2023
Lợi ích của việc xưng tội thường xuyên
“Lợi ích” của việc xưng tội nhẹ đến từ thực tế là chúng ta lãnh nhận bí tích. Sự tha tội xảy ra bởi sức mạnh của bí tích, tức là bởi quyền năng của chính Chúa Giêsu Kitô. Công Đồng Trentô cho biết: “Trong bí tích Hòa Giải, công nghiệp của Đức Kitô chịu chết được áp dụng cho những người đã phạm tội sau khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.” Cũng cần lưu ý rằng không phải do các tội đã phạm mà có sự tác động bí tích, đúng hơn là do sự ghét tội trong chúng ta; chính điều này mà sức mạnh của bí tích xảy ra, và được nâng lên để hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa qua ân sủng.
Vì ở đây chỉ nói đến tội nhẹ, ân sủng được ban bởi việc xưng tội, nên không là vấn đề như trong trường hợp tội trọng được thú nhận, một đời sống ân sủng mới, gọi là “tình trạng ân sủng,” đúng hơn thì đó là sự củng cố và đào sâu đời sống siêu nhiên hiện hữu trong linh hồn và gia tăng tình yêu Thiên Chúa. Trong những trường hợp này, bí tích chủ yếu có tác dụng tích cực: củng cố đời sống siêu nhiên của linh hồn, gia tăng ơn thánh hóa, ban ân sủng thực sự kích thích ý chí của chúng ta đối với việc yêu mến Thiên Chúa và việc ăn năn tội. Những tình cảm yêu mến như vậy có xu hướng xóa các tội nhẹ và loại chúng ra khỏi linh hồn, như ánh sáng xua tan và loại trừ bóng tối.
Giá trị của việc xưng tội nhẹ: Bí tích không chỉ xóa sạch các tội này mà còn xóa những hậu quả xấu của chúng trong tâm hồn một cách trọn vẹn hơn so với trường hợp những tội được tha ngoài việc xưng tội. Vì vậy, ví dụ, khi các tội nhẹ được tha khi xưng tội, phần lớn hình phạt tạm thời do chúng được tha hơn là ngoài việc xưng tội với cùng một cảm xúc đau khổ. Nhưng đặc biệt, bí tích Hòa Giải chữa linh hồn khỏi sự yếu đuối theo sau tội nhẹ, khỏi sự mệt mỏi và lạnh lùng với những điều của Thiên Chúa, khỏi xu hướng hướng về thế gian mà tội nhẹ đem lại; nó giải thoát linh hồn khỏi những xu hướng và bản năng vô định được đánh thức lại và khỏi sự thống trị của sự ham muốn trần tục.
Tất cả những điều đó bởi sức mạnh của bí tích, tức là bởi quyền năng của chính Chúa Kitô. Hơn nữa, việc xưng tội nhẹ đem lại cho linh hồn sự tươi mới nội tại, niềm khát khao mới và sự thúc đẩy để tự nguyện phục vụ Thiên Chúa và hướng tới việc nuôi dưỡng đời sống siêu nhiên: kết quả này thường không được tạo ra khi tội nhẹ được tha ngoài việc xưng tội.
Một mối lợi rất quan trọng của việc xưng tội nhẹ: việc chúng ta xét mình và nhất là việc ăn năn, mục đích hoán cải, và quyết định chuộc tội và đền tội được thực hiện cẩn thận khi chúng ta đi xưng tội hơn là trường hợp tội nhẹ được tha ngoài việc xưng tội, ví dụ, bằng nguyện vọng hoặc thành tín sử dụng nước phép. Chúng ta biết khá rõ cần nỗ lực như thế nào để linh mục ra việc đền tội. Chúng ta phải ý thức và thực hiện tốt việc đền tội.
Thật vậy, đúng là chúng ta nên nhận sự rắc rối này. Vì sự ghét tội trong lòng chúng ta không chỉ đơn thuần là xu hướng tâm lý đối với việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải, đó là những bộ phận cấu thành thiết yếu của bí tích. Những điều đó cần thiết cho sự tồn tại của bí tích, và phương cách hiệu quả của bí tích – của việc gia tăng sự sống thiêng liêng và sự tha tội. Ngoài bí tích Hôn Phối, bí tích Hòa Giải là bí tích riêng tư nhất trong các bí tích. Sự sắp xếp riêng của hối nhân – biểu hiện riêng về nỗi buồn, sự ghét tội, và ước muốn chuộc tội – là điều hoàn toàn cần thiết cho bí tích này.
Hiệu quả bí tích tùy thuộc thái độ riêng của chúng ta đối với tội lỗi chúng ta đã phạm và tùy thuộc việc chúng ta trở về với Đức Kitô và Thiên Chúa. Trong bí tích Hòa Giải, việc sám hối cá nhân của chúng ta được nâng lên, không còn thuần túy cá nhân nữa nhưng được liên kết với sự đau khổ và cái chết của Chúa Kitô, từ đó sức mạnh của bí tích phát xuất. Chúng ta thực sự thấy rõ giá trị và lợi ích to lớn của bí tích Hòa Giải.
Điều mà chúng ta gọi là ân sủng bí tích của bí tích Hòa Giải – ân sủng thuộc về bí tích này, không được ban và cũng không thể ban bởi bí tích nào khác – là ơn thánh hóa với quyền năng và chức năng đặc biệt để khắc phục sự yếu đuối của tâm hồn, sự thiếu thốn nhiệt huyết, lòng can đảm và nghị lực do tội nhẹ, đồng thời củng cố linh hồn và loại bỏ những trở ngại mà sự tác động của ân sủng gặp trong đó.
Một giá trị và lợi thế quan trọng khác của việc xưng tội thường xuyên là các tội nhẹ được thú nhận với linh mục, đại diện Giáo hội, do đó mà như thú nhận với chính Giáo hội và với cộng đồng Kitô hữu.
Người phạm tội nhẹ vẫn là thành viên sống động của Giáo hội. Nhưng vì tội nhẹ, người đó không chỉ xúc phạm đến Thiên Chúa và Đức Kitô, cũng chống lại sự tốt lành của linh hồn; người đó cũng hành động chống lại lợi ích của cộng đồng Kitô giáo là Giáo hội. Tội của họ là vết nhơ và vết nhăn trên áo Hiền Thê của Đức Kitô, (x. Ep 5:27) là chướng ngại ngăn cản tình yêu Thiên Chúa tuôn chảy tới mọi người, bởi Chúa Thánh Thần. (x. Rm 5:5)
Tội nhẹ là làm điều sai trái đối với cộng đồng Kitô giáo và là sự thất bại trong đức ái đối với Giáo hội, nguồn sống và nguồn cứu rỗi đối với Kitô hữu. Vì vậy, không có cách nào tốt hơn là xưng tội với người đại diện của Giáo hội, để được tha thứ, được chuộc tội bằng việc đền tội.
LM. BENEDICT BAUR, O.S.B. (Dòng Biển Đức)
2023
Hồ nước Bếtsaiđa trong Kinh thánh, huyền thoại hay có thực?
![]() |
Pintura del estanque de Betesda, por Robert Bateman (1877). Durante siglos, se creyó que el estanque de Betesda era un lugar ficticio. |
2023
Đừng xét đoán
27.3 Thứ Hai Thứ Hai trong tuần thứ Năm Mùa Chay
St 13:1-9,15-17,19-30,33-62; Tv 23:1-3,3-4,5,6; Ga 8:1-11; Ga 8:12-20; Ga 13:41-62
Đừng xét đoán
Tin Mừng hôm nay diễn ra trong khung cảnh Lễ Lều. Khi nói đến Lễ Lều, là nhắc lại cho dân về hành trình trong sa mạc suốt bốn mươi năm trường. Đây cũng gọi là Lễ Tạ Ơn sau mùa gặt. Lễ này được dành cho mọi người không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị trong xã hội. Vì thế, không ai bị loại trừ, cho nên người ta gọi lễ này là lễ của Vui Mừng.
Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt tám ngày sống ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xảy ra câu chuyện trong bài Tin mừng.
Vì là lễ hội vui mừng nhất của người Dothái, nên người ta hứng khởi và vui tươi khi về dự lễ. Vì vậy, nó cũng cuốn hút lượng người có lẽ là đông nhất trong các dịp lễ của năm. Đây cũng là cơ hội để họ hẹn hò, tâm sự, chia sẻ….
Nhân cơ hội này, các Kinh Sư và Pharisêu cố tìm ra cho được một lời tố cáo Đức Giêsu nhằm hạ uy tín của Ngài, bởi vì đây là dịp đông người, hơn nữa, nếu thắng thế, họ có đủ lý do thuận tiện để giết Ngài.
Và cơ hội ngàn năm một thủa đã đến khi Kinh Sư và Pharisêu bắt được quả tang một người phụ nữ đang ngoại tình, và họ dẫn nàng đến với Đức Giêsu.
Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
Họ dẫn đến để xin Ngài xét xử. Họ nói: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môisê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.
Tuy nhiên, vì biết rõ lòng họ độc, nên Đức Giêsu phản ứng bằng việc bình tĩnh lấy tay viết trên đất! Hành động này của Đức Giêsu khiến cho họ sinh thêm bực bội và nóng lòng sốt ruột.
Họ sốt ruột là vì cái bẫy đã giăng, chỉ chờ Đức Giêsu mắc phải là ra tay đối với Ngài! Thật thế, nếu Đức Giêsu tuyên bố tha thì Ngài rơi vào bẫy chống luật Môsê, còn nếu tuyên án tử cho chị phụ nữ thì sẽ bị mất uy tín và đi ngược lại đường lối của Thiên Chúa cũng như những lời rao giảng của Ngài.
Sự thinh lặng và viết trên đất là cách thế Đức Giêsu thức tỉnh lương tâm những người Pharisêu và Kinh sư khi chuyển phiên tòa dành cho chị phụ nữ, rồi đến Đức Giêsu, giờ đây sang phiên tòa lương tâm của chính họ khi nói: “Ai trong các ông không có tội, hãy ném đá chị này trước”. Bị bại lộ ý đồ và xấu hổ vì thấy mình tội lỗi, nên họ đã dần dần bỏ đi!
Ðối diện với Chúa Giêsu là một phụ nữ tuyệt vọng chờ chết. Tội chị rành rành ra đấy nên đối với con người thì là vô phương cứu chữa, nhưng may mắn thay cho chị, trước mặt chị Ðấng được mệnh danh là Chiên Thiên Chúa, là Ðấng xóa bỏ tội trần gian. Người xót thương số phận bi đát của chị. Người muốn cứu chị khỏi án chết trước mắt và nhất là Người muốn cứu chị khỏi án chết muôn đời trong thế giới mai sau. Người sẽ cứu chị, đồng thời Người cũng sẽ cho những kẻ muốn ám hại Người một cơ hội nhìn lại bản thân họ: “Chị ta thật xấu đấy, nhưng không chừng các ông lại còn xấu xa hơn chị bội phần. Tội của chị thì ai cũng thấy vì chị ta không khéo che đậy; còn tội các ông thì thiên hạ ít người nhận ra bởi các ông khéo tô son trét phấn cho chúng, và đã đến lúc các ông phải nhìn lại mình rồi đấy”. Chúa Giêsu im lặng suy nghĩ. Người cúi xuống, lấy tay viết lên trên mặt đất để khỏi đưa ra lời phán quyết. Người không ngây thơ rơi vào bẫy của các kinh sư và người pharisiêu như họ tưởng.
Chuyện đơn giản, hóa ra chẳng đơn giản tí nào. Họ nóng lòng thúc giục Chúa Giêsu lên tiếng: “Ðược, nếu các ông muốn tôi nói thì xin nghe đây; ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Các kinh sư và người pharisiêu không ngờ cục diện lại thay đổi đột ngột đến thế, từ chỗ nắm dao đằng cán, bây giờ họ lại phải nắm lấy lưỡi dao do chính mình đưa ra, không khéo lại đứt tay chảy máu, thế là hỏng bét. Họ lần lượt bỏ đi, không kèn không trống, chỉ còn lại hai người trên hiện trường: Chúa Giêsu và người phụ nữ, Ðấng có quyền tha tội và người đã lỡ lầm phạm lỗi. Chúa Giêsu nhìn lên, người phụ nữ hồi hộp chờ đợi, nhưng không có lời kết án nào cả, mà chỉ có một câu nói dịu dàng: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” và một câu nói nhẹ nhàng khác tiếp theo: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đứng phạm tội nữa.”
Hôm nay, Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa, vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án, còn chúng ta là những người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân.
Còn về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hoà với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
2023
Thứ hai tuần V mùa chay
Thứ hai tuần V mùa chay
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, xin thương xót tôi, vì người ta chà đạp tôi, suốt ngày người ta đấu tranh và áp bức tôi.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhờ tình thương tuyệt vời của Chúa, chúng con được hưởng muôn phúc lộc chan hoà, xin giúp chúng con biết từ bỏ tội lỗi và trở nên người mới, để được vào quê trời hưởng phúc vinh quang. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)
“Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi”.
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: “Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng”. Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: “Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm”.
Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: “Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn”.
Bà Susanna thở dài và nói: “Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!” Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: “Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim”. Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: “Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng”. Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con”.
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: “Còn tôi, tôi không vấy máu bà này”. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: “Lời mi nói có ý nghĩa gì?” Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: “Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà”.
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: “Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão”. Ðaniel liền nói với họ: “Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho”.
Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: “Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: “Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính”. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây chò”. Ðaniel liền nói: “Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông”. Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: “Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây sồi”. Ðaniel liền nói: “Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông”.
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài ngắn này: Ðn 13, 41c-62
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, dân chúng lên án tử hình bà Susanna. Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con”.
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: “Còn tôi, tôi không vấy máu bà này”. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: “Lời mi nói có ý nghĩa gì?” Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: “Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà”.
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: “Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão”. Ðaniel liền nói với họ: “Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho”.
Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: “Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm. Ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: “Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính”. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây chò”. Ðaniel liền nói: “Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông”. Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: “Hỡi dòng giống Canaan, chứ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây sồi”. Ðaniel liền nói: “Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông”.
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống; họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con
Xướng: Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Xướng: Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. – Ðáp.
Xướng: Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
Xướng: Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 8, 1-11
“Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Ðó là lời Chúa.
(Trong năm C, khi bài Tin Mừng trên đã được đọc ở Chúa Nhật, thì hôm nay đọc bài Tin Mừng dưới đây:)
Phúc Âm: Ga 8, 12-20
“Ta là sự sáng thế gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống”.
Những người biệt phái nói: “Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực”.
Chúa Giêsu trả lời: “Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa”.
Họ nói: “Cha của ông đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta”.
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chúng con sắp cử hành mầu nhiệm lễ tế; xin cho chúng con được hân hoan dâng lên Chúa một tâm hồn thanh sạch, là kết quả của việc chúng con hy sinh hãm mình. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì nhờ cuộc khổ nạn sinh ơn cứu độ của Con Chúa, toàn thế giới đã nhận biết phải tuyên xưng uy linh Chúa, và nhờ quyền lực khôn tả của thập giá, thế gian đã bị xét xử, và quyền năng của Ðấng chịu đóng đinh được toả sáng.
Vì thế lạy Chúa, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con tuyên xưng Chúa và hân hoan tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Chúa phán: Khi nào ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.
Ca hiệp lễ
Hỡi thiếu phụ, không ai kết án chị ư? Thưa thày không có ai. Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Từ nay chị đừng phạm tội nữa.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã dùng bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng chúng con; ước chi bí tích này giúp chúng con chừa mọi tính hư nết xấu và ngày ngày theo chân Ðức Ki-tô mà hăm hở tiến về nhà Chúa. Chúng con cầu xin…