2023
Dân Thiên Chúa tiến bước trong hy vọng
Dân Thiên Chúa tiến bước trong hy vọng
DÂN THIÊN CHÚA TIẾN BƯỚC TRONG HY VỌNG
Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn
Hướng tới một Hội thánh hiệp hành, Hội thánh từ Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh đến phẩm giá và sứ mạng chung của mọi tín hữu khi thi hành các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ đa dạng và rất phong phú của họ. Trong bối cảnh tầm nhìn của Giáo hội học hiệp thông đó, tính hiệp hành (synodality) trở thành là phong cách sống và hành động (modus vivendi et operandi) đặc thù của Hội thánh, Dân Thiên Chúa lữ hành cùng nhau trong lịch sử đi về Quê hương. Phong cách hiệp hành biểu lộ “trong cuộc hành trình cùng nhau, qua các công nghị và trong hoàn cảnh mọi thành viên tham gia tích cực vào việc thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng”[1].
1. Ý nghĩa Kitô học và từ kinh nghiệm của Hội thánh |
1. Ý nghĩa Kitô học và từ kinh nghiệm của Hội thánh
Dân Thiên Chúa cùng nhau tiến bước trong lịch sử đi về Quê hương “mắt hướng về Đức Giêsu” (Hr 12,2), kẻ lữ hành trên trái đất loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Hội thánh là cộng đoàn những người đi trên con đường (Đạo) của Chúa (Cv 9,2). Chúa Giêsu là Đường đi (Ga 14,6) của Thiên Chúa đến với con người và của con người đến với Chúa Cha. Đức Kitô là Lữ khách, Đường đi (Đạo) và là Quê hương, dẫn chúng ta đi trên “con đường trổi vượt hơn cả” (1Cr 12,31). Chúa Giêsu phục sinh hướng dẫn Hội thánh Dân Thiên Chúa dùng Lời của Người, và nuôi dưỡng Dân bằng bánh hằng sống, mà hình ảnh mẫu tiêu biểu là trình thuật về các môn đệ Emmaus (x. Lc 24,13-35). Thánh Gioan Kim Khẩu đã xác định “Sinodo là tên của Hội thánh”, có nghĩa là một con đường được người ta bước đi trong tình hiệp thông. Trong tiếng Hi-lạp, syn nghĩa là cùng nhau, hodos là con đường. Sinodo là con đường Dân Thiên Chúa, vốn đông đảo và đa dạng được Chúa phục sinh dẫn dắt, cùng đi với nhau trong trách nhiệm thực thi đặc sủng và tác vụ của từng thành viên trong tinh thần hiệp thông và thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Từ Sinodo đang sử dụng cũng chỉ một công nghị, hay thượng hội đồng, được quy tập để cùng nhau tìm kiếm thánh ý Chúa qua cầu nguyện chung và bàn thảo theo phương pháp phân định mang tính cộng đồng và tông truyền (communitarian and apostolic discernment) dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (cf. Cv 15,28). Công đồng Giêrusalem (x. Cv 15; Gl 2,1-10) là mẫu của các công nghị, thượng hội đồng của Hội thánh. Công đồng được triệu tập trước thách đố mục vụ và giáo thuyết rằng tín hữu có buộc phải theo Do thái giáo để theo Đạo Chúa Giêsu tức Kitô giáo hay không. Trong Công đồng ấy, người ta “được nghe nhiều ý kiến ban đầu khác biệt và tranh luận rất sôi nổi. Tất cả lắng nghe nhau và nghe Chúa Thánh Thần qua những lời chứng về các việc Chúa đã làm, trao đổi với nhau những ý kiến nhận định riêng, hướng tới sự đồng thuận và thống nhất (x. 15,25) như là kết quả của sự phân định chung của cộng đồng phục vụ cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội thánh”[2]. “Diễn tiến của công đồng Giêrusalem cho thấy hành trình sống động của Dân Thiên Chúa như một thực tại được tập hợp và liên kết với nhau trong đó mọi người đều có một vị trí và một vai trò đặc biệt”[3].
Giáo phụ Ignatiô thành Antiôkia kể rằng tất cả các thành viên của các Giáo hội địa phương “σύνοδοι, những người cùng lữ hành, có phẩm giá của người đã được Thánh tẩy và là bạn hữu của Đức Kitô”. Còn Giáo phụ Cyprianô thành Cartagô thì xác định nguyên lý giám chức và công nghị phải được đem vận hành trong quản trị đời sống và sứ vụ của Hội thánh ở cấp địa phương cũng như hoàn vũ: “nếu quả thực trong Giáo hội địa phương không làm gì mà không có Giám mục (nihil sine episcopo), thì cũng thế không làm gì mà không có ý kiến của anh em (các linh mục và phó tế) (nihil sine consilio vestro) và sự ưng thuận của dân chúng (et sine consensu plebis)”[4].
Từ thế kỉ thứ III, ngoài các công đồng chung, như Nicêa (325), còn có những công nghị địa phương và tỉnh, gồm các Giám mục và trong vài trường hợp còn có sự tham dự của toàn thể cộng đoàn. Hai điểm cần lưu ý: 1) vai trò của Giáo hội Rôma; và 2) sự hiệp thông của các Giáo hội (trên đó mỗi Giáo hội địa phương là biểu lộ của Giáo hội duy nhất và phổ quát).
Công đồng Trentô đã thiết lập các công nghị giáo phận hay địa phương phải diễn ra hằng năm, và công nghị tỉnh ba năm một lần, để thực hiện những cải cách công đồng trên toàn Giáo hội, nhưng không dự kiến trong đó sự tham dự của toàn thể Dân Chúa. Đó là trong bối cảnh luận chiến hộ giáo chống phe Cải Cách, nên tính chất phẩm trật Giáo hội được nhấn mạnh: Giáo hoàng và các Giám mục là Ecclesia docens (Giáo hội thầy dạy), còn phần Dân Chúa còn lại là Ecclesia discens (Giáo hội môn đồ).
Công đồng Vaticanô I (1869-1870) chuẩn nhận quan niệm ấy hợp pháp hoàn toàn, khi ra sắc lệnh xác định tối thượng quyền và sự bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng. Nhưng Giáo hội cũng không ngừng ý thức “mình không đồng nhất chỉ với các mục tử của mình, mà Hội thánh toàn thể, bởi công trình của Chúa Thánh Thần, là chủ thể hay “cơ quan” của truyền thống, và giáo dân có vai trò chủ động thông truyền đức tin tông truyền”[5].
Công đồng Vatican II tái phát động ý tưởng Hội thánh hiệp hành (synodality) trong Hiến chế Lumen gentium (1964) nhìn Hội thánh là Hiệp thông và là “Dân Thiên Chúa đang lữ hành trong lịch sử đi về thiên quốc, trong đó mọi thành viên với ấn tích bí tích Thánh tẩy có phẩm giá là con cái Thiên Chúa được ủy thác cùng một sứ mạng”[6]. Sắc lệnh Christus Dominus (1965) sau đó còn khuyến khích thiết lập một hội đồng mục vụ trong mỗi giáo phận, phục hưng các công nghị (synods, councils) giữa các giáo hội trong vùng và thăng tiến các hội đồng Giám mục. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã giúp hồi sinh thực hành công nghị qua việc thiết lập thể chế Thượng Hội đồng Giám mục, là “Hội đồng thường trực các Giám mục cho Hội thánh hoàn vũ”[7].
2. Thần học về Hội thánh hiệp hành
Hiệp hành diễn tả hình ảnh Hội thánh như là Dân Thiên Chúa lữ hành cùng nhau và được quy tập tiến hành công nghị bởi Đức Chúa. Tiến trình bước đi cùng nhau thực hiện kế hoạch của Nước Thiên Chúa và Phúc âm hóa các dân tộc, bao gồm sự kiện hội họp với nhau để mừng Chúa phục sinh và tìm xác định điều Chúa Thánh Thần nói với Hội thánh. Các hội nghị – nhất là các Công đồng chung và Thượng Hội đồng Giám mục ở cấp Hội thánh hoàn vũ – là những thời điểm lịch sử ưu việt để sự phân định được Thần Khí hướng dẫn nhằm phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng. Như thế Hội thánh theo nhịp sống, bước đi và dừng nghỉ, hành trình và hội họp, hiệp hành và đồng nghị (synodality and synodo).
Hiệp hành là chiều kích nền tảng của Hội thánh, mà mẫu mực thể hiện là Công đồng Giêrusalem (Cv 15,4-29) với phương thức phân định thực hành có tính cộng đồng và tông truyền. […] Tính hiệp hành trước hết không chỉ đơn thuần một tiến trình hành động, nhưng chỉ thể thức mà Hội thánh sống và hành động”[8]. Nó chỉ cái phong cách đặc thù (style) của Hội thánh sống và thi hành sứ vụ, qua việc nhóm họp hội nghị các tín hữu và hoàn thành sứ vụ của mình, được diễn tả hoàn toàn như là Dân Thiên Chúa cùng bước đi hành trình trong lịch sử. Nói cách khác, tính hiệp hành trong Hội thánh được sống nhằm phục vụ chung cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tính hiệp hành còn diễn tả một Giáo hội học hiệp thông và tính chất “hành hương” của Hội thánh, Dân Thiên Chúa. “Các tín hữu là những σύνοδοι, những người bạn lữ hành cùng nhau”, Dân Thiên Chúa triệu tập từ muôn dân (Cv 2,1-9; 15,14)[9]. Thật vậy, mọi tín hữu đều nhận ơn về một bản năng đức tin – sensus fidei – giúp họ phân định cái gì thực sự là của Thiên Chúa. Nói cách khác, sensus fidei (cảm thức đức tin) là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống các Kitô hữu và “ban cho toàn thể họ một bản tính đồng điệu (connaturality) nào đó với các thực tại linh thánh và sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại ấy bằng trực giác”[10]. Tính hiệp hành dựa trên hai cột trụ: sensus fidei của toàn dân Chúa và tính tập đoàn bí tích của hàng Giám mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Một sự hiệp thông giữa “mọi người”, “một số người”, và “một người”, liên kết với nhau các đặc sủng của dân Kitô giáo, sứ vụ của các Giám mục và sự phục vụ của vị kế nhiệm thánh Phêrô. Thể hiện phong cách tham gia và đồng trách nhiệm của toàn dân.
Nếu hiệp hành là một chiều kích nền tảng của Hội thánh, thì nó phải được biểu lộ ra trong đời sống và hành động thông thường của Hội thánh. Ba giai đoạn của tiến trình hội nghị phải là lắng nghe, quyết định và hành động hay “cộng đoàn nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, hiệp thông huynh đệ” và toàn Dân Chúa tham gia trách nhiệm vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh, ở mọi cấp bậc và trên cơ sở các thừa tác vụ và vai trò khác nhau. Cách riêng, tính hiệp hành chỉ “các cơ cấu tổ chức và quy trình của Giáo hội” liên kết Dân Chúa, bằng nhiều cách, nhiều cấp, địa phương, vùng và hoàn vũ, trong khi “phân định lộ trình của mình và những vấn đề riêng, để đưa ra những quyết định và định hướng nhằm hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng”[11]. Chiều kích hiệp hành diễn tả trong thực hành đó biểu lộ sự hiệp thông năng động khả dĩ linh hứng cho các quyết định của Hội thánh qua các sự kiện công nghị[12].
Chúng ta lưu ý khái niệm hiệp hành khác nhưng liên hệ chặt chẽ với các khái niệm hiệp thông và tính tập đoàn (các Giám mục), là những tâm điểm tư tưởng của Công đồng Vaticanô II. Đối với hiệp thông, ý niệm “hiệp hành” diễn tả cách thức sống hiệp thông cụ thể, triển khai ra trong lịch sử sự tham dự của các môn đệ thừa sai vào sự hiệp thông tình yêu của Ba ngôi, Cha, Con và Thánh Thần. Ý niệm hiệp hành cũng nói lên cái gì đó cụ thể biểu lộ ý thức và thực thi thừa tác vụ Giám mục như là thành viên của Giám mục đoàn hiệp thông phẩm trật với Giám mục Rôma, để phục vụ Hội thánh địa phương và Hội thánh hoàn vũ. Năng động hiệp hành bao hàm sự tham gia và đồng trách nhiệm của “mọi người” đã rửa tội, tất cả kết nối với nhau trong sự thực hành quyền bính tập đoàn của “một số người” dưới chủ tọa của “một người”, trong mỗi Hội thánh địa phương cũng như Hội thánh hoàn vũ[13].
Với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Hội thánh bắt đầu một tiến trình canh tân quyết liệt khởi đi từ Công đồng Vaticanô II. Đó là cải tổ theo hướng truyền giáo. Cải tổ là sự hoán cải của toàn dân Chúa và mọi người trong dân Chúa hướng về một Hội thánh hiệp hành và truyền giáo. Với ơn Thánh Thần của Chúa Kitô, tiến hành hoán cải nơi mỗi cá nhân tín hữu và nơi hướng mục vụ chung của Hội thánh làm sao để phát huy một phong cách và hành động hiệp hành ngày càng tôn trọng hơn yêu sách thông truyền niềm vui của Tin Mừng, đáp lại các dấu chỉ của thời đại. Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã thúc đẩy con đường đối thoại và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi Hội thánh trở thành nhà và trường học của hiệp thông. Ngày nay Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi Hội thánh bước vào “các tiến trình phân định, thanh tẩy và cải tổ”[14].
Tâm điểm của đời sống Hội thánh hiệp hành nằm ở thái độ và tiến trình lắng nghe, đối thoại và phân định chung của cộng đồng:
“Thực hành phân định là trung tâm của các tiến trình và sự kiện hiệp hành. Đời sống hiệp hành của Hội thánh vốn luôn là như thế. Giáo hội học hiệp thông cùng linh đạo và thực hành đặc thù rút ra từ đó, vốn gắn liền với sứ vụ của toàn thể dân Chúa, ngày nay hơn bao giờ hết cần thiết phải chỉ dạy các nguyên tắc và phương pháp phân định, không những cho cá nhân mà còn có tính tập đoàn. […] Phân định tập đoàn giúp chúng ta khám phá ra một tiếng gọi Thiên Chúa cho vang lên từ một hoàn cảnh lịch sử nhất định”[15].
3. Sống linh đạo hiệp hành
Thể hiện tinh thần hiệp hành không chỉ là tiến hành việc thỉnh ý, nhưng còn là một sự tham gia tích cực của người tín hữu trong Hội thánh tham gia và đồng trách nhiệm. Tham gia tích cực theo ơn gọi của mỗi Kitô hữu, họ vốn có khả năng và được kêu gọi phục vụ lẫn nhau qua ơn riêng của mỗi người được Chúa Thánh Thần ban cho[16]. Tinh thần Hội thánh hiệp hành đòi hỏi khơi dậy các tiến trình thỉnh ý toàn dân Chúa[17]. Khi tham khảo ý kiến đề nghị và ý kiến quyết định, dù khác nhau nhưng không vì thế mà xem nhẹ tính hiệp hành sâu xa hoạt động trong toàn thể cộng đoàn, “họ được triệu tập để cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, trao đổi, nhận định và góp ý để lấy quyết định mục vụ”[18] bởi hoàn cảnh đặc thù của họ. Nhưng cũng cần lưu ý tới nhiệm vụ cai quản của mục tử, vì “tiến trình hiệp hành phải được thực hiện giữa lòng một cộng đoàn Hội thánh có cơ cấu phẩm trật”[19] và “quyền bính của các mục tử là một đặc sủng của Thần Khí Đức Kitô Thủ lãnh xây dựng toàn nhiệm thể Người, không phải là nhiệm vụ có thể ủy thác và đại diện bởi người dân”[20].
– Một cản trở sự tham gia tích cực của các tín hữu vào đời sống của Hội thánh hiệp hành là não trạng giáo sĩ trị khiến giáo dân bị dạt ra bên lề cuộc sống của Giáo hội[21]. Tinh thần giáo sĩ trị nghịch lại với tinh thần hiệp hành, nó biểu lộ sự khép kín đối với tính sáng tạo của cấu trúc hiệp hành vốn mở ra để toàn thể các tín hữu, dù có thánh chức hay không, có thể biểu lộ chính mình và đặc sủng của mình.
– Sống tinh thần hiệp hành đòi hỏi chúng ta phải hoán cải mục vụ. Phải vượt qua suy nghĩ và quan niệm coi trách nhiệm truyền giáo chỉ thuộc về các mục tử, không coi trọng cho đủ ơn gọi đời sống thánh hiến và đặc sủng, ít quý trọng đóng góp đặc biệt và có chất lượng thuộc thẩm quyền chuyên môn của các tín hữu giáo dân nói chung và của các phụ nữ nói riêng[22]. Hơn nữa, ý thức Hội thánh hiệp hành làm ta vui mừng đón nhận và thăng tiến ân thánh sủng bởi đó mọi tín hữu có khả năng và được kêu gọi làm môn đệ truyền giáo[23]. Cần thấy dòng lưu chuyển bộc phát từ các đặc sủng chảy giữa thừa tác vụ của mục tử và sự tham gia đồng trách nhiệm của giáo dân. Hoán cải này ở chiều sâu đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách nghĩ, từ cái “tôi” chủ vị cá thể tính sang “chúng ta” chủ thể giáo hội tính, sống và bước đi trên đường lữ hành cùng với anh chị em mình, có trách nhiệm và tích cực thi hành sứ vụ Loan báo Tin Mừng duy nhất của Dân Thiên Chúa[24]. Tinh thần hiệp hành đòi hỏi chúng ta có những tâm thái sâu xa: “tin tưởng và cởi mở”, cảm thức đức tin (sensus fidei) chín chắn và suy nghĩ đồng điệu với Hội thánh (sentire cum ecclesia)[25]. Và có những yếu tố đặc biệt nuôi dưỡng tình yêu hiệp hành (affectus synodalis) như: tính sáng tạo và phát triển của sự hiệp thông thánh thể, vốn là phản chiếu tự nhiên của sự hiệp thông ba ngôi; khả năng biết nhìn nhận những thất bại của mình và ước muốn hòa giải; lắng nghe Lời Chúa soi chiếu lộ trình lữ hành của chúng ta; và yêu mến sứ vụ: mọi sự kiện hiệp hành thúc đẩy Hội thánh đi ra đến với mọi người để cùng đi về với Chúa[26].
– Sống tinh thần hiệp hành cũng là biết đối thoại bạo dạn nói cũng như nghe. Không khăng khăng trong tranh luận tìm ý kiến mình vượt trội hay bác bỏ cách thô thiển quan điểm của người khác. Thái độ khiêm nhu và nguyên tắc “hiệp nhất thì lớn hơn xung đột” có thể giúp xây dựng tình hiệp thông vượt trên căng thẳng và bất đồng.
– Sau cùng, nhấn mạnh đến sự thực hành phân định là thực hành trung tâm của các tiến trình và sự kiện hiệp hành. Vượt trên tính cá nhân, sự phân định cộng đoàn giúp các Kitô hữu khám phá tiếng gọi của Thiên Chúa trong mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất định[27].
4. Đánh giá và suy tư
Hiệp hành là một cách thức hiện diện mới của Hội thánh trong thế giới, tham gia nhiều hơn và đối thoại nhiều hơn, từ bi nhân ái hơn và lắng nghe nhiều hơn, đi ra xa trung tâm và đến với con người ở địa phương và vùng biên nhiều hơn, ý thức sự đa dạng và bổ túc của các đặc sủng Kitô hữu dùng để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Hiệp hành, đối với Đức Phanxicô, không chỉ là sống tình huynh đệ, qua lắng nghe và hợp tác, nhưng còn được biểu lộ qua thực hành chương trình cải tổ rộng lớn, bắt đầu từ cơ cấu cao nhất là giáo triều, các Thượng Hội đồng Giám mục và Giáo hoàng. Nhiều văn kiện Tòa thánh, ngay cả văn kiện về Giáo hội hiệp hành này, đã được xem xét nghiêm túc từ các Giáo hội địa phương. Hiệp hành đòi chương trình cải tổ từ cấp thấp nhất đến cao nhất: các Kitô hữu, gia đình, giáo xứ, giáo phận, hội đồng linh mục, ban tư vấn, tổng hội, hội đồng mục vụ, hội đồng Giám mục, thượng hội đồng, giáo triều, tất cả phải nối kết từ “cơ sở”, từ người dân và các vấn đề hằng ngày của người dân. Hình ảnh diễn tả Giáo hội hiệp hành, như Đức Phanxicô hay nói, như là một “kim tự tháp ngược”, trong đó, đỉnh nằm ở bên dưới đáy và quyền bính duy nhất là quyền bính phục vụ[28].
Trong khi triển khai ơn gọi hiệp hành đối với toàn dân Chúa, Hội thánh phải thỉnh ý và mời gọi các giáo dân, vốn là thành phần đại đa số, tham dự tích cực. Các hội nghị, công nghị, được khuyên phải quan tâm và lắng nghe cách rộng rãi cảm thức đức tin (sensus fidei) hay bản năng đức tin của Dân Chúa[29]. Họ không chỉ hòa hợp với cảm thức đức tin của người tín hữu dấn thân, mà cả với những tín hữu ở bên lề hay vùng ngoại vi Hội thánh, gồm những người nghèo, những người ở “lề trái” bất đồng với huấn quyền của Giáo hội, những người li thân, li dị, những người LGBTQ+. Sensus fidei thuộc về toàn thể các tín hữu (totius populi), nên Giáo hội phải học nhiều từ những người (tín hữu) chỉ trích, chống đối mình. Tiến hành phân định và đi đến quyết định của sensus hay consensus fidei (đồng thuận dựa trên đức tin) không thể không tránh khỏi chấp nhận có căng thẳng, bất đồng và xung đột ở một mức độ nào đó, ngay cả giữa các Giám mục tranh luận trong tinh thần cởi mở và thẳng thắn. Tiến trình hiệp hành là sự tìm kiếm chân lí của tập thể cộng đồng, chứ không phải như là dụng cụ để cai quản phần đa số Giáo hội kia.
– Trong Hội thánh, ở đâu và lúc nào cũng có những ý kiến xung khắc về giải thích, hay về thông diễn học. Công đồng Giêrusalem đầu tiên cho thấy điều đó, nhưng rốt cuộc sau nhiều tranh luận Hội thánh cũng đạt được một sự đồng thuận giữa các tín hữu (consensus fidelium). Đối thoại là phương thế nhờ đó Thánh Thần Chúa thông truyền. Làm thế nào để Hội thánh có thể thông truyền với thế giới hôm nay? Theo Đức Hồng Y Luis Tagle, các nhà lãnh đạo Hội thánh cần phải phân biệt các vấn đề (problems) vốn có thể giải quyết được, với các nan đề (dilemmas) vốn không thể giải quyết. Đứng trước các nan đề chúng ta chỉ có thể kể chuyện thôi. Kể chuyện người dân đã lội bì bõm qua những dòng nước đục ngầu của nan đề ấy như thế nào. Họ không cần được cung cấp giải pháp cho bằng một ý nghĩa, một niềm hi vọng. Nhưng mà ai có thể kể chuyện ấy? Thưa, chỉ những ai đã đi vào thế giới của câu chuyện, những người đã cởi mở với những câu chuyện đời sống người ta. Hội thánh phải mở ra với thế giới trong khi phải chấp nhận bị vấy bùn, thương tổn, mang thương tích. Cộng đoàn hiệp hành phải là câu chuyện sinh động về những gì mình loan báo. Chúng ta phải là những dấu chỉ sống động của Chúa Giêsu mà ta tuyên xưng niềm tin[30]. Các Giám mục và các nhà thần học nhất thiết phải lắng nghe các tín hữu kể câu chuyện của họ, xem họ đã đối diện với những vấn đề nan giải của họ như thế nào, tìm ra cho nó một ý nghĩa Tin Mừng, diễn tả sensus fidei của họ. Quả thật, chính trong những hoàn cảnh tương tự người ta tỏ ra không khao khát tìm giải quyết vấn đề cho bằng thấy được ý nghĩa, khích lệ và hi vọng.
– Vai trò và sự tham gia của người nữ trong đời sống của Hội thánh phải được chú ý nghiêm túc. Đức Thánh Cha Phanxicô trong khi đấu tranh vượt qua chủ nghĩa giáo sĩ trị và văn hóa lạm dụng (lạm dụng quyền lực, lương tâm và ngay cả tính dục) đã giúp phụ nữ và người trẻ có được một cái nhìn đúng đắn vị thế có trọng lượng của họ trong Hội thánh. Điều này hết sức phù hợp với triển khai thực hành tính hiệp hành và tính tập đoàn (collegiality), ngài đã đề cập nhiều lần sự tham gia tích cực của giáo dân trong các tiến trình quyết định[31]. Cách riêng, cần quan tâm đến yêu cầu ngày càng lớn phải suy xét xem có thể phong chức phó tế cho phụ nữ không và để cho người nữ có những vị trí điều hành trong các tổ chức thuộc cơ cấu giáo triều, cũng như giáo phận.
– Chú tâm nghe những tiếng nói mới và khác biệt (nhất là để thông cảm chứ không để kiểm duyệt) sẽ là điều mấu chốt trong các tiến trình hiệp hành nếu Hội thánh muốn có một tác động canh tân trên giáo huấn và thực hành của Hội thánh. Xét thấy nhiều quan điểm và tiếng nói khác nhau ta phải nhìn nhận rằng “sensus fidelium có thể là một nhân tố quyết định trong tiến trình phát triển giáo thuyết” và bởi thế, “không chỉ một mình magisterium trong toàn thể có trách nhiệm gìn giữ và thông truyền đức tin”[32]. Chúng ta có thể và nhất thiết phải thấy sensus fidelium là một cảnh vực thần học (locus theologicus) hay “lương tri của Hội thánh” như thần học Hilạp khẳng định, hay là một nguyên lí không chỉ có giá trị mục vụ mà còn có một thẩm quyền chính thức có thể thay đổi diễn tả giáo huấn của Huấn quyền Giáo hội Công giáo. Nhưng vấn đề mấu chốt là làm sao ta xác định được cái gì là thuộc sensus fidei? Ai là người tín hữu trung tín fidelis? Tinh thần hiệp hành hướng ta tìm câu trả lời cho những câu hỏi này chỉ ở cuối một quá trình dài trong thời gian đòi hỏi kiên nhẫn, không thể bị thúc ép hay phải tăng tốc. Nếu sensus fidei không đồng nghĩa với ý kiến công luận, phải là chân lí hơn là ý kiến của đa số thắng thế, thì Hội thánh phải đi sâu vào lắng nghe thực sự mọi thành viên của mình[33]. Chúng ta làm như thế “bằng cách phân định cùng với dân mình, mà không bao giờ chỉ do dân hay không cần đến dân”[34]. Điều đó bao hàm một sự tìm kiếm tiệm cận chân lí, tham gia của toàn thể và đối thoại với nhau, như thế, nói cách khác, phải chăng là chấp nhận có đa nguyên của sensus fidelium? Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho rằng Thần Khí Chúa đang hướng dẫn và quy hợp những tiếng nói dị biệt thành một hợp âm, bản giao hưởng. Giáo hội cần vượt qua sự phân cực lập trường trong nội bộ về các đề tài luân lí đạo đức. Lối đường của Giáo hội hiệp hành phải đi, vốn là một hành trình “có những lúc đầy an ủi và ân sủng” nhưng không thiếu “phiền muộn, căng thẳng và cám dỗ”[35]. Đối với Đức Giáo Hoàng, tiến trình hiệp hành đồng thời cũng là một hình thức cụ thể của Giáo hội học về hiệp thông li tâm (decentralised) và là hành trình thể hiện một phong cách tham gia (participative) và biểu quyết (deliberative) thực sự. Điều quan trọng không phải là tìm được giải đáp rốt ráo cho mọi khó khăn mà Hội thánh đang đối diện, cũng không phải là lên án những người bất đồng ý kiến với chúng ta, bởi vì “ngay cả những người có thể bị coi là đáng ngờ do những sai lầm của họ, họ cũng có phần đóng góp mà chúng ta không thể bỏ qua”[36]. Điều quan trọng là chúng ta phải biết chung sống với căng thẳng và xung đột, bằng lòng với những giải đáp xuất hiện chín muồi dần theo thời gian mà không thỏa hiệp với cám dỗ chọn lựa hấp tấp.
– Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói ở cuối Thượng Hội đồng Amazzonia vừa qua rằng ngài tin tưởng ở khả năng của Giáo hội địa phương đối đầu với những vấn đề mục vụ khó khăn của họ, rằng ngài thấy Huấn quyền (Magisterium) không nhất thiết phải can thiệp vào giải quyết mọi tranh luận về giáo thuyết, luân lí và mục vụ trong lòng của cộng đồng Kitô hữu địa phương. Một quan điểm ngài đã diễn tả hết sức rõ ràng trong hai điểm qua bức thư gần đây gửi cho các Giám mục Đức, khi ấy họ đã bắt đầu làm tiến trình công nghị quốc gia: 1) Con đường hiệp hành đổi mới con người và đổi mới Giáo hội – Đức Phanxicô nói – phải phụ thuộc vào trọng tâm sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn; 2) bất cứ tiến trình đổi mới hiệp hành nào cũng phải giữ mình khỏi những nguy hiểm làm phân cực và phân mảnh đời sống Giáo hội, phải tránh nhờ tới một sensus Ecclesiae mạnh mẽ và luôn kết nối với Giáo hội hoàn vũ[37].
Quan điểm xuất phát từ cái nhìn nhận thức luận: “Thực tế thì hơn ý tưởng” (câu nói của Đức Giáo Hoàng hay được trích dẫn).
5. Suy tư đại kết và xã hội
– Đức Giáo Hoàng cũng mời gọi ta hãy biết học hỏi những gì chúng ta cần từ “các anh em Kitô hữu khác”. Chẳng hạn, học với anh chị em Chính thống giáo về “ý nghĩa của tính Giám mục đoàn và kinh nghiệm của họ về tính công nghị”[38]. Chúng ta học được từ kinh nghiệm Anh giáo về tính công nghị diễn tả qua tuyên ngôn chung gần đây (ARCIC III)[39]. Phía Công giáo trong Ủy ban khẳng định Giáo hội Công giáo học rất nhiều từ thực hành của Anh giáo về cơ cấu giáo tỉnh đa dạng (148) và ý nghĩa tầm vóc của các giáo tỉnh (120), văn hóa tranh luận cởi mở và thẳng thắn có ở mọi cấp của Cộng đồng Anh giáo (157) và cho giáo dân và giáo sĩ một vai trò tham vấn có tính biểu quyết (deliberative) trong các tổ chức công nghị (122). Phía Anh giáo xác nhận học được từ Công giáo Rôma sự phát triển cơ cấu Giáo hội tản quyền và thái độ cởi mở sẵn sàng đón nhận ý kiến và yêu cầu của giới giáo dân. Nhưng kinh nghiệm để lại từ “di sản nghị viện” ở một số giáo tỉnh trong Giáo hội Anh giáo, các công nghị tỉnh của họ dễ đi đến tranh cãi gay gắt khi ý kiến không được nhận phân định bởi huấn quyền, nhất là khi liên quan đến vấn đề đạo đức (100). Nếu như bên Công giáo ý nghĩa của sự hiệp nhất có thể khiến bãi bỏ những gì khác biệt, cản trở một cuộc đối thoại thẳng thắn và đi đến chỗ tránh né bàn luận những đề tài gây tranh cãi trong đại hội công khai (96), thì bên Giáo hội Anh giáo lại cho tản quyền quá mức khiến xảy ra nguy hiểm của một thứ “chủ nghĩa địa phương trị” (parochialism), một điều mà chính anh em Anh giáo không chấp nhận sự độc lập quá đáng về pháp lí của các Giáo hội địa phương và giáo tỉnh, đó là một mối đe dọa cho sự thống nhất giáo lí và ơn gọi hiệp thông, trong sự phụ thuộc lẫn nhau (137).
Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) giáo phận Limerick đã thực hiện công nghị giáo phận năm 2016, được chuẩn bị từ hai năm trước và hướng dẫn rằng trong “một kinh nghiệm hiệp hành thì tiến trình quan trọng hơn chương trình, đường đi quan trọng hơn điểm đến, điều hành quan trọng hơn sự kiện”[40]. Kết quả là một kế hoạch hiệp hành 10 năm cho giáo phận (2016-2026) được đề ra nhằm phát huy hiệu quả biến đổi suốt một thời kì dài vẫn còn thương thảo và đều đặn có những báo cáo tổng kết về tiến bộ công việc đã làm. Trước hoàn cảnh ngày nay thiếu linh mục, giáo phận đang khảo sát các mô hình mới để làm sao điều hành cộng đoàn. Công nghị Limerick quả thực là một tiếng gọi kêu gọi một Hội thánh truyền giáo và làm sao khám phá lại “ơn gọi và trách nhiệm của mọi tín hữu đã được rửa tội”. Điều đó có nghĩa là không giới hạn Hội thánh vào “một giáo xứ chỉ gồm một số những người giáo dân dấn thân trong các vai trò, thuộc phận vụ giáo hội”[41], mà mở rộng tầm nhìn ra Giáo hội như “một cộng đoàn của các cộng đoàn” gồm cả trường học, bệnh viện, dưỡng đường, nhà tù, và cả các hội đoàn, phong trào, tổ chức tôn giáo. Có xác tín căn bản là Hội thánh chỉ là mình nếu và chỉ nếu mình phục vụ cho người khác và có khả năng ra khỏi biên giới của mình tạo nên điều mà Đức thánh cha Phanxicô gọi là “một văn hóa gặp gỡ”. Sứ mạng của Hội thánh nói tóm lại không chỉ lo cho nội bộ nhưng hướng tới làm biến đổi xã hội[42]. Hội thánh hiệp hành, vì thế, không chỉ là sự cải tổ đời sống trong Hội thánh (ad intra), nhưng là một sức lực của đà tiến ra ngoài (ad extra).
– Ngoài ra, Hội thánh hiệp hành phải chiếu sáng chứng từ của mình trong bối cảnh xã hội toàn cầu hóa ngày nay. Những thách đố gay cấn nhất mà gia đình nhân loại phải đối diện đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ và vun trồng thái độ đối thoại, phục vụ và hợp tác. Trước sự vô tâm và vô tín thể hiện nơi những giải pháp đầu tư cho công ích quốc gia và quốc tế, Hội thánh cần phải mở rộng không gian và những tiến hành để xây dựng lại tinh thần tham gia có trách nhiệm và liên đới. Hội thánh bước đi trên con đường cải tổ theo hướng loan báo Tin Mừng có thể đóng góp bằng sự “phục vụ xã hội” của tính hiệp hành, giúp vun trồng công lí, bình an và chăm sóc ngôi nhà chung trái đất.
– Đức Giáo Hoàng Phanxicô không tin giải đáp cho các vấn đề của Giáo hội chỉ nằm ở những cải tổ hành chánh quản trị cơ cấu. Ngược lại, ngài thấy đôi khi những giải đáp như thế lại là một sự nhượng bộ theo tinh thần thế tục ngày nay (Zeitgeist) – một não trạng thống trị của kĩ thuật, một hình thái hiện đại của chủ nghĩa Pêlagiô. Trái lại, ngài nói Giáo hội cần phải dịch chuyển đến một sự canh tân thiêng liêng và hướng tới sứ mạng Loan báo Tin Mừng. Nếu một đàng Đức Giáo Hoàng xem thấy đáng khuyến khích cơ cấu Giáo hội “li tâm”, dựa trên việc tạo thêm sức mạnh quyền quản trị và giáo huấn cho các Hội đồng Giám mục trong vùng, thì đàng khác, ngài cũng nhắc nhở các Hội thánh địa phương là thành phần của một thân thể lớn hơn, Hội thánh hoàn vũ. Việc cải tổ Giáo hội không thực hiện được ngày một ngày hai, nhưng cần thời gian để được chín muồi dần. Đó phải là kết quả của một tiến trình hướng tới cân bằng những căng thẳng để tạo nên một Hội thánh một lòng một ý[43]. Có ý kiến của một nhà thần học nêu lên rằng lộ trình chủ đạo của tiến trình hiệp hành của Hội thánh ngày càng phải mở rộng và đi sâu hơn vào mô hình hiệp hành tham gia biểu quyết (deliberative) chứ không chỉ thỉnh vấn (consultative)[44]. Viễn tượng này còn xa xôi, nhưng cái nhìn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô quả là một “cuộc cách mạng yên tĩnh” ngài cho sensus fidelium một sức nặng đúng đắn, và ngài xác tín “Hội thánh hiệp hành phải là Hội thánh của tương lai”[45].
THƯ MỤC
- Ủy ban Thần học Quốc tế (UBTHQT),Tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Hội thánh, 02.3.2018.
- Paolo VI, motu proprioApostolica sollicitudo.Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, ngày 15.9.1965.
- Phanxicô,Evangelii gaudium,24.11.2013.
- D. Marmion,Una Chiesa che ascolta, in A. Melloni (a cura di),Sinodalità, EDB, Bologna 2021.
- A. Spadaro – C.M. Galli,La sinodalità nella vita e nella missione della Chiesa,in A. Melloni (a cura di), Sinodalità, EDB, Bologna 2021.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 137 (Tháng 9 & 10 năm 2023)
Các bài trong Bản tin Hiệp thông của Hội đồng Giám mục Việt Nam số 137 (tháng 9 & 10 năm 2023) với chủ đề: Gia đình hiệp thông, Giáo xứ hiệp thông.
MỤC LỤC
I. CHUYÊN ĐỀ • DÂN THIÊN CHÚA TIẾN BƯỚC TRONG HY VỌNG Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn • ĐỒNG TRÁCH NHIỆM, ƠN GỌI CÁ NHÂN VÀ PHÂN ĐỊNH ĐẶC SỦNG Lm. Brent Bowen, O.P • SỰ KHÔN NGOAN ĐỐI VỚI HÀNH TRÌNH THƯỢNG HỘI ĐỒNG Tiến sĩ Jessie Rogers • SỐNG MẦU NHIỆM GIA ĐÌNH GIÁO HỘI HIỆP THÔNG Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, C.Ss.R. • GIA ĐÌNH HIỆP THÔNG Lm. Lê Văn La Vinh, OP • PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH QUA VIỆC THỰC THI VAI TRÒ MỖI NGƯỜI VÀ TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH Sư huynh Joseph Lê Văn Phượng, fsc • CĂN CƯỚC ĐÀN ÔNG, CĂN CƯỚC ĐÀN BÀ Trích tác phẩm: Etienne Roze, Verità e splendore della differenza sessuale, Cantagalli, Siena 2014 Người dịch: Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn II. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN • TIN TỔNG HỢP GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM THÁNG 7 & 8 NĂM 2023 Lm. Giuse Tạ Minh Quý • CÙNG MẸ GÓP NHẶT YÊU THƯƠNG Maria Nguyễn Thị Kim Ngọc • THÔNG TIN Một số hoạt động của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam nhân dịp đón |
[1] UBTHQT, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ mạng của Hội thánh, 02.3.2018, 6.
[2] Ibid., s. 21.
[3] Ibid., s. 22.
[4] Ibid., s. 25.
[5] Ibid., s. 39.
[6] Ibid., s. 40.
[7] Paolo VI, motu proprio Apostolica sollicitudo. Thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, ngày 15.9.1965, giới thiệu trong AAS 57.
[8] UBTHQT, Ibid., s. 42.
[9] Cf. Ibid., ss. 49 và 55.
[10] ĐGH Phanxicô, Evangelium gaudium, s. 119.
[11] UBTHQT, Ibid., s. 70.
[12] UBTHQT, Ibid., s. 76: “Chiều kích hiệp hành của Hội thánh phải được diễn tả qua thực hành và quản trị các tiến trình tham gia khả dĩ biểu lộ sự hiệp thông năng động linh hứng cho mọi quyết định Hội thánh. Lối sống hiệp hành được diễn tả trong các tổ chức và quy trình qua các giai đoạn (chuẩn bị, cử hành, tiếp đón) dẫn đến các sự kiện công nghị Hội thánh được triệu tập ở các cấp khác nhau thực hiện tính hiệp hành nền tảng của mình”.
[13] Cf. UBTHQT, Ibid., s. 79. Tài liệu của UBTHQT phần dành riêng cho Hội thánh địa phương giải thích: “Công nghị giáo phận cũng như công nghị giáo hội Đông phương địa phương, vừa là hành động quản trị vừa là một sự kiện hiệp thông, canh tân và đào sâu ý thức đồng trách nhiệm trong Hội thánh của Dân Chúa và được kêu gọi phác thảo cụ thể sự tham gia sứ vụ của mọi thành viên theo logic “mọi người”, “một số người” và “một người”. Sự tham gia của “mọi người” cần được thể hiện qua việc thỉnh ý trong tiến trình chuẩn bị Thượng hội đồng, nhằm để có thể nghe được mọi tiếng nói diễn tả Dân Thiên Chúa trong Hội thánh địa phương. Những người tham dự công nghị giáo phận hay Thượng hội đồng với tư cách theo chức vụ, được bầu chọn hoặc được Giám mục bổ nhiệm là “một số người” được tin tưởng giao phó nhiệm vụ cử hành công nghị giáo phận. Điều căn bản là, tất cả những người tham dự cùng nhau biểu lộ một hình ảnh ý nghĩa và quân bình của Hội thánh địa phương, phản chiếu sự đa dạng của ơn gọi, thừa tác vụ, đặc sủng, khả năng chuyên môn, nguồn gốc xã hội và xuất xứ khác nhau. Giám mục, người kế nhiệm các Tông đồ và là mục tử của đoàn chiên triệu tập và chủ tọa công nghị Hội thánh địa phương, được mời gọi, với thẩm quyền của mình, thực thi tác vụ hiệp nhất và hướng dẫn đoàn chiên”.
[14] ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, 24.11.2013, s. 30.
[15] UBTHQT, Ibid., s. 113.
[16] Cf. Ibid., s. 67.
[17] Cf. Ibid., s. 64.
[18] Ibid., s. 68.
[19] Ibid., s. 69.
[20] Ibid., s. 67.
[21] Ibid., s. 73. Trích Evangelii gaudium, s. 102.
[22] Cf. Ibid., s. 105.
[23] Cf. Ibid., s. 104.
[24] Cf. Ibid., s. 107.
[25] Cf. Ibid., ss. 107-108.
[26] Cf. Ibid., s. 109.
[27] Cf. Ibid., s. 113.
[28] ĐGH Phanxicô, Diễn văn dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[29] UBTHQT, Ibid., s. 100; Lumen gentium, s. 12, 306.
[30] J.J. McElwee, “Cardinal Tagle: Church Should Not Look to “Idealized Past” with Nostalgia”, bài báo ngày 22.5.2015 trên trang mạng National Catholic Reporter, https://www.ncronline.org/news/world/cardinal-tagle-churchshould-not-look-idealized-past-nostalgia.
[31] “Người nữ là yếu tố tha tính trực tiếp của hệ thống giáo sĩ trị và họ có khao khát hợp tác giai ngẫu với người nam (reciprocity with men) để xây dựng hoàn cảnh mục vụ phong nhiêu hơn. Cùng với kinh nghiệm của các nữ tu sống đời sống cộng thể huynh đệ, thường xuyên phân định cộng đoàn, sống vâng phục qua “cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần”, phụ nữ nói chung có một vai trò nền tảng phải thể hiện để phát triển, cùng với những giáo dân khác ước muốn là thành phần của Hội thánh hiệp hành, những thực hành mới mẻ trong Hội thánh với linh đạo chủ chốt là lắng nghe, phục vụ mọi người, khiêm hạ và hoán cải, tham gia và đồng trách nhiệm” (N. Becquart, “Il ruolo delle donne per ripararer la Chiesa”, in Donne Chiesa Mondo. Mensile dell’Osservatore romano n. 81, luglio 2019, 5).
[32] UBTHQT, Il sensus fidei, s. 73.
[33] Cf. Giovanni Paolo II, Discorso ai vescovi della regione ecclesisatica di Pennsylvania et New Jersey [U.S.A.] in visita “ad limina apostolorum”, 11.9.2004: “Một Giáo hội học hiệp thông lành mạnh phải dấn mình tạo lập những cấu trúc tốt hơn phục vụ cho sự tham gia, thỉnh vấn và đồng trách nhiệm của Dân Chúa, không nên xem đó như một nhượng bộ cho kiểu mẫu “dân chủ” và quản trị trần thế, nhưng là một đòi hỏi nội tại (requisito intrinseco) của sự thực thi quyền bính giám mục và là một công cụ cần thiết để kiện toàn quyền bính ấy”.
[34] ĐGH Phanxicô, Thư gởi Đức Hồng Y Marc Oullet.
[35] ĐGH Phanxicô, Diễn văn kết thúc Đại hội Toàn thể Ngoại thường lần thứ III Thượng Hội đồng Giám mục.
[36] ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, s. 236.
[37] ĐGH Phanxicô, Thư gửi dân Chúa đang lữ hành tại Đức quốc, 29.6.2019.
[38] ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, s. 246.
[39] ARCIC III, “Cùng bước trên đường. Học làm Giáo hội – địa phương, vùng miền, hoàn vũ”, 02.7.2018, trong Regno-documenti 64 (2019)1, 16-64. Văn kiện phát hành năm 2017 bởi Ủy ban Quốc tế Anh giáo – Công giáo Rôma.
[40] E. Fitzgibbon, “Together on the Way – Pope Francis and Synodality”, in The Furrow 68 (2017) 9, 537.
[41] B. Leahy (Giám mục Limerick), “Moving Forward Together in Hope”. Limerick Diocesan Pastoral Plan 2016-2026, 5. Cf. https://bit.ly/3u0ZtQu (19.5.2021).
[42] Cf. ĐGH Phanxicô, Evangelii gaudium, s. 102.
[43] ĐGH Phanxicô, Thư gửi dân Chúa đang lữ hành tại Đức quốc, ss. 5-9.
[44] G. O’Hanlon, The Quiet Revolution of Pope Francis. A Synodal Catholic Church in Ireland?, Messenger Publications, Dublin 2018, 122.123.
[45] Ibid., 159.
2023
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Âm nhạc có tầm quan trọng như thế nào đối với tôn giáo trong Kinh thánh mà ta có thể dễ dàng suy ra qua từ “ca hát”, là một trong những từ được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Trong Cựu ước từ này được nhắc đến 309 lần và trong Tân ước được nhắc đến 36 lần.
Ở nơi Thiên Chúa nhập cuộc để tiếp xúc với con người thì lời nói không còn đủ nữa. Những tồn tại của cuộc sống được chạm đến và tự khắc trở thành bài ca: những gì là của con người không còn đủ để con người diễn tả nữa, và vì thế, con người mời gọi tất cả các thụ tạo cùng với mình trở thành bài ca: “Thức dậy đi, hồn tôi hỡi, thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm, tôi còn đánh thức cả bình minh. Lạy Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ, giữa lòng muôn nước, con đàn hát xướng ca. Vì tình thương của Ngài cao ngất trời xanh, và lòng thành tín vượt ngàn mây thẳm” (Tv 57, 9-11). Bài hát đầu tiên được tìm thấy, trong Kinh thánh, là sau cuộc vượt qua biển đỏ. Lúc ấy dân Israel được giải phóng hoàn toàn khỏi ách nô lệ, họ đã cảm nghiệm tràn trề quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trong hoàn cảnh thất vọng thê lương. Giống như Môsê từ lúc nhỏ được cứu khỏi nước sông Nil và bằng cách này ông thực sự đã được cứu sống, cũng vậy đến lượt mình dân Israel cảm thấy mình được cứu ra khỏi nước, được tự do, lần nữa được trở về với chính mình từ bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Phản ứng của dân trước biến cố nền tảng của ơn cứu độ trong trình thuật kinh thánh được diễn tả bằng những từ sau: “Họ tin vào Thiên Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ Người” (Xh 14,31). Tuy nhiên, phản ứng thứ hai tiếp sau đó cao hơn so với lần đầu, với sự thôi thúc cơ bản: “Bấy giờ ông Môsê cùng con cái Israel hát mừng Thiên Chúa…” (Xh 15,1). Trong việc cử hành đêm vượt qua các tín hữu đã cất lên bài ca này, từ năm này sang năm khác, họ ca hát như thể đó là bài ca mới của họ, vì họ cũng biết rằng, họ được “kéo ra khỏi nước” nhờ quyền năng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa giải thoát để có được cuộc sống đích thực. Sách Khải huyền của thánh Gioan tiếp tục mở rộng thêm đề tài này.
Rồi khi những kẻ thù cuối cùng của Dân Chúa đã bước vào bức màn lịch sử – bộ ba satan, bao gồm con thú, tượng của nó và con số tên tuổi của nó – nghĩa là khi mọi thứ dường như bị biến mất, đối với dân thánh Israel của Thiên Chúa, ngay trước một sức mạnh quá mức như vậy thì vị tiên tri được ban cho thị kiến về người chiến thắng: “Tôi thấy có cái gì như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa” (Kh 15,2). Điều nghịch lý xưa kia nay càng trở nên mạnh mẽ hơn: những con thú khổng lồ hung dữ, với sức mạnh truyền thông và kỹ năng của nó lại không thắng nổi; người chiến thắng là con chiên được hiến tế. Và thế là một lần nữa âm thanh lại vang lên cách rạch ròi, bài ca của Môsê, người tôi tớ Chúa, giờ đây đã trở thành bài ca của Con Chiên.
Bài ca phụng vụ được đặt trong khung cảnh của lịch sử vĩ đại đầy căng thẳng này. Đối với dân Israel biến cố cứu độ từng xảy ra ở vùng biển Canne vẫn còn là lý do để ca ngợi Thiên Chúa, là chủ đề cơ bản trong việc ca hát của họ trước mặt Thiên Chúa. Đối với các tín hữu, sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng đã vượt qua “biển đỏ” của sự chết đã bước vào thế giới tăm tối và đã phá vỡ những cánh cửa ngục tù, là cuộc xuất hành thực sự, biến mình thành một sự hiện diện mới trong bí tích rửa tội: phép rửa là cuộc sống được bén rễ trong cái đồng thời của việc Chúa Kitô đi xuống âm phủ và lên trời, qua đó Người đón nhận chúng ta bước vào trong sự hiệp thông của cuộc sống mới. Ngay trong ngày tiếp theo sau niềm vui của cuộc Xuất hành, dân tộc Israel đã nhận ra rằng họ phải đối diện với sa mạc, với những nguy hiểm của nó và các mối đe dọa không hề chấm dứt trong cuộc viễn hành hướng về Đất hứa. Nhưng luôn có những hành động của Thiên Chúa cho phép họ tiếp tục hát bài ca của Môsê và cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của quá khứ nhưng là Thiên Chúa của hiện tại và tương lai. Tất nhiên, trong mỗi bài ca mới cũng có ý thức về tính tạm thời và nhu cầu về một bài ca mới và sự dứt khoát, nhu cầu cứu độ không còn kèm theo bởi bất kỳ khoảnh khắc sợ hãi nào, mà chỉ bằng bài thánh ca ngợi khen. Những ai tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô, thực sự nhận ra được ơn cứu độ viên mãn và biết rằng, người tín hữu giờ đây tìm thấy khoảnh khắc ấy trong “giao ước mới”, giờ đây họ hát lên bài ca mới, là bài ca sau cùng và thực sự mới, vì điều hoàn khác biệt đã xảy ra với sự phục sinh của Chúa Kitô. Những gì mà chúng ta đã nói trong phần đầu về giai đoạn trung gian của thực tại Kitô giáo – không còn là cái bóng, cũng không phải thực tại đầy đủ, mà là “hình ảnh” – vẫn đang có giá trị ở đây: bài ca mới sau cùng đã được cất lên, nhưng tất cả những đau khổ của lịch sử cần được thực hiện, tất cả mọi nỗi khổ được gom góp và được dâng lên trong hy lễ ngợi khen, để chúng ta được biến đổi trong bài hát ngợi khen.
“Dẫn vào tinh thần phụng vụ”, San Paolo, Cinisello Balsamo 2001, trang 132-134.
Chuyển ngữ: G. Võ Tá Hoàng
2023
Tầm quan trọng của âm nhạc và nền tảng Kinh thánh
“Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài thương cứu độ. Rồi chúng con sẽ ngày ngày xướng hoạ đàn ca trong nhà ĐỨC CHÚA, suốt cả cuộc đời” (Is 38,20).
“Hát lên mừng CHÚA một bài ca mới, tán tụng Người đi, từ cùng cõi địa cầu!” (Is 42, 10).
Tính khách quan của âm nhạc có khả năng làm phát sinh nơi chủ thể những phản ứng cụ thể, mà vào thời điểm đó nó được đặt với cái tên là Affetti, và chỉ có nghệ thuật này mới cho phép. Nhưng theo cách giải thích của Hegel, nguyên tắc chủ thể tính đã trở nên như một phần của tôn giáo. Như chúng ta đã biết, người Tin lành đã dựa vào chính nguyên tắc này. Do đó, theo Hegel, sự trao đổi khách thể-chủ thể này cho phép một sự tổng hợp tuyệt vời, giúp đưa ý thức chủ thể đến gần hơn với nguyên lý tuyệt đối của nó. Nói cách khác, âm nhạc là một trong những phương tiện được Thiên Chúa ban cho chúng ta để tôn vinh danh Ngài, để tích cực tham gia vào vẻ đẹp và sự hài hòa của việc sáng tạo. Thực vậy đã có lời chép rằng “Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng CHÚA đi nào!” (Tv 150, 6).
Diễn tả đầu tiên về sức mạnh của âm nhạc có thể được rút ra từ sách Sử biên niên (5, 13-14), được trình bày như sau : “Họ thổi kèn và ca hát, cùng nhau cất tiếng tung hô và ngợi khen ĐỨC CHÚA. Họ cất tiếng hát cùng với tiếng kèn, tiếng não bạt và các nhạc cụ khác, để tung hô ĐỨC CHÚA, “vì Chúa nhân từ, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Vậy khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ ĐỨC CHÚA. Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây. Quả thật, vinh quang ĐỨC CHÚA đã tràn ngập Đền Thờ của Thiên Chúa”.
Từ đoạn vừa đọc trên chúng ta thấy xuất hiện một nét đặc thù trong Kinh thánh : Âm thanh thường được nối kết với sức mạnh của Thiên Chúa. Một biểu tượng giữa mọi biểu tượng, không cần phải bình luận, đó là âm thanh ra trận của kèn Trumpet. Chúng ta thấy nhạc cụ này xuất hiện qua những đoạn thánh kinh sau: Xuất hành 19,13; 19,16; 19,19; 20,18; Lêvi 25,9; Dân số 10,4; Giôsuê 6,5; 6,20; Thẩm phán 3,27; 6,34; 7,16; 7,18; 1Samuel 13,3; 2Samuel 2,28; 6,15; 15,10; 18,16; 20,1; 20,22; 1Vua 1,34; 1,39; 1,41; Nêhêmia 4,18; 4,20; Gióp 39,24; Thánh vịnh 47,5; 81,3; 150,3; Isaia 18,3; 27,13; 58,1; Giêrêmia 4,5; 4,19; 4,21; 6,1; 6,17; 42,14; 51,27; Êzêkien 7,14; 33,3-6; Hôsê 5,8; 8,1; Gioel 2,1; 2,15; Amos 2,2; 3,6; Sôphônia 1,16; Zacaria 9,14; Matthêu 6,2; 24,31; 1Côrintô 14,8; 15,52; Do thái 12,19; Khải huyền 1,10; 4,1; 8,13; 9,14.
Những đoạn đề cập đến việc ca ngợi Thiên Chúa có rất nhiều trong bộ Thánh vịnh. Liệt kê ở đây một danh sách, không phải là tất cả, nhưng hy vọng có thể giúp ích cho những ai muốn tham chiếu: Xuất hành 15,1; 15,21; 32,18; Dân số 21,17; Thẩm phán 5,3; 1Samuel 21,11; 2Samuel 22,50; 1Sử biên niên 16,9; 16,23; 16,33; 2Sử biên niên 20,22; 23,13; 29,30; Gióp 29,13; Thánh vịnh 7,17; 9,2; 9,11; 13,6; 18,49;21,13; 27,6; 30,4; 30,12; 33,2-3; 47,6-7; 51,14; 57,7; 57,9; 59,16-17; 61,8; 65,13; 66,2; 66,4; 67,4; 68,4; 68,32; 71,22-23; 75,9; 81,1; 89,1; 92,1; 95,1; 96,1,2; 98,1,4,5; 101,1; 104,12, 33; 105,2; 108,1, 3; 135,3; 137,3,4; 138,1,5; 144,9; 145,7; 146,2; 147,1,7; 149,1,3,5; Châm ngôn 29,6; Isaia 5,1; 12,5; 24,14; 26,19; 27,2; 35,6; 38,20; 42,10; 42,11; 44,23; 49,13; 52,8; 52,9; 65,14; 20,13; Giêrêmia 31,7,12; 51,48; Êzêkien 27,25; Hôsê 2,15; Sôphônia 3,14; Zacaria 2,10; Rôma 15,9; 1Côrintô 14,15; Do Thái 2,12; Giacôbê 5,13; Khải huyền 15,3.
Một số người lưu ý rằng trong sách Đanien 3,10.15 âm nhạc trở thành công cụ cho việc tôn thờ ngẫu tượng. Sự quyến rũ đầy nguy hiểm của âm nhạc được thánh Augustinô, Luther, Calvin và một số người khác cảnh báo trước. Mỗi người có mỗi phản ứng khác nhau: ác cảm nổi tiếng ban đầu đối với đàn organ của Luther, lệnh cấm âm nhạc của Calvin…., Tuy nhiên, tất cả đều phải chấp nhận bằng chứng hiển nhiên : Âm nhạc cũng như bất kỳ phương tiện nào của sự sáng tạo tự nó không có gì nguy hiểm, nhưng vấn đề là nó được sử dụng như thế nào. Luther khẳng định rằng : Giới trẻ cần phải thay thế các bài hát thô tục của họ, và thay vào đó là học những bài hát mang tính giáo dục và học cách tiếp cận những điều tốt đẹp phù hợp với họ. Vấn đề thực sự ở đây, như đã nói, âm nhạc không phải là như vậy, nhưng đó là quà tặng của Thiên Chúa vì vậy nên đi kèm với các bản văn phù hợp với đặc quyền này. Cho nên âm nhạc chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa.
Trong lĩnh vực cải cách, sau này, Martin Luther đã coi âm nhạc là một hình thức diễn đạt tôn giáo có tầm quan trọng to lớn về mặt giáo lý. Đối với nhà cải cách, cũng như đối với Thánh Augustinô, hát là cầu nguyện hai lần. Bài ca cho phép qui tụ các tín hữu, những người mà thời đó hầu hết là thất học, dễ dàng tìm hiểu các chủ đề đức tin kitô giáo, vì lúc bấy giờ ca từ của Lieder bằng tiếng Đức. Muốn thực hiện một so sánh, cả hai đều thực hiện chức năng tương tự, nhưng với mục đích và khái niệm thần học khác biệt, giống như những bức tranh khảm và tranh vẽ bên trong các nhà thờ Công giáo. Hơn nữa, âm nhạc, trong bản chất của nó, đã tạo nên sự liên đới (Koiné) sâu sắc giữa cộng đoàn các tín hữu.
Giờ đây chúng ta xem thử các nhà cải cách nói gì về tầm quan trọng của âm nhạc: Âm nhạc phần nào đó như một kỷ luật giúp con người thêm nhẫn nại và dịu dàng, giản dị và biết điều hơn. Người khinh miệt nó, hành động như những kẻ cuồng tín, thì không thể đồng ý về quan điểm này. Âm nhạc là quà tặng của Thiên Chúa chứ không phải của con người. Âm nhạc xua đuổi điều xấu xa và đem lại hạnh phúc. Nhờ âm nhạc mà người ta quên đi mệt nhọc và tất cả mọi tật xấu. Cho nên âm nhạc hoàn toàn làm cho chúng ta tin vào điều mà tôi nói và không có bất cứ nỗi lo sợ nào khi nói về nó. Xét về quan điểm thần học thì không có nghệ thuật nào có thể tồn tại như âm nhạc […] Âm nhạc tuyệt đối cần phải bảo tồn trong các trường học […] cần tập cho những người trẻ có thói quen về nghệ thuật này […]. Ca hát là nghệ thuật tuyệt vời và sự rèn luyện đúng đắn […] Ai biết ca hát thì không bỏ cuộc, không bất mãn và không buồn rầu. Âm nhạc thì vui tươi và xua tan các mối lo bằng những bài ca (Thư gửi cho các nhạc sĩ, 1530).
Nhưng ngay cả trước Luther, một đồ đệ thuộc trường phái Augustinô nói về bài thánh ca được thánh Augustinô ca ngợi: “Tôi cảm thấy linh hồn của chúng tôi bay lên trong ngọn lửa thương xót với nhiệt tâm và lòng sùng mến lớn lao đối với những lời ca thánh thiện, khi chúng đi kèm với bài ca, và tất cả những cảm xúc khác nhau trong tâm hồn tìm thấy nơi bài ca nét diễn đạt của riêng nó, làm thức tỉnh các linh hồn (Tự thú, lib. X, c. 33).
Luther đã thực hiện dự án của mình, chỉ làm Vinh Danh Thiên Chúa, qua hợp xướng: một hình thức hát đơn giản nhưng diễn cảm. Tên gọi “hợp xướng” là một tính từ được sử dụng như danh từ có nguồn gốc từ chữ «cantus choralis», tức là một giai điệu, thường là đồng âm, ban đầu được thực hiện bằng đồng giọng mà không có nhạc đệm.
Theo dòng ký ức, chúng ta tóm lược cách ngắn gọn nguồn gốc và ý nghĩa của hợp xướng trong phụng vụ Tin lành. Các bản hợp xướng, không giống như các bài thánh ca Công giáo, không được viết bằng tiếng Latinh, điều này nhằm khuyến khích sự tham gia tối đa của các tín hữu. Vua Louis II (855-875) phàn nàn về sự tham gia ít ỏi của cộng đoàn tín hữu trong thánh lễ; trong “Capitula Ecclesiastica” (năm 856), ông đã nói: Tertium intimandum, ut ad salutationes sacerdotales congrue responsiones discantur, ubi non solum clerici et Deo dicatae sacerdoti responsionem offerant, sed omnis plebes devota consona voce respondere debet. [Điểm thứ ba cần nói là, hãy học cách đáp lại lời chào của linh mục một cách thích hợp, ở đây không phải chỉ các giáo sĩ và những người tận hiến cho Chúa mới đáp lại linh mục, mà cả cộng đoàn tín hữu nên đồng thanh đáp lại].
Từ góc độ âm nhạc, bài ca phụng vụ này ban đầu là đơn âm, mặc dù được hát bằng nhiều giọng: tối đa là có một vox organalis, chuyển động song song, một quãng 4 hoặc 5[1]. Nó bắt nguồn từ phụng vụ “secundum uso romanum” được hát theo cách dùng giai điệu, tức là bằng concentus, đối lại “accentus”, cách hát gần giống với kiểu hát nói – ngâm tụng. Dựa theo sự tiến bộ của kỹ thuật âm nhạc, hợp xướng phát triển thành nhiều hình thức khác nhau: đơn âm, đa âm dạng motet và dạng hòa âm. Nhiều bài hát bằng tiếng địa phương, từ bài của Minnesänger đến bài sám hối và thậm chí cả những bài quân sự, sau này đã trở thành hợp xướng. Do đó, nguồn gốc của hợp xướng này có từ rất lâu trước sự cải cách. Ở dạng hoàn chỉnh, chúng ta có các bản Lied bắt đầu từ thế kỷ XI. Sự phát triển sôi động của những bài hát tôn giáo trong giai đoạn này được minh chứng, một cách gián tiếp, qua các lệnh cấm khác nhau của Giáo hội, được ban hành bởi các hội nghị công giáo Basilê (1435) và Eichstatt (1446), qua các thượng hội đồng ở Praha (1406) và Schwerin (1492). Trong thực tế, hình thức duy nhất của bài ca phụng vụ được chấp nhận là thánh ca Latin-Gregoriano.
Vì vậy, Luther không làm gì, hầu như không có phát minh gì trong việc tổ chức phụng vụ mới, có thể ông đã dựa trên một truyền thống đã được phổ biến trong dân chúng; có lẽ đó là con đường trực tiếp mau thấy nhất, và thậm chí ông cũng không nghĩ ra rằng mọi người có thể hát được thánh ca Grêgôriô khó. Nói về việc soạn thảo, hợp xướng và tuyển tập thánh ca (Gesangbücher) vào lúc này, từ phía Luther nói riêng hoặc của Giáo hội Tin lành nói chung, không nằm trong ý định của bài viết này. Chúng ta chỉ nói thêm là hình thức hợp xướng đã đạt đến đỉnh huy hoàng nhất của nó nhờ một trong những nghệ sĩ nổi tiếng của mọi thời đại là : Johann Sebastian Bach (1685- 1750).
Để kết thúc, chúng tôi muốn tóm kết tư tưởng của thánh Tôma Aquinô về đề tài này, ngay cả khi nó không hoàn toàn thuộc bối cảnh của chúng ta, chỉ vì nó theo sát thánh Augustinô. Trong Tổng Luận Thần Học (IIa IIae, q.91, a.2), Thánh Tôma đưa ra thắc mắc rằng liệu việc dâng lời ca tụng Thiên Chúa có cần thiết phải hát không. Câu trả lời bắt đầu từ tiền đề là mục đích của con người là yêu mến Thiên Chúa. Ngài nói rằng thật chính đáng khi dùng mọi thứ có thể để giúp chúng ta củng cố tình yêu này. Ca hát hay âm nhạc là phương tiện phù hợp nhất, bởi vì, trong phạm trù cảm xúc, sự sáng tạo thiêng liêng thì hướng về cái thiêng liêng nhất. Hơn nữa, tất cả những gì được Thiên Chúa tạo nên đều được chuẩn bị cho vinh danh Ngài, vì mọi thứ được tạo ra không vì sự cần thiết mà vì chính Chúa (propter se ipsum). Tôi muốn thêm vào đây thánh vịnh 150 để khép lại chủ đề này :
Halêluia!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa,
ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh.
Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ,
ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và,
ca tụng Người, hoạ tiếng cầm tiếng sắt.
Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa,
ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.
Ca tụng Chúa đi, với chũm choẹ vang rền,
ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.
Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng CHÚA đi nào!
Halêluia!
————————————–
[1] ND: Khởi đầu của đối âm là một hình thức rất đơn giản, được gọi là organum[1], có hai bè : vox principalis (dòng ca chính), người ta hát cantus firmus, tức là giai điệu bình ca và vox organalis (o organum); sau khi bắt đầu bằng đồng giọng, người ta thêm vào một quãng 4 hoặc 5 (đôi khi trên một quãng tám) song song với giọng chính, nốt đối nốt (punctum contra punctum, từ đó phát sinh ra từ đối âm). Và kết thúc bằng việc trở lại đồng giọng.
Lm Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Khi đề cập đến tầm quan trọng của việc đệm đàn trong phụng vụ nghĩa là chúng ta sẽ phải nói đến việc xây dựng một bản đàn như thế nào cho phù hợp với những đòi hỏi của Hội thánh trong các cử hành phụng vụ, một bản đàn cử lên phải có âm thanh du dương, không có yếu tố kích động hoặc kịch trường, vũ điệu…, nhưng có chất thánh thiêng, và phải được kiến tạo (có thể phải viết ra giấy hoặc ứng tấu) dựa trên quy tắc khách quan của nghệ thuật âm nhạc. Khi bài hoà âm cho bản đệm đàn (BĐĐ) được viết ra trên giấy, người nghệ sĩ chơi đàn chỉ việc nhìn vào đó và dùng đôi tay của mình cử lên trên phím đàn; nhưng cũng có những đàn sĩ giỏi hơn, không cần viết ra giấy các bè của bản đàn nghĩa là không cần nhìn vào BĐĐ mà có thể ứng tấu BĐĐ ngay trên đàn. Dù thế nào hay cách nào đi nữa, như vậy rõ ràng là chúng ta đang đề cập đến yếu tố hoà âm.
A- Tầm quan trọng của hoà âm trong sáng tác ca khúc:
Khi người nhạc sĩ bắt đầu hình thành một ý tưởng giai điệu cho một ca khúc nào đó, nếu trong tiến trình này vị nhạc sĩ đó không có ý tưởng gì về cấu trúc hoà âm cho nó thì đó chính là một sự khó khăn rất lớn cho những ai làm công việc hoà âm cho ca khúc đó. Tại sao chúng ta phải nói đến sự quan trọng của cấu trúc hoà âm khi sáng tác một ca khúc?
Khi ta viết được một dòng nhạc nào đó và được gắn liền với lời ca hẳn hoi, nói chung nghĩa là ta đã sáng tác ra một ca khúc. Ở đây chúng ta chưa nói đến bố cục, chất liệu, hình thể… nhưng khi một ca khúc như vậy được hình thành, nó cũng chỉ là một dòng ca với một bè hát, nghĩa là nó chưa được hoà âm. Điều này cũng giống như một em bé khi mới chào đời vậy! Ta cần phải mặc áo cho nó.
Có một phương tiện duy nhất để mặc áo cho nó là Hòa âm, hoà âm một dòng ca cho nhiều giọng nhiều bè hát khác nhau thì ta gọi là hòa âm cho ca đoàn, và khi hòa âm một dòng ca cho một hay nhiều thứ nhạc cụ ta gọi là hòa âm cho bản đệm đàn. Như vậy, vấn đề hoà âm lại là yếu tố quan trọng không kém gì so với việc sáng tác ban đầu, có thể gọi đó là việc sáng tác lần thứ hai; một việc xem ra khó hơn bởi vì người nghệ sĩ phải sáng tác trên dòng ca cho sẵn, nghĩa là dựa trên những gì đã có rồi bây giờ tạo nên cái mới để bổ túc, để trang điểm, để nâng đỡ … làm cho dòng ca ấy được đánh nổi và toàn bộ nhạc phẩm trở nên phong phú hơn! Vì vậy khi sáng tác, các nhạc sĩ nên hết sức lưu ý đến mối liên hệ giữa các hài thanh (HT) với nhau, nó sẽ là nền móng để viết các móc nối hoà âm cho tác phẩm và từ đó dẫn đến một BĐĐ hoàn chỉnh.
Để vấn đề này dần được sáng tỏ, xin mời các bạn cùng theo dõi bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long.
1-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với đơn ca giai điệu cho sẵn.
2-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với hợp xướng 4 bè dị giọng.
3-Các câu TK theo BĐĐ thông thường, Kiểu 1 chỉ dùng các HT chính, Kiểu 2 dùng cả HT chính và phụ, Kiểu 3 dùng cả việc chuyển thể.
B- Tầm quan trọng của Bản đệm đàn trong thánh nhạc phụng vụ:
Chúng ta vừa nghe và hát bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long với phần đệm đàn mà ta gọi là đệm đàn phụng vụ, vì ca khúc này là một bài thánh ca phụng vụ! Đệm đàn phụng vụ nghĩa là làm sao?
Theo cuốn HƯỚNG DẪN MỤC VỤ THÁNH NHẠC của UBTN trực thuộc HĐ Giám Mục VN ban hành vào tháng 7/2017, từ số 44 đến 47 và từ số 82 đến 85, cùng một số văn kiện của Toà Thánh, đặc biệt là HUẤN THỊ VỀ ÂM NHẠC TRONG PHỤNG VỤ (Instructio de Musica in Sacra Liturgia – 05.3.1967), từ khoản 62 đến 67, thì đàn đại quản cầm cùng âm thanh của nó được quan tâm nhiều hơn mọi thứ nhạc cụ khác khi cử hành phụng vụ. Trong bài này xin tạm gọi chung là organo khi muốn nói đến cây đàn này, vì thực tế khi sử dụng đàn keyboard hay đàn Electon ta cũng có thể mở được sắc tiếng của cây đàn đại quản cầm này… Khi đàn organo được dùng chung với tiếng hát trong việc cử hành phụng vụ, thì Hội Thánh mẹ dạy rằng chức năng của nó chỉ là nâng đỡ tiếng hát, dùng các kỹ thuật hòa âm để làm cho tiếng hát được nổi lên mà không nhuốm màu trần tục, đó là đệm đàn phụng vụ.
Theo giáo huấn đó, trong bài này chúng tôi xin đề cập đến một số kỹ thuật để thực hiện hoà âm một bản đệm đàn trên một tác phẩm thánh ca phụng vụ, từ bản đệm đàn của một bài thánh ca phụng vụ được viết trên giấy, chúng ta cử lên cây đàn organo cùng với tiếng hát của ca đoàn, lúc đó ta gọi là đệm đàn phụng vụ.
Bản đệm đàn tiếng Đức gọi là Bekleidung nghĩa là mặc áo, tiếng Pháp, Anh và Ý thì kêu là accompagnement hoặc accompaniment, accompagnare nghĩa là đi theo, là hộ tống. Mục đích của nó là đánh nổi bài ca chứ không gây rối hoặc lấn át bài ca. Có nhiều kỹ thuật khác nhau để đánh nổi bài ca như, bài ca chuyển hành nhanh, BĐĐ đi chậm, bài ca ngân dài ở một dấu nhạc, BĐĐ chạy nhanh hay phỏng diễn ý nhạc trước đó hoặc giới thiệu một nét mới của nhạc đề sẽ xuất hiện sau đó…
Xem những BĐĐ của các nhạc sĩ bậc thầy như Bach, Mozart, Beethoven, Verdi … ta thấy BĐĐ là thành phần cốt yếu của bài ca, nó được dùng để đánh nổi, để bổ túc và để nói lên những gì mà dòng ca chưa tỏ ra hết. Điều mà bản thân lấy làm thích thú nhất là nó cũng như chiếc áo đẹp, chỉ mặc vừa cho người này mà không vừa cho người khác, và khi BĐĐ được viết cho nhiều nhạc cụ thì ví như chiếc áo thêu dệt công phu nhiều màu sắc, lại càng thêm giá trị … Hoặc có thể ví BĐĐ như một vườn hoa đầy màu sắc và bài ca như những con ong con bướm bay lượn trên nó. Hơn nữa, một người thì có thể có nhiều chiếc áo để thay đổi, thì bất cứ bài ca nào cũng vậy, có thể có nhiều kiểu viết hòa âm cho BĐĐ hoặc những bản đàn độc tấu dựa trên nhạc đề đó, và từ đây phát sinh lối viết khai triển nhạc đề theo nhiều kiểu khác nhau và ta thường gọi là các khúc biến tấu trên một nhạc đề (variations), và cái khó còn lại là chọn những kiểu nào cho thích hợp nhất, xứng đáng nhất với bài ca. Vì nhạc đề là bài ca đã có sẵn nên nó phải là thành phần chính yếu của BĐĐ và nó không thể sửa chữa, và như thế công việc này rất bao la mênh mông với nhiều đòi hỏi cho người viết BĐĐ và nghệ sĩ chơi đàn, trong đó trình độ, lương tri và sự kiên nhẫn là ba yếu tố cần thiết nhất.
Ngay từ đầu môn học hòa âm, nhà trường thường bắt học viên phải biết chơi đàn dương cầm (piano) hoặc đại quản cầm (organo), là hai thứ đàn có thể chơi được nhiều bè cùng một lúc, biết để có thể chơi được những bản hòa âm mà bạn viết ra, như thế mới có kết quả, bởi lẽ học hòa âm không phải là viết các công thức móc nối thế này thế kia, nhưng phải biết nghe, biết phân biệt các cơ cấu, liên kết hòa hợp hay tương phản trong các âm thanh… Nói đến đây ta sẽ thấy thêm một lợi ích khác, nếu bạn biết chơi dương cầm hay đại quản cầm thì mới có khả năng để viết một BĐĐ ít nhất là thích ứng với khả năng đa dạng của hai cây đàn này, dĩ nhiên bạn phải học xong môn hòa âm, một môn học hao tổn khá nhiều công sức và đã khiến cho bao người bỏ cuộc, nhưng nó lại là nền tảng của mọi vấn đề trong ngành nghệ thuật này.
Xem ra có một số người đệm đàn ở các xứ đạo chưa hiểu rõ chức năng của nó cũng như sự học hỏi cần thiết cho việc làm này, vì thế mới có những hiện tượng đáng tiếc như chúng ta đã thường gặp.
Để cụ thể hóa vấn đề, và thời gian cũng có hạn, chúng tôi xin trưng dẫn ra đây một vài kiểu kỹ thuật viết hòa âm cho BĐĐ, đây không phải là tất cả, nhưng theo cách nhìn khách quan về lĩnh vực này, nó chỉ là vài kiểu căn bản mà chúng tôi nghĩ rằng trong số đó có những kiểu rất xứng đáng, rất phù hợp với cung cách đệm đàn phụng vụ ở mức độ dễ chấp nhận, nghĩa là không quá kinh điển, không quá cầu kỳ, không như cung cách nhạc đời nhưng cũng không tầm thường và nhiều người có thể đàn được, lại đúng với quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi. Và như thế, vấn đề được đặt ra không phải là BĐĐ dễ hoặc khó, đơn giản hay phức tạp, mà nó có phải là thành phần không thể thiếu của một bài ca hay không, hoặc nó có xứng hợp để đánh nổi, để bổ túc cho bài ca hay không, đặc biệt là các bài thánh ca phụng vụ.
Sau đây, là sáu kiểu viết hòa âm cho BĐĐ (gồm 3 kiểu thông thường và 3 kiểu biệt lập) dựa trên nhạc đề của Lm. Kim Long, đó là bài LỜI CHÂN THÀNH.
- BẢN ĐỆM ĐÀN THÔNG THƯỜNG:
- Nhạc đề là bè trên cùng của BĐĐ:
- Ô nhịp 1: Dấu SO ở dòng ca là dấu hoa mỹ, có thể coi đó là dấu nhấn, vì nhấn ở thì yếu nên không hiệu quả lắm.
- Ô nhịp 4: DO-RE-MI-FA và LA-TI-DO-RE ở hai bè trong có ý để phỏng diễn lại ý nhạc trước đó ở ô nhịp 3 (SO–LA–TI) để tạo thành đoạn nối câu, đồng thời sau đó thêm dấu RE và FA ở hai bè trong (DO–RE–MI–FA và LA–TI–DO–RE) thì trở thành một nét nhạc đảo lộn sẽ được giới thiệu ngay sau đó ở ô nhịp 5 (RE–DO–TI–LA).
- Cũng vậy, ở ô nhịp 6 có bè trong là LA–SO–FA–MI–REchuyển hành nhanh để phỏng diễn ý RE–DO–TI–LA trước đó, tuy là những dấu nhạc hoa mỹ ở bè trong, nhưng lại là nhạc đề sẽ được đánh nổi ngay sau đó ở bè trên trong cùng ô nhịp 7 – 8 (LA–SO–FA–MI–RE).
- Câu tiểu khúc được hòa âm bằng việc “Ghi động” (agitato), kỹ thuật này rất được ưa chuộng vào thời kỳ Baroque (TK.17), tức là mỗi thì nhịp trong nhạc đề đều được thay phiên nhau bị động liên tục, khi thì bè trên, lúc thì bè dưới hoặc bè giữa, nét nhạc ghi động này được lấy từ nhạc đề của Điệp khúc (SO–FA–MI–RE/ DO–TI–LA–SOL/ FA–MI–MIb–RE ở các ô nhịp 11, 13 và 15).
Lời bình:
Đây là lối viết BĐĐ được xem là lý tưởng nhất và phổ biến nhất, có thể áp dụng cho hầu hết các ca khúc. Vì dòng ca của bài hát lại là bè trên cùng của BĐĐ nên lối viết này dễ giúp cho người hát giữ vững được cung giọng trong khi hát, nhất là đối với những ban hát ca đoàn còn giới hạn về khả năng chuyên môn, cũng dễ cho người chơi đàn nhận ra diễn tiến của bài ca mà phối hợp nhịp nhàng trong khi hát. Lối viết hòa âm BĐĐ này không quá khó cho tác giả, nhưng muốn viết hòa âm cho hay cũng không phải là dễ như ta thường thấy trong khi học hòa âm, và thực sự cách này đã thể hiện được điều mong muốn của Giáo hội : nhạc cụ dùng trong nhà thờ là để nâng đỡ tiếng hát.
(Lời Chân Thành 1)
- Nhạc đề là bè giữa của BĐĐ:
Cũng được dùng với kỹ thuật ghi động như đã mô tả ở 1.d nhưng không mất tính đồng nhất. Trong 3 ô nhịp đầu, bè trên cùng được chuyển hành lên, có ý tạo nên sự tương phản với bè trầm chuyển hành xuống đồng thời (RE–DO#–DO–TI–LA), là một ý của nhạc đề nhằm giới thiệu trước sẽ xuất hiện sau cùng của phần ĐK (LA–SO–FA–MI–RE). Sự tương phản này như cái khung để trưng ra một bức tranh là nhạc đề được xuất hiện ở khu vực giữa.
- Đoạn nối câu ở ô nhịp 4 được sử dụng dấu trì hoãn và dấu lượn.
- Ô nhịp 6cũng cùng một ý như đã mô tả ở số 1.c.
- Ô nhịp 8 có bè trên cùng (RE–DO–TI–LA–SO) là phỏng diễn ý cuối của nhạc đề (LA–SO–FA–MI–RE) ở ô nhịp 7 trước đó.
- Phần TK cũng được ghi động, và cố gắng phỏng diễn nét chính tuy không cân đối.
Lời bình:
Lối viết hoà âm BĐĐ này nếu điều chỉnh lại một chút để đem ra thực hiện trên bốn bè hát dị giọng Soprano, Alto, Tenore và Basso thì phải khéo léo lắm mới có thể làm nổi được dòng ca chính, có nghĩa là cách thức này dễ làm cho dòng ca bị che lấp, điều này cũng là một thách đố đối với tác giả. Và như vậy, sẽ không quá khó khi ta xét về phương diện âm sắc và âm lượng, ý muốn nói đến sự khác biệt âm sắc và âm lượng của tiếng đàn với tiếng hát, nếu biết điều chỉnh hợp lý sao cho tiếng hát vẫn được tiếng đàn làm cho nổi bật do sự tương phản về âm sắc thì cũng dễ dàng chấp nhận. Ví dụ nếu dùng sắc tiếng Choir Ahhs hoặc Voice Ohhs hoặc sắc tiếng gần giống giọng người như bộ kèn Sax của đàn organo để chơi Bđđ loại này thì có thể sẽ phủ lấp dòng ca của bè hát; tốt hơn là dùng những âm sắc khác biệt với giọng hát nhưng không chói tai như Strings, như Organ Pipe … thì khá lý tưởng. Đó là chúng ta vẫn chưa bàn đến sự tương phản của nhịp điệu, khi dòng ca chuyển hành thì các bè còn lại của Bđđ đứng yên chẳng hạn, hoặc khi dòng ca đứng yên vì hết câu nhạc thì các bè còn lại chuyển hành … vậy nói cho đúng, mặc dù dòng ca nằm ở bè giữa hay khu vực giữa của BĐĐ, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội để thực hiện các giải pháp sao cho dòng ca được đánh nổi, vấn đề còn lại là sự hiểu biết, là khả năng chuyên môn, là tính thẩm mỹ và lương tri của chúng ta.
(Lời Chân Thành 2)
- Nhạc đề là bè trầm của BĐĐ:
Có nhiều hạn chế hơn để phỏng diễn ý nhạc, các bè trên thường giữ vai trò hòa âm đắp cho đầy, tuy nhiên ta cũng thấy:
- Ô nhịp 2 sang đầu ô nhịp 3: Bè trên cùng như giới thiệu trước (RE–DO#–DO–TI ) nét nhạc cuối cùng của phần ĐK (SO–FA–MI–RE).
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5 cũng là hình thức đó ở bè trên cùng. Rồi sau này lại tái diễn bằng hình thức đảo lộn ở ô nhịp 12 sang đầu ô nhịp 13 và cũng ở bè trên cùng.
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5, ở bè giữa (RE–MI–FA–RE–MI) là nét phỏng diễn của ý nhạc đề trong ô nhịp 3 trước đó (SO–LA–TI–SO–LA).
- Nét nhạc này cũng được phỏng diễn ở bè trên cùng từ giữa ô nhịp 5 sang ô nhịp 6 (LA–TI–DO–LA–TI ).
- Một lần nữa, nét nhạc cuối cùng từ ô nhịp 7 sang ô nhịp 8 (LA–SO–FA–MI–RE) cũng được mô phỏng bằng việc đảo lộn nét nhạc ngay sau đó ở bè trên cùng (SO–LA–TI–DO–RE) để kết thúc phần ĐK.
- Ô nhịp 13 : Có 2 bè trong là nét mô phỏng phóng khoáng của ý nhạc đề vừa đi qua trong ô nhịp 12 (FA–SO–LA–FA–RE), đồng thời nó cũng đóng vai trò là đoạn nối câu.
- Ô nhịp 15: Bè trên cùng đã giới thiệu 1 nét nhạc mà nhạc đề sẽ xuất hiện thực sự ngay sau đó ở ô nhịp 16.
Lời bình:
Để viết hòa âm cho một bè trầm có sẵn ở giai đoạn đầu của môn học này thì thường rất đơn giản, nhưng thật không phải dễ ở mức độ sâu hơn. Theo cách này thì nhạc đề chính nằm ở bè thấp nhất, vậy nhạc đề càng khó được nổi bật hơn, nhạc đề càng ít có cơ hội được nâng đỡ nên ta có thể nhận xét ngay: không mấy thích hợp để thực hiện trong thánh ca thánh nhạc. Nói rằng không mấy thích hợp ở đây chỉ là theo nhãn quan của giới bình dân, theo quan điểm của nghệ thuật thì giải pháp nào cũng tốt đẹp nếu người nghệ sĩ biết khéo léo vận dụng các qui tắc khách quan của nghệ thuật, rồi ca đoàn và dàn nhạc phụ họa được vị chỉ huy có hiểu biết và kinh nghiệm đứng ra hướng dẫn điều khiển thì chắc chắn vẫn tốt đẹp và xứng đáng như thường. Ta có thể dễ thấy rất nhiều bài thánh ca, trong các version của nó, bè trầm là nhạc đề chính như bài “Away in a manger”, “Adeste Fideles” … Mà hai ban hợp xướng Mormon Tabernacle và Mendalion đã từng trình bày… Hoặc hơn nữa, một số tác phẩm thánh ca VN mà phần hòa âm (nguyên chỉ nói đến 4 bè hợp xướng) đã để dòng ca chính làm bè trầm mà chúng ta vẫn dễ dàng chấp nhận như nhiều ca đoàn đã thể hiện, mặc dù ở tầm tiếng thấp nhưng nhạc đề chính vẫn được nổi bật, như: “Chiên vượt qua”, của Cát Minh – hòa âm TL, “Tâm tình hiến dâng” của Oanh Sông Lam – hòa âm: CH.
(Lời Chân Thành 3)
- BẢN ĐỆM ĐÀN BIỆT LẬP
- BĐĐ được viết bằng những HT rập dấu cùng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ:
- Đoạn nhạc mở đầu được lấy từ các HT móc nối trong đoạn cuối của Điệp khúc (ô nhịp 8-9-10).
- Cơ cấu hoà âm được lấy từ BĐĐ kiểu 1.
- Dấu RÊ ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 là dấu trì hoãn (retard) sẽ được giải nghịch sang DO, nhưng không sang ngay mà lượn xuống nốt TI trước, có ý tạo ra nét nhạc TI–DO–RE–MIlà nét đảo lộn của ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó ở ô nhịp 8 (RE–DO–TI–LA) đồng thời làm nhiệm vụ nối câu.
- Bè trên của BĐĐ ở ô nhịp 8-9-10 (FA–MI–RE–DO#) như giới thiệu trước ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó.
- Ở ô nhịp 9, BĐĐ có bè trong chuyển hành cũng là để giới thiệu nguyên vẹn hình ảnh của nhạc đề (LA–SO–FA–MI) sẽ được trình diện ngay sau đó.
- Cũng trong 3 ô nhịp 8,9,10bè trầm chuyển hành cũng lấy nguyên ý cuối của nhạc đề sau đó nhưng đã được đảo lộn và nới rộng (RE–MI–FA–SO–LA). Nét nhạc này cũng lập lại ở ô nhịp 11 (MI–FA–FA–SO).
- Cũng bằng cách ghi động, các bè của BĐĐ trong phần phiên khúc thay phiên nhau, làm cho đầy đặn bằng những HT rập dấu, bằng một chút phỏng diễn, bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ để bổ túc vào những chỗ trống của nhạc đề và để đối đáp với nhạc đề.
- Phần kết thúc cũng giống như những điều đã mô tả ở 1.c.
Lời bình:
Nói chung BĐĐ biệt lập là BĐĐ mà trong đó không có sự hiện diện của nhạc đề chính, rồi chính BĐĐ cũng có thể trở thành một tác phẩm riêng biệt để độc tấu mà không cần sự xuất hiện của nhạc đề. Thông thường thì BĐĐ biệt lập cho người nghe một hiệu ứng rất tráng lệ huy hoàng, các BĐĐ biệt lập mà không theo công thức nhịp điệu thường đòi hỏi ca đoàn và người chơi đàn phải có một trình độ nhất định, theo cách này thì chức năng của BĐĐ như để trải thảm, nhạc đề chính như những con ong con bướm bay lượn lên trên nó. Như vậy, cách này đòi hỏi người viết BĐĐ phải có kiến thức và người chơi đàn cũng như ca đoàn phải có trình độ nhất định, cách này rất xứng hợp với phụng vụ vì bản thân nó dễ tạo nên những điều kiện cho dòng ca chính được đánh nổi.
(Lời Chân Thành 4)
- Viết BĐĐ bằng những HT trải dấu và công thức nhịp điệu:
- Đoạn mở đầu được dùng nguyên công thức trải dấu của Bđđ, cuối đoạn mở đầu được dùng các dấu nhạc liền bậc như để lấy đà dẫn vào bài ca một cách tự nhiên (giữa ô nhịp 4).
- Ô nhịp 8 được dùng các dấu nhạc liền bậc làm thành đoạn nối câu.
- Các HT rập dấu ở ô nhịp 13 có ý để lập lại những dấu cuối cùng của nhạc đề (FA-MI-RE).
- Câu tiểu khúc được dùng các HT rập dấu bằng công thức nhịp điệu, nghe có vẻ máy móc tầm thường.
- Ô nhịp 21 và 22 : Công thức nhịp điệu được biến đổi để làm thành đoạn nối câu, để trở về ĐK bằng hình thức trải dấu.
- Phần kết được lấy nguyên vẹn công thức đệm của phần ĐK như để nhắc lại và đóng khung toàn bộ tác phẩm.
Lời bình:
Nhìn kỹ những tác phẩm bậc thầy, ta thấy có muôn vàn kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu, các BĐĐ viết theo kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu thường dễ đàn hơn là các BĐĐ viết theo lối mô phỏng. Kiểu này dễ được chấp nhận trong các ca đoàn mà khả năng còn hạn chế, đặc biệt là những ca đoàn thiếu nhi ở xứ ta. Vì bản thân nó dễ làm cho người hát giữ vững nhịp điệu (tempo) của bài ca, do đó mà các ca viên ca đoàn tự tin hơn khi hát, rồi người chơi đàn cũng dễ luyện tập hơn; Nhưng xem ra, trải dấu kiểu nào cũng mang tính máy móc công thức, mà đã là công thức thì tầm thường nên không phù hợp lắm đối với những bài ca mang tính tôn nghiêm trang trọng, và như vậy càng không thích hợp với việc đệm đàn phụng vụ.
(Lời Chân Thành 5)
- Bằng sự đối chọi nhịp điệu của nhạc đề và bè trên của BĐĐ. Bằng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục:
- Phần đầu gồm 4 ô nhịp, 4 ô nhịp này gần như đã gói trọn các ý chính của nhạc đề trong phần ĐK. Ô nhịp 1 (LA–RE–DO#–RE–MI) là lấy từ nét nhạc của “Lời chân thành dâng tiến”. Ô nhịp 2 (MI–LA–SO–FA#–MI) là lấy từ “Nguyện Chúa Cha nhân từ”. Ô nhịp 3 (LA–SO–FA–MI–RE) và ô nhịp 4 (TI–LA–SO–FA–MI) là lấy từ nét nhạc cuối của phần ĐK “Lễ hy sinh trên bàn thờ”.
- Đồng thời nét nhạc này lại là bè trên của BĐĐ để phụ họa cho vế 1 của phần ĐK (từ ô nhịp 5 đến 8) nhưng có nhịp điệu biệt lập (chuỗi liên 3) và đều đều, gây tương phản với nhịp điệu của đề (hình thức chẵn).
- Ô nhịp 8 là đoạn nối câu (LA–TI–DO#–RE–MI) là sự đảo lộn ý cuối của nhạc đề ĐK (LA–SO–FA–MI–RE) để dẫn vào đầu câu sau một cách tự nhiên, vì nét nhạc này đã được giới thiệu nguyên hình ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 trước đó rồi. Sau đó nó còn được giới thiệu một lần nữa ở bè trầm từ ô nhịp 9 đến 11 cũng bằng hình thức đảo lộn nhưng được nới rộng.
- Như vậy, trong phần ĐK, toàn bộ ý tưởng của BĐĐ luôn được gắn chặt với nhạc đề, tương phản và đối đáp với nhạc đề để cái này đánh nổi cái kia, sự tương phản về nhịp điệu thì ta thấy rõ, còn về nét nhạc chuyển hành lênxuống thì được BĐĐ đối đáp hoặc mô phỏng trên bình diện khác, khi thì chỗ này lúc thì chỗ kia, ví dụ ý nhạc của ô nhịp 9 (LA–RE–DO–TI–LA) được BĐĐ giới thiệu ở ô nhịp 6 (MI–LA–SO–FA#–MI) rồi lại được mô phỏng ngay sau đó từ cuối ô nhịp 10 sang đầu ô nhịp 11 (RE–SO–FA–MI–RE).
- Phần TK được BĐĐ áp dụng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục (Basso continuo) bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ như dấu nối, dấu lượn, dấu nhấn.
- Đoạn kết (từ ô nhịp 23 trở đi) mô phỏng lại ý nhạc của vế 2 phần ĐK nhưng được biến đổi nhịp điệu.
Lời bình:
Một tác phẩm âm nhạc giá trị nào bao giờ cũng tiềm ẩn các yếu tố của sự tương phản, bởi lẽ để thưởng thức được một tác phẩm nghệ thuật thì thông thường tác phẩm ấy phải có tính hấp dẫn, mà tính hấp dẫn được thể hiện nhiều nhất qua sự tương phản. BĐĐ biệt lập được viết theo kiểu mô phỏng nhằm để thực hiện điều đó, nhưng thường thì rất khó viết. Để viết BĐĐ theo cách này thành một tác phẩm có giá trị thì đòi hỏi nhạc sĩ phải có khá nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhất là phải thông thạo về các kỹ thuật của bộ môn đối âm (contra puntum); lại đòi hỏi cả người chơi đàn cũng phải giỏi, hay ít ra cũng phải được rèn luyện công phu để ngón đàn trở nên thông thạo xuôi chảy thì mới có thể ráp nối với ca đoàn; rồi khi ráp chung, ca đoàn và người chỉ huy cũng phải có một trình độ nhất định mới giải quyết được tất cả các vấn đề chi tiết của tác phẩm … nếu thiếu hiểu biết, các BĐĐ loại này rất dễ làm dịp tội cho người chơi đàn, vì nếu họ không được chỉ dẫn cặn kẽ sẽ vướng phải điều tối kị là “khoe tiếng đàn”, làm cho tiếng đàn lấn át tiếng hát thì phản tác dụng rồi, điều đó thật không phù hợp, không đúng tinh thần mà Hội thánh mong muốn.
Như vậy, để có thể thực hiện tác phẩm với BĐĐ loại này, ta thấy có khá nhiều đòi hỏi về trình độ chuyên môn của các thành phần liên quan, không mấy thích hợp cho các ca đoàn bình dân còn có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nếu nơi nào có khả năng thực hiện thì nó rất xứng đáng, vì nó có có khả năng làm tăng thêm vẻ trang trọng, lộng lẫy huy hoàng của khung cảnh lễ nghi phụng vụ.
(Lời Chân Thành 6)
Ta có thể nói tóm tắt rằng, tầm quan trọng của BĐĐ trong việc sáng tác, dù là bài thánh ca lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp, để gọi là mặc áo nên tất cả cần phải được viết hoà âm cho bản đệm đàn, để người đàn có thể nhìn vào đó mà cử lên cùng với tiếng hát của ca đoàn. Đó là việc làm đúng đắn và cần thiết, chứ không phải là ta viết tên hợp âm như Am, Dm bên trên dòng nhạc như nhiều nơi thường làm. Như vậy, để viết một bản đệm đàn thì ngoài việc biết chơi đàn, bó buộc chúng ta phải học hoà âm, học để viết được bản đệm đàn cho đúng các giá trị và quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi, như điều mà Hội thánh mẹ mong muốn chúng ta thực hiện khi nói đến đặc tính hình thức tốt đẹp (bonitas formae) trong Huấn thị Âm nhạc trong Phụng vụ, khoản 4.
Để kết thúc, chúng tôi xin trình bày lại một lần nữa bài LỜI CHÂN THÀNH ở một bình diện Hợp xướng bốn bè dị giọng, kết hợp với Bản đệm đàn biệt lập theo hình thức trải thảm.
Antôn Tiến Linh