự bất tuân phục. Satan là thủ lãnh những đọa thần này. Con số một phần ba các thiên thần sa ngã được nói tới trong Khải Huyền: “Đuôi nó quét xuống một phần ba tinh tú trên trời và ném xuống đất” (Khải Huyền 12:4). Nhiều phiên bản dịch khác nhau, nhưng đa số đồng ý biến cố xảy ra liên quan đến việc Satan phản nghịch lại với Thiên Chúa.
Pseudo-Dionysius, thần học gia và triết gia Công Giáo thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 trong tác phẩm De Coelesti Hierarchia (On the Celestial Hierarchy) và Thánh Thomas Aquinas trong Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae) trích dẫn từ Tân Ước, đặc biệt trong thư Êphêsô 1:21và Côlôsê 1:16 đã phân định các thiên thần thành ba đẳng, mỗi đẳng gồm ba loại tùy theo vai trò và nhiệm vụ của các thần. Thánh Bonaventure tóm lược 9 phẩm thiên thần theo sau những việc làm của các ngài như: loan tin, truyền đạt, và hướng dẫn, dùi dắt, thúc đẩy, ra lệnh, đón nhận, mặc khải, và xức dầu. Về phẩm trật các thiên thần, ngài cho rằng chỉ 5 vị đầu tiên được sai xuống bởi Thiên Chúa để làm sáng tỏ chính các ngài giữa thế giới vật chất, trong khi bốn phẩm thiên thần cao nhất luôn ở trên trời trước tôn nhan Thiên Chúa.
– Ba đẳng thiên thần
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôsê đã vẽ ra một bức tranh mờ mờ về đẳng cấp các thiên thần: “Nhờ ngài mọi sự được tạo dựng trên trời và dưới đất, vô hình và hữu hình, dù là Ngai Thần (Thrones) hay Quản Thần (Dominions), Lãnh Thần (Rulers), Quyền Thần (Authorities) – mọi sự đều được ngài tạo dựng và cho ngài” (Côlôsê 1:16). Minh Thần (Cherubim) thì được nhắc đến trong Sáng Thế Ký khi Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Địa Đàng và đặt Cherubim cằm gươm canh giữ (Sáng Thế Ký 3:24).
Về đẳng cấp, các thiên thần được chia thành ba đẳng:
– Đẳng I (cao nhất) gồm các:
Luyến Thần (Seraphim [Seraphimy]),
Minh Thần (Cherubim [Cheruvimy]),
và Bệ Thần hay Ngai Thần (Thrones [Prestoly]).
Seraphim thông đạt tình yêu và sự thật của Thiên Chúa. Ngai Thần truyền đạt mọi sự đến các đẳng thiên thần khác. Gần kề bên Thiên Chúa nhất là Seraphim. Tên Seraphim có nghĩa là “sốt mến” hoặc các thần lửa, bởi vì Thiên Chúa là ngọn lửa của tình yêu.
– Đẳng II (trung bình) gồm các:
Quản Thần (Dominions [Gospodstva]),
Dũng Thần (Virtues),
và Quyền Thần (Powers /Authorities).
Nắm giữ quyền cai quản trên những thần khác, và hướng dẫn các nhà lãnh đạo mặt đất, được thiết lập bởi Thiên Chúa, để họ biết cai trị khôn ngoan.
– Đẳng III (thấp nhất) gồm các:
Lãnh Thần (Principalities/Rulers),
Tổng Thần (Archangels),
và Thiên Thần (Angels).
Là những thần hiểu biết sự khôn ngoan từ các đẳng cao hơn, có liên quan đến những thực tế cụ thể, và phục vụ hữu hiệu trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, như những luật lệ tự nhiên, và hướng dẫn các dân nước và từng cá nhân. [3]
– Chín phẩm thiên thần
Từ ba đẳng, các thiên thần thuộc về một trong chín phẩm, mỗi phẩm gồm nhiều thiên thần:
1. Luyến Thần (Seraphim) – Còn được gọi là Thần Sốt Mến, cao nhất trong chín phẩm thiên thần. Phẩm Seraphim gồm bốn thần. Mỗi Seraphim có 4 mặt [4]. Có hai Seraphim được nhắc tên là Seraphiel và Metatron (trong đó, Seraphiel được miêu tả là có cái đầu của phượng hoàng).
Các Seraphim luôn chầu chực, bay quanh ngai tòa Thiên Chúa, tung hô, chúc tụng Thiên Chúa: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa”. Thần Seraphim có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh che chân và hai cánh để bay (Isaia 6:1-7). Vì ở gần bên Chúa và luôn được cháy sáng, ánh sáng phát ra từ các Seraphim chói lọi đến nỗi không một ai, thậm chí là các thiên thần khác, có thể nhìn trực tiếp được. [5]\
2. Minh Thần (Cherubim) – Cherubim [Cheruvimy] tiếp theo sau Seraphim trong chín phẩm thiên thần. Các Cherubim mô tả giống con người về bề ngoài, có hai cánh. Trong Tân Ước, các Cherubim thường được gọi là những người trời.[6]
Luôn bảo vệ vinh quang Thiên Chúa. Tên Cherubim có nghĩa là: chan hòa sự khôn khoan, ánh sáng, vì từ các vị – sự sáng với ánh sáng hiểu biết Toàn Năng và thông tri những mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã ban xuống ơn khôn khoan và tỏa sáng về sự thông hiểu Thần Linh thật.
Cherubim được nhắc đến nhiều trong Thánh Kinh như Sáng Thế Ký 3:24, Sách Êdêkien 10:12-24, Sách Các Vua quyển thứ nhất 6:23-28 và sách Khải Huyền 4:6-8. Ông Maisen đã cho đúc hai tượng Cherubim bằng vàng đặt ở đầu của hòm bia thánh. Sau này vua Salomon cũng tạc hai tượng Cherubim bằng gỗ ôliu nạm vàng, đứng hai bên cạnh hòm bia, phủ cánh che rợp hòm bia. Vì thế, các Cherubim được gọi là các thiên sứ hộ giá và đứng đầu trong phẩm trật thiên sứ vì luôn kề cạnh bên Thiên Chúa. [7]
3. Bệ Thần (Thrones) [Prestoly] – Bệ Thần hay Ngai Thần là các thiên thần của sự khiêm nhường, sự bình an và sự phục tùng. Nếu các thiên thần phẩm trật dưới cần đến gần Thiên Chúa thì phải qua các Bệ Thần.
Thronos (tiếng Hy Lạp: θρόνος, “ngai vàng”) cũng xuất hiện trong Khải Huyền 11:16 và Thư gửi giáo đoàn Côlôsê 1:16. Theo thị kiến của tiên tri Êdêkien 1:15-21, các Bệ Thần được miêu tả dưới hình dạng những bánh xe, có nhiều mắt trên vành bánh “Khi các thần hộ giá dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại, khi các thần hộ giá cất mình lên, các bánh xe cũng cất lên theo, bởi vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe.” (Êdêkien 10:17).
Bệ Thần là biểu tượng cho công lý và quyền uy của Thiên Chúa. Cùng với Seraphim và Cherubim, các Bệ Thần không bao giờ ngủ để canh giữ cho ngai tòa của Thiên Chúa. [8]
4. Quản Thần (Dominions) [Gospodstva] – Dominionstiếng Latinh: dominationes, tiếng Hy Lạp: kyriotētes, là những thiên sứ phối hợp hoạt động của các thiên binh cấp dưới. Nhiệm vụ chính của các Quản Thần là giữ gìn vũ trụ theo đúng trật tự, đem công lý của Thiên Chúa tới những nơi bất công. Tỏ lòng thương xót của Ngài với con người bằng cách ban sức mạnh cho những nhà lãnh đạo các quốc gia.
Quản Thần được miêu tả với hình dạng giống như thần linh xinh đẹp, có đôi cánh lông vũ như hình tượng chung của các thiên sứ. Tuy nhiên, để phân biệt với các thần khác, các Quản Thần có thanh gươm ánh sáng gắn chặt vào đầu. [9]
5. Dũng Thần (Virtues) – Có nhiệm vụ giám sát sự chuyển động của các thiên thể để đảm bảo rằng vũ trụ tuân theo chuyển động tự nhiên. Virtutes có nghĩa là quyền năng, sức mạnh và uy lực, luôn sẵn sàng, dũng cảm thi hành những việc phi thường.
Dũng Thần còn được biết đến là các thần “chiếu sáng.” Ngoài tư cách là thần chuyển động, các Dũng Thần cũng giúp điều khiển thiên nhiên, các phép lạ, khuyến khích con người giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, tăng thêm sức mạnh cho những nhân vật tài năng dưới trần gian. [10]
6. Quyền Thần (Authorities) [Vlasti] – Quyền Thần hay các Thiên Thần Chiến Binh vì chiến thắng sự dữ, không chỉ trong vũ trụ mà cả con người. Có quyền trên ma quỷ, ngăn cản sức mạnh của chúng, Quyền Thần cũng giúp con người chiến đấu với các đam mê và tật xấu để từ bỏ những cám dỗ do ma quỷ, thế gian, và xác thịt xúi giục (1 Phêrô 3:22, và Côlôsê 1:16). [11]
Quyền Thần giám sát sự phân chia năng lực giữa nhân loại, giữ vững ranh giới giữa thiên đàng và trần gian. Các Quyền Thần mang hình dạng rực rỡ màu sắc và sương khói mờ ảo. [12]
7. Lãnh Thần(Principalities)[Nachala] – Các Lãnh Thần có quyền trên các thiên thần cấp dưới và điều khiển các vị hoàn thành mệnh lệnh của Thiên Chúa (Côlôsê 1:16).
Các Lãnh Thần còn được gọi là Hoàng Thân hoặc Người Cai Trị vì trực tiếp theo dõi các tổ chức lớn, nhỏ, kể cả tầm mức các quốc gia và Giáo Hội, đồng thời bảo đảm việc hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa. Khôn ngoan và quyền lực nhưng ở khoảng cách xa Thiên Chúa nhất trong các phẩm trật thiên thần để có thể giao tiếp với con người bằng những cách mà chúng ta có thể hiểu.
Lãnh Thần có hình đội một vương miện và mang theo một cây gậy. Nhiệm vụ của các ngài là thực hiện tấn phong cho những nhà lãnh đạo các xứ sở, gìn giữ thế giới vật chất, và giám sát các dân tộc. Lãnh Thần là những quan thầy và bảo hộ cho các vương quốc trên mặt đất. Ngoài ra, còn truyền cảm hứng và tư tưởng trong các lãnh vực nghệ thuật và khoa học. [13]
8. Tổng Thần (Archangels) – Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael được đặc biệt tôn tính đối với Kitô Giáo Latin, trong khi đó các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương kính nhớ cả 7 vị.
Ngoài ra, cũng theo truyền thống Lutheranism và Anglicanism có 5 vị tổng thần được tôn kính: Michael, Gabriel, Raphael, Uriel và Jerahmeel. Tuy nhiên Kitô Giáo Chính Thống Đông Phương (Oriental Orthodox Christianity) và Kitô Giáo Chính Thống Tây Phương (Eastern Orthodox Christianity) lại kính nhớ 8 vị, đó là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Salathiel, Jegudiel, Barachiel, và Jeremiel. Bốn vị sau trong số này truyền thống Coptic đặt tên là Surael, Sakakael, Sarathael, và Ananael.
Ba Tổng Thần được Giáo Hội Công Giáo mừng kính vào ngày 29 tháng 9 là Michael, Gabriel và Raphael. Cả ba đều được nhắc tên trong Thánh Kinh vì những vị trí quan trọng của các ngài trong lịch sử cứu độ.
Michael (Micae) – “Ai bằng Thiên Chúa”.
Michael có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa”. Giống như các Tổng Thần khác, Michael thiêng liêng, sức mạnh siêu phàm, nhanh như ánh sáng, không thể bị tổn thương, có giọng oai dũng, khả năng chiến đấu, dũng mãnh, và quyền lực để nói với các loài vật.
Hình ảnh của ngài được diễn tả trong Sách Khải Huyền: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Michael và các thiên thần của người giao chiến với con Rồng. Con Rồng cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. Con Rồng lớn bị xô nhào xuống. Nó là con rắn xưa, gọi là ma quỷ hay Satan, kẻ chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó bị xô nhào xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị xô nhào xuống với nó” (Khải Huyền 12:7-9).
Gabriel (Gabrien) – “Người của Thiên Chúa”.
Trong tiếng Hy Lạp “aggeslos” có nghĩa là “sứ giả.” Gabriel là một trong 7 tổng thần, và là một trong ba tổng thần được nhắc đến trong Luca 1:27-28, cùng với Michael (Khải Huyền 12:7-9), và Raphael (Tobit 12:15). Gabriel là “Sứ Giả của Thiên Chúa” và thuộc đẳng cao hơn trong các thiên thần khác.
Tên Gabriel có nghĩa là “Người của Thiên Chúa” trong tiếng Do Thái, hoặc “Thiên Chúa đã chiếu tỏ quyền năng”. Trong Thánh Kinh, Gabriel là sứ giả xuất hiện trong Cựu và Tân Ước. Biến cố nổi nhất là lần xuất hiện trong ngày ngài truyền tin cho Đức Maria (Luca 1:26-38; Mátthêu 1:20-24). Ngài cũng được cho là thiên thần xuất hiện bên Chúa Giêsu để an ủi Ngài trong lúc Chúa hấp hối ở vườn Gethsemane (Luca 22:43).
Raphael – “Thiên Chúa chữa lành”.
Raphael là tổng thần lần đầu tiên được nhắc đến trong sách Tobit và trong 1 Enoch, cả hai được dự đoán giữa thế kỷ thứ ba và thứ hai BCE.
Là một trong bảy Tổng Thần đứng trước ngai Thiên Chúa (Tobit 12:15), và là một trong ba vị được nhắc đến trong Phúc Âm.
Raphael có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành”. Trong Sách Tobit, ngài tự nhận như “Azarias là con của Ananias tiền bối” thuộc dòng họ Tobit, đi cùng Tobit, con của Tobiah. Ngài đã chữa cho Tobiah khỏi mù và trừ quỉ Asmodeus ra khỏi Sarah, vợ tương lai của Tobit. Quỉ Asmodeus đã giết những người đàn ông đã cưới Sarah ngay trong đêm tân hôn trước khi động phòng.
Tổng Thần Raphael là bổn mạng của những người đi đường, những người mù lòa, bệnh tật, không gặp may mắn, y tá, y sỹ và nhân viên y tế. [14]
9. Thiên Thần (Angels) [Angely] – Các thiên thần là những thần trời gần nhất với thế giới và con người. Là người chuyển cầu lên Thiên Chúa và loan báo các sứ điệp cho con người trên thế gian (1 Phêrô 3:22). Một trong các đặc tính của các thiên thần là rất quan tâm và thân thiện trợ giúp những người cầu xin nâng đỡ.
Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của các thiên thần phục vụ như những sứ giả của Thiên Chúa đối với con người. Trong Cựu và Tân Ước, Thiên Chúa đã không ngừng nhắc lại và dùng các thiên thần để nói ý định của Ngài cho con người, thí dụ, với Abraham, Maisen, Jacob, Gideon, Daniel, Trinh Nữ Maria, Zachariah và Giuse, và nhiều vị thánh cũng như các tiên tri.
Kinh Thánh viết: “Người [Thiên Chúa] truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Thánh Vịnh 91:11-12). Ngoài các tổng thần, chúng ta có thiên thần bản mệnh, là những thiên thần được chỉ định để hướng dẫn và che chở cá nhân mỗi người. Thánh Thomas đồng ý với Thánh Jerome trong trích dẫn Phúc Âm Thánh Mátthêu cho rằng mỗi người chúng ta đều có một thiên thần bản mệnh (Mátthêu 18:10). Đó cũng là cách mà Ngài hằng ở bên chúng ta khi đối mặt với bão tố cuộc đời. Chúa Giêsu khi đề cập đến các thiên thần bản mệnh đã nói: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mátthêu 18:10). Lễ kính các Thiên Thần Bản Mệnh được cử hành vào ngày 2 tháng 10.
__________
Tham khảo
https://www.christianity.com/wiki/angels-and-demons/are-angels-male-or-female.html.
https://en.wikipedia.org/wiki/Hierarchy_of_angels
https://people.howstuffworks.com/9-types-of-angels.htm
5,7,8,9,12,13. Phẩm trật Thiê n sứ trong Kitô giáo. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
6,10,11. Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ beliefnet.com). Chín Phẩm Thiên Thần.
http://giaoxutanviet.com/chin-pham-thien-than/
14.Trần Mỹ Duyệt. Các Tổng Lãnh Thiên Thần. Facebook Duyet Tran
2023
Làm chứng cho những mối phúc & mối họa
Làm chứng cho những mối phúc & mối họa
Nền tảng của những mối phúc
Từ “beatitude” bắt nguồn từ beatus trong tiếng Latinh, dịch từ tiếng Hy Lạp makarioi (μακάριοι), có nghĩa là ban phước, hoặc hạnh phúc, may mắn. Các mối phúc chúng ta quen thuộc nhất được tìm thấy ở phần đầu của Bài Giảng Trên Núi nơi Tin Mừng Mát-thêu 5, 3-12 và Bài Giảng Nơi Đất Bằng trong Tin Mừng Luca 6, 20-26. Tuy nhiên, các mối phúc được tìm thấy trong Tin Mừng không phải là những mối phúc duy nhất trong Kinh thánh; chúng bắt nguồn từ kinh nghiệm của người Do Thái được Chúa chúc phúc trong suốt lịch sử cứu rỗi. Nhiều sách Cựu Ước đề cập đến những người dân được Chúa chúc phúc thường với câu “Phúc cho…”. Sách Đệ nhị luật khi mô tả viễn cảnh lúc dân Chúa tiến vào Đất Hứa, đã nói về phước lành, về hạnh phúc cho người vâng theo lề luật Chúa (Đnl 28,1-6). Phúc lành Chúa ban sẽ “tràn đầy” nơi cuộc sống nông thôn cũng như thành thị, sẽ ngập tràn lúc chào đời của trẻ em cũng như gia súc, và đến cả việc sản xuất hoa màu. Chúa chúc lành cho dân tộc này sẽ được an toàn, dư đầy và và thịnh vượng. Những phúc lành như thế là bằng chứng cho việc Chúa làm cho một dân tộc đã từng là nô lệ. Trong bối cảnh của Đệ nhị luật, ai muốn được hưởng phước lành đều phải tuân theo các luật lệ của giao ước. Chúng ta có thể tóm tắt ý này bằng câu, “Phúc cho những ai tuân theo các mệnh lệnh Chúa, Đấng đã giải phóng ngươi.”
Chúng ta cũng tìm thấy các mối phúc nơi sách các tiên tri. Thật thế tương tự như những tiểu quốc vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu bị lật đổ trước những nước lớn hơn, nước Giuđa phải tranh đấu để sống còn và để luôn trung thành với Đức Chúa. Trong lúc nước Giuđa nghĩ đến việc lập liên minh với Ai Cập để chống lại Asiri, tiên tri Isaia nói ngay rằng những nỗ lực của Giu-đa như thế là nổi loạn. Ông đưa ra lời khuyên ngược đời này dưới dạng một mối phúc: “Vì Đức Chúa là Thiên Chúa công minh, hạnh phúc thay mọi kẻ đợi chờ Người”(Is 30, 18). Trong sách Giê-rê-mia đoạn 17, lời của nhà tiên tri cũng chất chứa nỗi thất vọng với dân Giu-đa vì họ đã vi phạm Giao ước và quay lưng lại với sự khôn ngoan được tìm thấy nơi Giao ước. Tiên tri Giêrêmia đã tạo niềm hy vọng khi nói “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.” Những lời chúc phúc như thế trong các sách tiên tri là cách làm rất thực tế trong bối cảnh chiến tranh xảy ra, chính quyền sụp đổ, và cuối cùng dân phải lưu vong.
Tiếp đến, những người được coi là “được ban phước” dưới hình thức “phúc thay” cũng có thể tìm thấy trong sách Thánh Vịnh:
– Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân (1, 1)
– Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung.(32, 1)
– Phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài. (84, 4-5)
– Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy CHÚA. (89,15)
Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA, ăn ở theo đường lối của Người.Đó chính là phúc lộc CHÚA dành cho kẻ kính sợ Người (128, 1 & 4).
Sách Châm ngôn 8,32-34 dạy rằng những ai nghe theo lời Chúa chỉ dạy sẽ được chúc phúc, và xác quyết nơi đoạn 22 câu 9 rằng ai biết chia sẻ thức ăn với người nghèo, người hào phóng ấy sẽ được ban phúc. Qua những ví dụ này, chúng ta bắt đầu thấy rằng phúc lành Chúa ban không phải là phần thưởng cho việc sống một đời sống tốt đẹp mà là một ân sủng Chúa ban tặng cho những ai sống như chứng nhân cho bản tính toàn hảo của Thiên Chúa và đặc tính của dân Người.
Mối phúc họa trong Tin Mừng Luca
Trong hai bộ “phúc thay” được tìm thấy trong các Tin Mừng Mátthêu và Luca, bộ tám mối phúc thật của Mát-thêu là quen thuộc nhất, bộ này cũng được gọi là Bài Giảng Trên Núi. “Phúc thay ai. . . vì họ sẽ . . .” là một công thức hữu ích vì nó ngắn gọn và dễ hiểu, cung cấp một khuôn mẫu dễ nhớ và cho thấy sự cân bằng bất ngờ giữa những gì được coi là một nhân đức và phần thưởng cho nhân đức đó. Hầu hết các mối phúc trong Mátthêu sử dụng ngôi thứ ba (họ – của họ), vì vậy các mối phúc này nghe hao hao giống như những châm ngôn hướng dẫn cách sống ở đời. Khi nghe phiên bản của Mátthêu, chúng ta có thể tách mình ra khỏi sự thật đầy thách thức để có thể tìm thấy nuớc Chúa với tâm hồn nghèo khó, sầu khổ, hiền lành, khao khát sự công chính, lòng thương xót, tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình và bị bách hại. Những phúc lành này vừa có thể (không nhất thiết sẽ) ở “xa xa, không đụng chạm đến ta” như một bài học đạo đức và vừa có thể đem lại an ủi cho những ai tìm thấy mình trong những cảnh ngộ được nêu. Tuy nhiên, phiên bản “phúc thay” của Luca cho chúng ta một trải nghiệm khác.
Bài Giảng Nơi Đất Bằng của Luca ngắn hơn nhiều so với Bài Giảng Trên Núi gồm ba chương của Mátthêu; thực thế, phiên bản Luca bao gồm hai mươi chín câu trong chương 6. Giống như phiên bản Mátthêu, bài giảng trong phiên bản Luca cũng bắt đầu với một tập hợp các mối phúc, nhưng thay vì những câu nói ở ngôi thứ ba trong phiên bản Mátthêu, các mối phúc trong Luca sử dụng ngôi thứ hai (anh/ chị/em – của anh /chị/em). Những câu chữ “Phúc cho anh em . . .” hướng thẳng vào vào những người đang lắng nghe Chúa giảng, bất kể bao nhiêu thế hệ đã qua đi, chúng ta có thể trở thành những thính giả ban đầu của Chúa là các môn đệ và những người hiếu kỳ tình cờ đi ngang qua.
Ngoài ra, phiên bản của Phúc âm Luca có bốn mối phúc và kèm theo bốn “mối họa”. Từ tiếng Hy Lạp ouai (οὐαὶ) là một biểu hiện của than thở, đau buồn, và thậm chí là hành động tố cáo. Giống như các phúc lành có gốc rễ từ Cựu Ước, những mối họa trong Luca 6, 24-26 cũng có liên hệ gốc gác với Cựu Ước. Cho ví dụ, Tiên tri A-mốt nói thẳng mặt những người vi phạm Giao ước Chúa đã ký kết với Ít-ra-en: “Khốn cho những ai biến lẽ phải thành ngải đắng và vứt bỏ công lý xuống đất đen…nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào ức hiếp kẻ nghèo hèn tại cửa công” (A-mốt 5, 7, 12b), những lời của Tiên tri ở trên cũng giống với thông điệp mà Chúa Giê-su muốn chuyển tải trong Lu-ca 6, 24-25. Theo truyền thống của các tiên tri, Chúa Giêsu than thở và lên án những người giàu có được ăn ngon mặc ấm, họ hài lòng về cuộc sống của họ, nhưng họ không nhận ra bản chất tạm thời mau qua của sự hài lòng đó.
Sự tương phản rõ nét ở chương 6 giữa phần về mối phúc và phần về mối họa, cùng với việc sử dụng ngôi thứ hai (“Phúc cho anh em” và “Khốn cho các ngươi”), xác định rõ ràng rằng Nước Trời đến mang lại những lựa chọn cho những người theo Chúa, và những lựa chọn này cũng mang đến hậu quả. Vì thế “Phúc cho anh em ” vừa là một lời quan sát và cũng vừa là một sự khích lệ, còn “Khốn cho các ngươi ” có ý nghĩa là một lời than thở nhưng cũng có nghĩa là một sự phán xét.
Luca 6 | Phúc cho anh em | Khốn cho các ngươi |
câu 20b / câu 24 | kẻ nghèo khó | kẻ giàu có |
câu 21 / câu 25a | kẻ bây giờ đang phải đói | kẻ bây giờ đang được no nê |
câu 21b / câu 25b | kẻ bây giờ đang phải khóc | kẻ bây giờ đang được vui cười |
câu 22 / câu 26 | khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa | khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế. |
Một lưu ý khác, việc sử dụng các mối phúc họa trong Tin Mừng Luca không chỉ thấy ở Bài Giảng Nơi Đất Bằng; nhưng còn ở những nơi khác của Tin Mừng. Trong số những người được ban phúc, được hạnh phúc hoặc may mắn có Mẹ Maria (1,45& 48), những người không vấp ngã vì Chúa (7, 23), các môn đệ là những người được đặc ân chứng kiếnChúa Giêsu hoạt động (10,23), những người lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa (11:28), người đầy tớ tận tụy thi hành những điều chủ nhắm đến (12,43), và những người cho đi mà không mong đợi được đáp lại (14,14). Mặt khác, có rất nhiều người than khóc khi Chúa Giê-su chúc dữ các thành phố Khoradin và Bếtxaiđa, những thành phố tượng trưng cho những người không ăn năn (10,13), và những người Pharisêu cùng các nhà thông luật mà sự giả hình của họ đã bị Chúa tỏ lộ cho mọi người thấy (11: 39-54). Chúa cũng nói “khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã (17, 1), và Người than khóc cho kẻ phản bội trong số những môn đệ thân cận nhất của mình (22, 22).
Làm chứng cho mối quan hệ
Các tác phẩm của Luca đã được công nhận từ lâu là nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Giê-su và các mối quan hệ của Nguời với những người khác (cũng như các mối quan hệ xuất hiện trong thế hệ đầu tiên của giáo hội; chúng ta hãy đọc lạli sách Công Vụ Tông đồ). Trong bối cảnh này, các mối phúc họa kết nối chúng ta qua các mối quan hệ hữu hình là trọng tâm những trải nghiệm của nhân loại. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng Vương quyền của Thiên Chúa không phải là điều gì đó xa thật xa, và Vương quyền ấy không bị giới hạn bởi cõi thiên đàng. Vương quyền đó ngự trị ở đây và ngay bây giờ, đặc biệt ngay trong cách thức chúng ta liên hệ với nhau và với Chúa.
Những điều Chúa giảng dạy về các mối phúc họa trong Phúc âm Luca không có mục đích định tội; nhưng những lời chúc phúc và chúc dữ nhắm đến sự cần thiết phải sống đúng mối quan hệ trong cộng đoàn. Để tìm kiếm sự giàu có trong khi những người khác nghèo xơ xác, được ăn trong khi những người khác đói quanh năm, để cười khi ở giữa những người than khóc, và để tìm kiếm sự tán dương của bạn bè trong khi những người khác bị bắt bớ — tất cả những điều này chỉ ra sự ngắt mạch, không còn tương thông giữa cộng đoàn đức tin và cộng đồng thế giới rộng lớn hơn.
Những môn đệ Chúa Giê-su được kêu gọi làm chứng bằng lời nói và việc làm cũng như bằng các giá trị và nguyên tắc, cho các ưu tiên của Thiên Chúa. Qua Kinh thánh, và đặc biệt qua Tin Mừng Luca, chúng ta biết rằng Thiên Chúa có một tình yêu đặc biệt dành cho người nghèo, người đau khổ và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ưu tiên này được nhấn mạnh nơi các mối phúc.
Nước Chúa mà Chúa Giê-su công bố và là hiện thân nâng dậy những người chịu cúi đầu vì hoàn cảnh hoặc vì áp bức. Bài ca Ngợi Khen của Mẹ Maria (1,46-56), chỉ xuất hiện nơi Tin Mừng Luca, đã vẽ ra một bức tranh sống động về lòng Chúa thương xót, và mô tả sự đảo ngược bất ngờ của quyền lực và kinh tế. Trong sự đảo ngược này, chúng ta không thấy việc kết án nhưng thấy chúng ta có một cơ hội để tự xét mình và sắp xếp lại các ưu tiên.
Tác giả: Catherine Upchurch – Nguồn: The Bible Today, Volume 60, N. 3, May/June 2022
Chuyển ngữ: Luke Khổng Quang
2023
Hoa hồng phát âm âm Hán Việt là Mai Côi hay là Mân Côi?
Hồi nhỏ chúng tôi đọc Kinh cầu Đức Bà trong sách Kinh Mục lục Địa phận Qui Nhơn có câu: “Nữ vương truyền phép rất thánh Môi khôi” hoặc kinh “Hôm nay lớn mọn đều chầu. Cám ơn trong Đức Bà thương đoái, truyền phép Môi khôi cách nhiệm” hoặc Kinh Dưng loài người cho Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ có câu: “Lạy Nữ vương truyền phép rất thánh Môi khôi, hay cứu giúp bổn đạo, hộ vực loài người và hằng chiến thắng trên các trận giao công vì Chúa”. Không biết về sau này vì lý do gì mà trong tất cả sách kinh của Giáo phận Qui Nhơn được thay thế từ “Môi khôi” bằng từ “Mân côi”?
Trước đây bổn đạo của Địa phận Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào) đều thống nhất dùng từ “Môi khôi” như: Lần hạt chuỗi Môi khôi/ Tháng Môi khôi. Riêng Địa phận Đàng Ngoài dùng từ “Mân côi” hoặc “Văn côi”. Sau năm 1975, từ “Mân côi” dần dần thay thế từ “Môi khôi” trong kinh nguyện của các Giáo phận ở miền Nam Việt Nam và hiện nay tất cả Lịch Phụng vụ, kinh sách báo chí Công giáo Việt Nam đều dùng từ “Mân côi”.
Trong Kinh cầu Đức Bà có câu “Đức Bà như hoa hường (hồng) mầu nhiệm vậy”. Hoa hồng trong tiếng Hán được đọc theo âm Hán Việt là Môi khôi/ Mai khôi/ Mai côi/ Môi côi.
Mặt tiền Nhà thờ giáo xứ An Vân thuộc Tổng Giáo phận Huế có dòng chữ Hán xin được phiên âm: Thánh mẫu Môi khôi thánh đường. Bên dưới dòng chữ Hán là dòng chữ Latin: Ecclesia SS. Rosaii (Thánh đường Thánh mẫu Môi Khôi).
Nhà thờ An Vân còn cất giữ một cái hồng chung đúc năm Tự Đức thứ 28 (Ất Hợi – 1875). Trên thân hồng chung có bài minh văn bằng chữ Hán Nôm được khắc chìm: “Khi Hoàng đế giáng dụ tha đạo được sáu tháng thì chúng tôi đã lo đúc cái chuông này mà dâng cho Đức Chúa Bà Môi khôi, là bổn mạng nhà thờ An Vân mà tỏ lòng mừng cùng cám đội ơn Đức Chúa Trời và Đức Mẹ đã đoái thương- Tự Đức nhị thập cửu niên, tam nguyệt, nhị thập nhật tạo”. Năm 1972 hồng chung này bị rạn nứt nên không sử dụng nữa.
Năm 2007 nhân dịp kỷ niệm 100 năm (1907-2007) Thánh đường Thánh mẫu Môi khôi của Giáo xứ An Vân, Cha sở Giáo xứ An Vân là Linh mục Phêrô Phan Xuân Thanh rước thợ Phường Đúc lên tại khu vực Nhà thờ đúc một hồng chung lớn hơn. Trên thân hồng chung đúc nổi bài minh văn trong đó có đoạn: “…Thợ Phường Đúc đến mở lò rót đồng tại vườn trước nhà thờ, quả chuông nặng 2 tạ, bề ngang 6 tác 8 phân, bề cao 1 thước 3 tấc, thay cho quả chuông cổ đã bị rạn nứt năm 1972. Bản văn chữ Nôm được khắc chìm trên chuông cổ nay được khắc nổi lại đầy đủ với phiên âm là muốn ghi lòng tạc dạ công ơn tiền nhân mà cám đội ơn Đức Chúa Trời và Đức Bà Môi khôi”.
Từ năm 1875 và cho đến năm 2007 giáo dân giáo xứ An Vân vẫn dùng từ “Môi khôi”. Trong chữ Hán, tự dạng chữ “Môi” và “Mân” gần giống nhau nên rất dễ nhầm lẫn. Cả 2 chữ cùng thuộc bộ “Ngọc” và cả 2 chữ cùng đều 4 nét. Chữ “Môi” bên trái là bộ Ngọc, bên phải là chữ Phộc; Chữ Mân bên trái là bộ Ngọc, bên phải là chữ “Văn”. Chữ Mân có nghĩa là một thứ đá đẹp, không liên quan gì đến hoa hồng cả!
Trong những năm gần đây có nhiều bài viết phân tích ý nghĩa của từ “mân côi” và “môi khôi”. Các học giả đều khẳng định việc dùng từ “mân côi” để nói về “tràng chuỗi hoa hồng” là không đúng. Để gọi đúng phải là “tràng chuỗi Môi khôi” hoặc “Mai khôi/ Môi côi/ Mai côi”.
Được các học giả chỉ ra điểm sai thì cố gắng sửa sai ngay, nếu không sẽ bị xem là cố chấp. Chương trình Đường lên đỉnh Olympia được phát sóng lần đầu tiên vào ngày 21/3/1999 trên kênh VTV3. Ngay sau khi phát sóng, nhiều học giả phê bình là ngay cái tên Đường lên đỉnh Olympia đã là sai bét. Bởi vì chỉ có cánh đồng Olympia là nơi tổ chức Thế vận hội cổ xưa làm gì có đỉnh mà leo lên? Olympus mới là ngọn núi ở Hy Lạp. Vậy mà những người làm chương trình vẫn bỏ ngoài tai những góp ý đúng đắn ấy.
Ngay đầu bài viết “Từ vựng Công giáo: Môi côi? Môi khôi? Văn Côi? Mân côi? Mai khôi? Mai côi?” Linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ viết: “Một số từ ngữ tôn giáo đôi khi chưa được sử dụng đúng hoặc bị dùng sai âm. Vì vậy những gì tôi viết hoàn toàn dựa vào ngữ pháp. Chỉ mong muốn từ ngữ tôn giáo được sử dụng chính xác hơn”.
Nguyễn Văn Nghệ
2023
Cử hành Thánh Thể: Bài 2 – Quy tụ
Cử hành Thánh Thể: Bài 2 – Quy tụ
– Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.
BÀI 2: QUY TỤ
I/ VĂN KIỆN
“Vì chưng, dân này là dân Thiên Chúa, được cứu chuộc bằng giá máu Đức Kitô, được Chúa quy tụ, được lời Chúa nuôi dưỡng, là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân, trong Chúa Kitô, dâng lời tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ, khi dâng hy lễ của Chúa Kitô; và, sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ việc thông hiệp với Mình và Máu Đức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ tham dự ý thức, tích cực và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ liên lỉ tấn tới trên con đường thánh thiện.” (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số 5)
II/ LỊCH SỬ
Trước thế kỷ IV, Thánh lễ không có nghi thức mở đầu (Apologia, số 67). Ngay cả phụng vụ thứ Sáu Tuần Thánh trước năm 1955, xét như một bằng chứng còn sót lại, Thánh lễ theo nghi lễ Rôma cũng chỉ bắt đầu với những Bài đọc Kinh Thánh.[1]
Trong khoảng thế kỷ IV –VIII, chung chung, Thánh lễ được mở đầu bằng buổi canh thức cầu nguyện với nhiều lời kinh khác nhau, sau đó, Đức Giám mục sẽ đọc lời nguyện kết thúc.
Từ thời Cựu Ước, dân Chúa đã khao khát nguyện xin được vào cư ngụ (quy tụ) trong nhà Chúa hay trên núi thánh của Chúa (Tv 15,1-2). Trong thời Tân Ước, Chúa Giêsu dạy dân chúng quy tụ lại mà cầu nguyện (Mt 18,20). Thế rồi, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, những người theo Chúa cũng tề tựu ở một nơi nhân ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,1).
Đầu thế kỷ II, sách Didache khuyên các tín hữu “hãy quy tụ lại với nhau vào ngày của Chúa để bẻ bánh và dâng lời cảm tạ lên Thiên Chúa….”[2] Cũng trong thế kỷ này, thánh Justinô mô tả rằng “vào ngày, gọi là ngày mặt trời (Chúa nhật), tất cả những người ở thành thị cũng như ở thôn quê đều họp lại một nơi…đó là ngày Thiên Chúa biến đổi bóng tối thành ánh sáng…và là ngày Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta sống lại từ cõi chết.” [3]
Giống như thời Hội Thánh sơ khai, trong Ngày của Chúa [hay Chúa nhật], chúng ta họp nhau lại / quy tụ lại trong thánh đường để lắng nghe Lời Chúa và tham dự Hy lễ Tạ ơn, để kính nhớ cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã dùng sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô mà tái sinh chúng ta trong niềm hy vọng sống động (x. 1P 1,3; PV 106).
III/ Ý NGHĨA
Mục đích của nghi thức đầu lễ là quy tụ cộng đoàn và hình thành cộng đoàn nên một dân của Chúa Kitô, được hiệp thông với nhau cũng như chuẩn bị lòng trí chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể cho xứng đáng.[4]
Có thể nói, Thánh lễ bắt đầu vào lúc chúng ta quyết định đến với nhau để cử hành tình yêu của Chúa. Chúng ta đến với nhau từ những phương trời khác nhau, từ những hoạt động và hoàn cảnh khác nhau… Tuy nhiên, chúng ta đến với nhau không phải như những cá thể biệt lập hay những như người quan sát câm lặng, chỉ có mặt để “xem lễ” (PV 48; Ep 2,19-22), mà là cuộc quy tụ thành:
– Một cộng đoàn phụng tự với tư cách là con cái Thiên Chúa, là dân thánh, dân riêng của Chúa (x. 1Pr 2,9-10), là những anh chị em tín hữu trong gia đình của Thiên Chúa, là những người được cứu chuộc, đến đây để cảm nếm trước bàn tiệc cánh chung (x. QCSL 24).[5]
– Một cộng đoàn đức tin bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã và đang hành động trong lịch sử nhân loại, cách đặc biệt hơn, Ngài vẫn can dự vào lịch sử chính cuộc đời của mỗi người. Đây là một cuộc tụ họp do Chúa Kitô và nhân danh Chúa Kitô, Đấng luôn luôn đi trước dẫn đầu Hội Thánh, Đấng vô hình nhưng thực sự làm chủ tế trong Thánh lễ, chính Người tập hợp dân tư tế của Người (x. 1 Pr 2,9); Đấng hướng dẫn chúng ta trên hành trình về đất hứa mới, nơi chúng ta được hiệp thông với Đức Kitô và với nhau.[6]
IV/ SUY NIỆM[7]
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tìm kiếm thánh nhan Ngài trong Thánh lễ, nhưng Ngài lại ẩn khuất dưới bức màn của các biểu tượng, ẩn dụ và thi ca. Chúng con đến nơi thánh này để tìm kiếm Chúa, nhưng thay vì tỏ mình ra cho chúng con, Ngài lại cho chúng con thấy một đoàn dân đang được quy tụ. Tại sao anh chị em chúng con lại ở đây? Bởi vì Chúa đã quy tụ chúng con. Chúa đã làm như thế, để rồi nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, hợp nhất với Chúa Thánh Thần, chúng con có thể tôn thờ Chúa Cha trong thần khí và sự thật.
Có những khuôn mặt thân quen, nhưng cũng nhiều người xa lạ. Chúng con tìm kiếm thánh nhan Chúa, nhưng Chúa lại tỏ cho chúng con thấy một đoàn dân quy tụ về đây từ muôn phương và Chúa muốn chúng con nhìn thấy Chúa ở trong họ!
Có lẽ câu ngạn ngữ này thật đúng ở đây “thân quá hóa nhờn” hay “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Làm thế nào chúng con có thể diện kiến dung nhan Chúa nơi những người chúng con quen biết? Chúa muốn chúng con cảm nhận sự hiện diện của Chúa ở nơi những người này sao? Chúng con phải nhìn ngắm Chúa đằng sau bức màn yếu đuối và ích kỷ của họ sao? Lạy Chúa, Chúa đang thử thách đức tin của chúng con khi Chúa chỉ dạy chúng con rằng họ là biểu tượng của Chúa; họ là anh chị em của Chúa?
Vâng, chúng con tin, bởi vì tất cả những người ở đây đều thuộc về thân mình mầu nhiệm của Chúa; bởi vì đây là mầu nhiệm của Hội thánh, một Hội thánh mà Chúa đã hòa giải rồi nhưng vẫn còn cần phải tiếp tục hòa giải nữa. Xin giúp chúng con chấp nhận chân lý này: Giáo hội thì thánh thiện nhưng vẫn gồm những tội nhân. Xin hãy giúp chúng con nhận ra thực tại của Hội thánh nơi những người đã được tắm gội trong ánh sáng ân sủng của Chúa nhưng có thể vẫn còn đang ngồi trong tăm tối và bóng tử thần.
Vì thân mình mầu nhiệm của Chúa mà chúng con gia nhập hàng tư tế hầu dâng lên Chúa Thánh lễ mỗi ngày. Những ai đang than khóc, xin Chúa an ủi họ và lau sạch những giọt lệ của họ bằng bàn tay cảm thương của Chúa. Những ai đang mừng vui hạnh phúc, xin Chúa gìn giữ họ an lành bằng sự chăm sóc đầy tình thương của Chúa, đừng để bất kỳ tai họa nào biến niềm vui của họ thành ưu sầu. Những ai đang phải xa nhà xa quê: lạy Chúa, xin hãy đồng hành với họ và trở thành nơi trú ngụ của họ, vì Chúa không xa lạ đối với những kẻ bị cô đơn hay bị xa lánh. Có những người đang vui thú cùng đi với gia đình và bạn bè: xin Chúa hãy dự phần vào niềm hạnh phúc của họ, như Chúa đã từng hoan hỷ bên những bạn hữu của Chúa ở Betania.
Lạy Chúa, xin cũng nhớ đến những ai không thể đến tham dự Thánh lễ cùng với chúng con. Chắc họ thật tình chú tâm đến tiếng gọi mời của Chúa, họ cũng muốn dành thời khắc nghỉ ngơi này với chúng con, nhưng họ vẫn phải lai lưng làm việc để kiếm kế sinh nhai, thậm chí cả trong ngày Chúa nhật. Nếu không làm việc hôm nay, có thể họ chẳng có gì để sinh sống. Xin dạy chúng con, trong khi hưởng thụ những giây phút cuối tuần, biết quan tâm đến những anh chị em có cùng một nhu cầu và quyền lợi như chúng con, nhưng lại không thể ngừng nghỉ lao tác để nghỉ ngơi vì đang lâm cảnh nghèo nàn và túng quẫn. Lạy Chúa, Chúa đã không lơ là với chim trên trời hay hoa huệ ngoài đồng: xin đừng để cho những anh chị em nghèo túng phải thất vọng về tình yêu quan phòng của Chúa và cũng đừng để họ không đón nhận được những hồng phúc của Chúa trên trần gian này. Amen.
Đọc thêm loạt bài tìm hiểu về cử hành Thánh Thể:
Bài 2 – Quy tụ
Bài 1 – Cấu trúc thánh lễ |
[1] X. Johannes H. Emminghaus, The Eucharist: Essence, Form, Celebration (Collegeville: The Liturgical Press, 1997), 104.
[2] Didache 14, trích lại trong Lucien Deiss, Sring-time of the Liturgy, dg. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press, 1979), 93-94.
[3] Justin Martyr, First Apology, 67, trích lại trong Lucien Deiss, Sring-time of the Liturgy, 93-94.
[4] X. James P. Moroney, The Mass Explained (New Jersey: Catholic Book Publishing Corp., 2008), 37.
[5] Dominic E. Serra, “Theology of the Latin Text and Rite”, trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 126.
[6] Suy tư Thần học và Mục vụ Chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại Dublin, Ireland (10 – 17/06/2012).
[7] Anscar J. Chupungco, OSB, Meditations on the Mass (Quezon: Claretian Publications and Flipside Publishing, 2013), dg. Giuse Phạm Đình Ái, SSS.