2020
Người có giáo dục
Sau khi thảo luận về tri thức và kỹ năng, một sinh viên hỏi tôi: “Người sở hữu bằng đại học có được coi là người có giáo dục không?”.
Tôi nói với cả lớp rằng đây là chủ đề thú vị. Chúng ta hãy tranh luận theo câu hỏi: “Người có bằng đại học liệu có thể bị coi là vô giáo dục không?”.
.
Nếu nhìn lại quá khứ, ta thấy rằng yếu tố chính trong việc thiết lập ra xã hội ngày nay đã dựa trên nền tảng của hệ thống giáo dục. Trước thế kỷ 17, giáo dục bị giới hạn cho những người ưu tú – tu sĩ và người trong hoàng tộc. Số đông còn lại phần lớn là “vô giáo dục” theo đúng nghĩa đen.
Từ cuối thế kỷ 17, có một phong trào trong các trí thức đòi hỏi giáo dục tốt hơn cho mọi người. Các sử gia gọi là “Kỷ nguyên Khai sáng” vì cách nhìn mới dùng khoa học và triết học để thách thức cách nghĩ truyền thống rằng “chỉ tu sĩ và người trong hoàng tộc được giáo dục”. Hai triết gia lớn John Locke và Jean Jacques Rousseau đã viết các bài báo đòi hỏi rằng giáo dục phải được dạy cho mọi người về cách đọc và viết, để họ có thể nghĩ cho bản thân, phản biện lại “thiên kiến tôn giáo” được những người ưu tú đặt ra.
Phong trào này lan rộng nhanh chóng khắp châu Âu khi nhiều người bắt đầu nhận ra quyền lợi của họ đối với giáo dục và hoài nghi cách nghĩ truyền thống. Trước đó, mọi trường học đều bị kiểm soát và vận hành bởi các tu sĩ, nhưng nhiều trí thức đã mở trường riêng của họ để lan toả niềm tin rằng hệ thống giáo dục mới – tập trung vào khoa học và triết học – có thể giúp hiện đại hoá chuẩn sống cho mọi người. Rồi nhiều người hơn có thể đọc, nhiều sách hơn được in ra. Và nhiều tiểu thuyết văn chương, thơ ca được tạo ra. Chúng làm nảy sinh thời đại mới có tên “Thời đại Lãng mạn.”
Sau thảo luận ngắn giữa các sinh viên, một người nói: “Tất nhiên những người có bằng đại học nhưng cư xử như ai đó không có giáo dục có thể bị gọi là ‘vô giáo dục’”. Tôi hỏi: “Đó là tất cả sao?”. Sinh viên khác đáp: “Đôi khi mọi người lẫn lộn có giáo dục với giáo dục ở nhà trường cho nên họ liên hệ những người có bằng cấp cao là người có giáo dục”. Sinh viên khác nói thêm: “Có người có bằng cấp cao nhưng vẫn không biết cái gì. Họ đỗ các kỳ thi, có được bằng nhưng không có kỹ năng, như thầy đã dạy chúng em về khác biệt giữa tri thức và kỹ năng”.
Tôi giải thích: “Mặc dầu các em đã biết về tri thức và kỹ năng. Tuy nhiên, ‘người có giáo dục’ là nhiều hơn việc có tri thức và kỹ năng. Theo định nghĩa, giáo dục là quá trình khơi gợi tiềm năng của một người, làm nảy sinh trong anh hay cô ta hiểu biết về tiềm năng của mình (tức là biết bản thân họ) và căn cứ trên điều đó mà hành động một cách có trách nhiệm. Điều đó nghĩa là họ chịu trách nhiệm cho bất kỳ cái gì họ làm, với gia đình, xã hội và đất nước của họ. Người có giáo dục là người “biết” và “hành động” tương ứng với sự biết đó”.
Vấn đề là qua thời gian, hệ thống giáo dục đã được “chuẩn hoá” dựa trên tri thức hàn lâm nào đó, nhưng ít hướng về tiềm năng làm người tốt. Học sinh nếu học tri thức nhưng không “hành động”, họ không thể là người có giáo dục được. Trong hệ thống giáo dục nào đó, bằng cấp dựa trên việc đỗ những kỳ thi. Nhưng nhiều kỳ thi chỉ là “việc ợ ra” điều họ ghi nhớ cho nên những người có trí nhớ tốt có thể thu được bằng cấp. Ta đã thấy những người tốt nghiệp đại học với đủ loại lý thuyết nhưng không thể làm được bất kỳ cái gì. Và vì mọi người được đánh giá phần lớn theo bằng cấp, một số học sinh chỉ tập trung vào việc giành giật chúng bằng bất kỳ phương tiện nào, kể cả gian lận. Chừng nào họ chưa hiểu người có giáo dục là gì, sẽ khó thay đổi thái độ của họ nhắm tới bằng cấp.
Ngày nay, nhiều sinh viên vào trường mà không có định hướng và mục đích. Một số người chỉ muốn qua được các bài kiểm tra và có được tấm bằng. Một số người thậm chí còn tin rằng bố mẹ sẽ chăm nom cho họ sau khi lấy được bằng đại học.
Hai mươi lăm năm trước, khi bắt đầu đi dạy, tôi đã tin rằng phần lớn sinh viên đều biết chủ đích giáo dục của họ và có mục đích nghề nghiệp. Tôi đã sai. Vì nhiều người đã không có điều đó nên tôi phải dành thời gian để thảo luận với họ về chủ đích của giáo dục đại học. Tôi bắt đầu bằng việc yêu cầu sinh viên viết một bài luận ngắn giải thích tại sao họ vào đại học, họ muốn làm gì. Sau khi xem các bài luận này, tôi bắt đầu thảo luận với họ về kế hoạch nghề nghiệp.
Tôi giải thích rằng, giáo dục không phải là về việc đi tới lớp, đọc sách, ghi nhớ sự kiện, đỗ kỳ thi và có việc làm, mà còn là học về thế giới xung quanh. Các em phải biết cái gì đang xảy ra trong ngành, trong xã hội của các em rồi xác định vai trò của mình ở đó. Hãy tự hỏi bản thân mình sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp cũng như trách nhiệm của mình với chính bản thân, gia đình, xã hội.
Là sinh viên, các em tới trường để học cái gì đó hữu dụng cho cuộc đời các em, không phải chỉ là thi đỗ và thu được mảnh giấy có tên là “bằng cấp”. Việc “có giáo dục” sẽ chuẩn bị cho các em dẫn dắt cuộc sống hữu ích, trở thành công dân tốt cho đất nước các em, và là người tốt hơn. Để làm điều đó, em cần lập kế hoạch nghề nghiệp sớm nhất có thể, đặt mục đích giáo dục mà em có thể đạt tới. Một số sinh viên có thể nghĩ “sao phải vội?”. Nhưng không có mục đích giáo dục, làm sao em biết đích đến của đời mình? Nếu em du hành mà không có đích đến, bất kì cái gì cũng có thể là đích. Và em sẽ phạm nhiều sai lầm, sẽ nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, hay học một lớp ở đây và một lớp ở kia mà không có chiều hướng nào. Đó là lý do tại sao chúng ta có nhiều người tốt nghiệp đại học nhưng thất nghiệp.
Trong quá khứ, thầy cô giáo là “người có quyền” và “vâng lời” là qui tắc. Ngày nay, thầy cô giáo không còn là người có quyền mà chỉ là ai đó hỗ trợ cho học sinh. Ý niệm rằng thầy cô là “người trao tri thức” bằng việc đọc bài giảng là lỗi thời. Thầy giáo ngày nay phải được chuẩn bị để chấp nhận đa vai trò trong lớp học, gồm: thầy giáo, người tạo điều kiện, người hướng dẫn, người tư vấn, người cố vấn và thầy kèm.
Là thầy cô, ta có thể trải qua những ngày mà học sinh không như ta kỳ vọng. Vậy, nếu chúng ta không thích cái gì đó thì thay đổi nó đi, mang ý tưởng mới và đam mê vào lớp học để giúp học sinh học tốt hơn. Khi có nhiều ngày học sinh chú ý bài học, nêu ra nhiều câu hỏi hơn trước đây tức là việc học có nghĩa đang xảy ra. Việc học không bao giờ nên dừng lại. Cho dù chúng ta đã làm tốt, vẫn có nhiều điều cần làm.
Việc dạy luôn là thách thức vì giáo viên phải giải quyết nhiều vấn đề, từ chương trình đào tạo nặng nề mà cấp quản lý chỉ đạo họ phải làm cho tới thời gian được yêu cầu hoàn tất chấm bài. Nhiều giáo viên còn cảm thấy không được xã hội, phụ huynh và học sinh ca ngợi. Một số thầy cô chán nản và băn khoăn liệu họ có quyết định đúng khi chọn nghề không.
Tuy nhiên, tôi tin khi đã chọn nghề dạy học, tất cả chúng ta đều được dẫn đường bởi mong muốn phát triển thế hệ kế tiếp tốt hơn cho đất nước. Chúng ta biết rằng tương lai và việc bảo vệ đất nước của mình tuỳ thuộc vào việc thế hệ tiếp theo được giáo dục như thế nào. Phần lớn chúng ta thực ra đã không coi giáo dục học sinh như một “việc làm” mà như một “sứ mệnh”. Và nếu ai đó nói gì tiêu cực về nghề giáo, tôi thường trả lời: “Nếu bạn có thể đọc và viết, tốt hơn bạn nên cám ơn các thầy cô giáo. Không có họ, bạn chỉ là người dốt nát”.
2020
Văn hoá mùa chay giữa cơn đại dịch
Chưa có khi nào Giáo Hội Công Giáo khắp thế giới phải trải qua một Mùa Chay đặc biệt như năm nay. Trước sự bùng phát và diễn tiến bất thường của cơn đại dịch virus Vũ Hán, nhịp sinh hoạt của thế giới và của cả Giáo Hội cũng bị đảo lộn. Giáo Hội nhiều nơi đã phải tuyên bố đình chỉ mọi Thánh Lễ vì lý do an toàn và sức khoẻ cộng đồng. Thế là rất nhiều tín hữu Công Giáo trong mùa Chay này không chỉ phải giữ chay trong việc ăn uống, mà còn phải “chay” cả Thánh Lễ, “chay” cả những cuộc tĩnh tâm và những buổi hội họp đông người.
Dưới ánh sáng của biến cố đại dịch mà cả nhân loại đang phải trải qua, chúng ta cùng đọc lại ba lời mời gọi chính yếu của Mùa Chay là ăn chay, làm việc bác ái, và cầu nguyện… Những lời khuyên này có vẻ đi ngược lại với xu hướng hiện đại và những ước muốn của lòng người. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, cần suy niệm để thấy giá trị của những lời mời gọi ấy và tầm quan trọng của việc hình thành những nét văn hoá mới cho con người.
Ăn chay – hãm mình
Chay à? Nghe là đã thấy có vẻ nhạt nhạt rồi đấy! Có ai mà thích nhạt đâu! Phải có gì đó mằn mặn thì mới hấp dẫn, mới ngon lành, mới có vị chứ, phải không? Chả thế mà các MC nổi tiếng khi dẫn chương trình trước đám đông khán giả cứ phải xen vào đó những câu chuyện có cả “chay” cả “mặn” thì mới dễ hấp dẫn người nghe. Cũng vậy, trong nhiều gameshows ngày nay, các vị khách mời phải biết nói chuyện đủ mặn thì mới được gọi là những “vựa muối”, “siêu đáng yêu”, “siêu duyên dáng”… Chừng như con người càng ngày càng thích “mặn”, nên dễ trở nên xa lạ với những lời kêu gọi của chay tịnh.
Với người Công Giáo, “ăn chay” không chỉ đơn thuần được hiểu theo nghĩa đen, kiểu như được ăn món gì và không được ăn món gì, ngày nào thì phải ăn chay và ngày nào thì được ăn mặn… Ăn uống chỉ là một trong những cách biểu hiện bề ngoài của việc thực hành khổ chế và hãm mình. Tại sao phải hãm mình và khổ chế? Xin thưa: để giúp con người lớn lên trong khả năng làm chủ bản thân và làm chủ chính mình ngang qua việc làm chủ được những ham muốn, điều tiết được những đòi hỏi, hãm dẹp được những cái bất trị trong chính mình. Mùa Chay giúp con người là “người” hơn là “con”, nhờ đó có có thể ngày một nên thánh hơn nhờ biết hướng đời mình trên nẻo đường lành thánh.
Như thế, việc ăn chay của người Công Giáo không chỉ xoay quanh chuyện ăn uống, mà còn liên quan đến cách nói năng, cách suy nghĩ, cách sống. Mùa Chay giữa cơn đại dịch là cơn hội tốt để nhắc nhở mọi người trở về, tập lại và điều chỉnh lại từ những thói quen nhỏ nhặt của đời sống, nhất là thói quen nói năng. Ai cũng biết rằng nguồn lây nhiễm chính của Virus Vũ Hán là các hạt nước bọt mang virus. Những hạt nước bọt này văng ra từ những người hay nói. Càng có thói quen nói nhiều, nguy cơ lan truyền virus càng lớn. Như thế, virus Vũ Hán là một lời nhắc nhở và cảnh cáo cho những người mang nơi mình nhiều thói quen xấu trong việc ăn nói như ngồi lê đôi mách, thích chém gió, thích nổ, thích cà kê cà khịa, thích hội họp ồn ào, v.v… Mùa Chay năm nay mời gọi mọi người rút lui vào khoảng thinh lặng nhiều hơn. Thinh lặng đúng nghĩa là vàng. Sự thinh lặng đáng giá bằng cả sinh mạng của con người. Đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên, bớt giao du tiếp xúc bên ngoài khi không cần thiết, xây dựng văn hoá lịch sự và tôn trọng nhau ở những chốn đông người, bỏ qua những cuộc cãi vả và tranh luận không cần thiết, v.v… ấy là những nét đẹp cần có trong văn hoá Mùa Chay.
Làm việc bác ái và liên đới
Mùa Chay kêu gọi con người trở về, không chỉ theo nghĩa biết ngước nhìn lên Thiên Chúa, nhưng còn theo nghĩa biết nhìn sang chung quanh những người anh chị em của mình, nhất là những người nghèo khổ khốn khó. Mùa Chay dạy con người về đức bác ái ngang qua việc sống tình liên đới và trách nhiệm.
Thánh Phaolo từng suy niệm về sự liên đới thế này: “Vì một người mà tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian, và tội lỗi gây nên sự chết. Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người bởi vì một người đã phạm tội” (Rm 5,12). Đã từng có không ít người phản đối lối suy niệm ấy và tự hỏi: tại sao một người gây hoạ mà nhiều người phải gánh cùng? Tại sao một người làm sai mà nhiều người phải chịu tội?
Cơn đại dịch nổ ra, lây lan từ người này sang người khác, chỉ ra cho thấy quả thật con người liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau nhiều hơn những gì người ta từng tưởng nghĩ. Trong những ngày qua, đã có nhiều chuyện dở khóc dở cười đến từ những người thiếu trách nhiệm và không có ý thức gì về sự liên đới giữa người với người. Vì sợ, có những người tìm cách trốn cách ly. Họ sợ cho mình, nhưng lại không nghĩ xa hơn được rằng trốn tránh và chỉ nghĩ cho riêng mình chính là nguyên nhân làm cho bệnh dịch lây lan nhanh chóng. Khi ích kỷ chỉ biết sống cho riêng mình, người ta có nguy cơ trở thành nguồn gây hoạ cho vô số người khác, khởi đầu từ những người thân yêu nhất của mình. Một người sai, nhưng nhiều người phải gánh hậu quả là thế!
Mùa Chay giữa cơn đại dịch là cơ hội để mỗi người Công Giáo sống đức bác ái Kitô giáo, theo nghĩa không chỉ nghĩ cho riêng mình, nhưng còn biết nghĩ đến những người khác nữa. Ai cũng sợ bị nhiễm bệnh, nhưng không vì chỉ sợ cho mình mà quên mất nghĩ đến người khác. Văn hoá Mùa Chay dạy chúng ta không dành giật để tích trữ cho riêng mình, khi sự tích trữ của mình là nguyên nhân làm cho những người bên cạnh mình trở nên thiếu thốn. Văn hoá Mùa Chay dạy chúng ta sống như một người có trách nhiệm, không giấu diếm khi thấy mình có vấn đề. Bởi vì cách thế tốt nhất để vượt qua là chấp nhận để cho mình được chăm sóc, để cho mình không trở thành nguồn cơn mang lại bệnh tật và đau khổ cho người khác.
Cầu nguyện
Quan trọng hơn hết trong văn hoá Mùa Chay là tinh thần cầu nguyện. Cầu nguyện là trở về đặt mình trước mặt Thiên Chúa. Ấy là cơ hội cho con người nhìn lại chính mình. Đứng trước cơn dịch, ai cũng hoang mang và lo sợ. Thay vì chỉ là một phản ứng chóng qua, nỗi hoang mang và lo sợ ấy nên là lời cảnh tỉnh giúp con người suy nghiệm và phản tỉnh về chính thân phận của mình. Nhìn lại để thấy mình là ai trước một cơn đại dịch. Nhìn lại để thấy giá trị mỏng manh của kiếp người. Nhìn lại để sống và chiêm nghiệm lời mời gọi của Mùa Chay: Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro!
Cơn đại dịch làm cho mọi thứ bị đình trệ, mọi nhịp chuyển động đều bị ngừng lại. Nhiều cửa khẩu đã bị đóng chặt. Nhiều quốc gia đã tự cô lập để tập trung xử lý vấn đề của chính mình. Như có một nút chặn được đặt vào giữa nhịp sống quay cuồng vội vã của cả thế giới hiện đại… Chắc chắn việc đóng cửa như thế sẽ mang đến nhiều thiệt thòi và bất tiện cho mọi người. Nhưng chắc chắn sự chậm lại của nhịp sống cũng là cơ hội để mọi người quay trở về trong thinh lặng nội tâm và kín múc sức mạnh từ niềm tin của mình. Cần tĩnh và lặng nhiều hơn để có thể nghe được tiếng Chúa. Cần bình an và phó thác nhiều hơn để có thể học được điều Chúa muốn dạy dỗ. Thay vì hoang mang và phản ứng theo số đông, mỗi người Công Giáo đều được mời gọi trở nên một người chứng về lòng tin, về sự bình an nội tâm, về mẫu gương sống tốt và sống đẹp.
Khi có khả năng hướng về Thiên Chúa, con người cũng sẽ có khả năng hướng về nhau nhiều hơn. Rồi cơn đại dịch sẽ qua đi. Còn đọng lại sẽ là những thói quen tốt và những nét văn hoá đẹp được hình thành ngang qua biến cố này. Những lo lắng cố công chiến đấu với bệnh dịch sẽ không ra vô ích, nếu chúng ta học được nhiều bài học để lớn lên trong lối sống văn minh và trưởng thành hơn trong đời sống đức tin Kitô giáo của mình. Gia An, SJ – CTV Vatican News
2020
Qua Cơn Bệnh Này, Con Thiên Chúa Được Tôn Vinh
Qua Cơn Bệnh Này, Con Thiên Chúa Được Tôn Vinh
Khoảnh khắc lịch sử của Giáo hội Công giáo, lúc 12 giờ trưa Chúa nhật, ngày 15/3/2020, lần đầu tiên trong lịch sử, hình ảnh một vị Giáo hoàng đơn côi đứng bên cửa sổ, âm thầm đọc kinh Truyền tin và giơ tay ban phép lành trên quảng trường không có một bóng người trong một khoảng không gian im lặng đến rợn người, khiến con tim của người Công giáo trên thế giới đau nhói…
Vì đại dịch Coronavirus đang tàn phá thế giới, gieo nỗi kinh hoàng cho nhân loại, gây nên cuộc khủng hoảng cho các quốc gia, nên hôm thứ sáu 27/3 vừa qua, Đức Thánh Cha đã quyết định tổ chức giờ cầu nguyện và ban phép lành Urbi et Orbi “ngoại thường” cho các tín hữu trên thế giới.
Chủ sự buổi cầu nguyện lịch sử trong bối chiều tà tại quảng trường trống vắng, lạnh lẽo và ảm đạm, Ngài nguyện xin với Đức Kitô, Đấng chịu treo trên cây Thánh giá nhiệm mầu “Il Crocifisso Miracoloso” ban bình an và sức khỏe cho thân xác của các bịnh nhân, các y bác sỹ và an ủi trái tim mỗi người trong nhân loại đang khốn khổ vì đại dịch này.
Cả thế giới Công giáo và những người thiện tâm háo hức đón chờ. Mọi người bỗng nhiên thấy mình xích lại gần nhau, xung quanh vị Cha chung. Không còn những khoảng cách về địa dư, về không gian, quốc gia và dân tộc.
Cái khoảnh khắc linh thiêng ấy từng giây, từng phút cuốn hút từng người vào “cảnh vực thần linh” (nói theo nhãn quan của cha Pierre Teilhard de Chardin), vào mầu nhiệm hiệp thông Hội thánh – Thân Thể Chúa Kitô, vượt qua những khác biệt để nên một với nhau trong tình thương cứu chuộc của Chúa Kitô, hiện thể trong từng lời nói và cử chỉ của vị Cha chung trong buổi cầu nguyện và phép lành Urbi et Orbi.
Điều này đã khiến lịch sử phải ghi tiếp “những việc lạ Chúa làm để giúp tôi” (x.TV9,2). Có lẽ Chúa Kitô đã an bài để hôm qua, ngày 29/3/2020, Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Chay, trong buổi đọc kinh truyền tin cũng từ cửa sổ mở ra trước quảng trường, vị Cha chung đã mạnh mẽ kêu gọi: “Hãy lăn tảng đá trong trái tim và để Lời Chúa đem sự sống vào nơi chết chóc”; tảng đá coronavirus đang đè nặng tâm hồn ngài, các tín hữu và cả nhân loại này.
Trong một thế giới đang bị sự chết đe doạ và khống chế, Lời Chúa và đức tin giúp chúng ta có thể chạm tới thực tại mầu nhiệm Thiên Chúa là sự sống và là Đấng ban sự sống, nhưng Người vẫn muốn ôm lấy bi kịch của cái chết qua những vết thương của Con của Người trong cuộc khổ nạn.
Đức Giêsu đã có thể giúp cho người bạn Lazarô khỏi chết, nhưng Người muốn an ủi và chia sẻ nỗi đau khổ của những ai khi đang đau khổ gần như tuyệt vọng khi mất đi những người thân yêu, vì “nếu Thầy ở đây, thì…!.
Người ta muốn che đậy thứ mùi của sự chết, là những sự khủng hoảng của lòng tin của các thứ dịch: dịch sợ hãi, dịch đóng cửa nhà thờ, dịch đình chỉ thánh lễ đi theo dịch coronavirus”
Giữa đau buồn, giữa sự chết chóc, hãy vững tin, ngay cả khi cái chết dường như đã chiến thắng “hãy lăn tảng đá khỏi trái tim! Hãy để Lời Chúa đem sự sống vào nơi chết chóc: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Ga 11,4)
Đức Thánh Cha nói: “Vì thế, chúng ta được mời gọi lăn tảng đá che đậy tất cả những thứ có mùi của sự chết: sống đức tin cách giả hình là cái chết; chỉ trích phá hoại người khác là cái chết; vu khống là cái chết; loại bỏ người nghèo là cái chết. Chúa yêu cầu chúng ta loại bỏ những viên đá này khỏi trái tim mình, và Người sẽ làm cho sự sống đâm hoa kết trái nơi chúng ta.
Vì chỉ có Đấng làm cho Lazarô sống lại, người Kitô hữu tìm thấy sự sống. Người hằng sống, và những ai đón nhận Người, những ai vâng lời Người, những ai bước theo Người sẽ bước vào tương quan với sự sống. Không có Chúa Kitô, hoặc những gì ngoài Chúa Kitô, sẽ không chỉ không có sự hiện diện của sự sống, mà thậm chí, còn rơi vào cái chết.”
Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta trở nên những người biết trắc ẩn như Chúa Giêsu, Đấng đã mang lấy nơi mình mọi nỗi đau của nhân loại. Mỗi Kitô hữu hãy gần gũi với những ai đang gặp thử thách, hãy phản ảnh của tình yêu và sự ân cần dịu dàng của Thiên Chúa, Đấng giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ chết.
Thái Hà 30/3/2020
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Làm sao để vun đắp một tình bạn
Làm sao để vun đắp một tình bạn
Nếu bạn muốn trở thành một người bạn thì bạn phải vứt bỏ hay đập vỡ cái tôi của mình!
Tại sao lại như vậy ?
Không ai có thể đọc được suy nghĩ của bạn. Bạn cũng không thể đọc được suy nghĩ của người khác.
Một người bạn cho rằng: “Nếu bạn thật sự thích tôi thì bạn có thể đọc được suy nghĩ của tôi” thì không thể có một mối quan hệ chín chắn với người khác được.
Tất cả chúng ta đều mong muốn bạn bè hòa hợp với mình để mà họ có thể hiểu được tình hình và những nhu cầu của chúng ta một cách trực giác. Điều này hiếm khi xảy ra và không bao giờ luôn luôn xảy ra. Sẽ không có ai có thể đáp ứng nhu cầu của bạn nếu họ không biết bạn đang cần những gì.
Nhưng phải nói thật rằng bạn phải chấp nhận mạo hiểm khi cho mọi người biết những nhu cầu của bạn. vì có thể bạn sẽ bị tẩy chay hay bị xúc phạm. Tuy nhiên, khi bạn mong muốn bạn bè đọc được suy nghĩ của mình để có thể đáp ứng nhu cầu của bạn mà không cho họ biết bất cứ thông tin gì thì bạn sẽ thất vọng và đau khổ mà không có người bạn nào hiểu được nguyên do.
Thường có một ý kiến sai lầm về tình bạn và thậm chí cả trong hôn nhân. Khi một ông chồng được hỏi là anh ta có bao giờ nói với vợ là anh ta muốn rủ vợ đi dạo bằng xe đạp với mình hay không, ông chống đã quát lên: “Dĩ nhiên là tôi không nói với cô ta rồi vì sao những năm chung sống cô ta phải hiểu được điều đó chứ.”
Một điều đáng buồn là người vợ sẽ không bao giờ có thể biết nếu ông chồng không nói với chị ta.
Vì thế, hãy nói với bạn bè và người yêu về mong muốn và nhu cầu của bạn. Nếu không thì bạn sẽ bị kẹt trong những mối quan hệ trẻ con mà không bao giờ có thể trở thành “những người bạn thân” được.
Cuộc sống qua lăng kính