2024
“ĐỪNG XAO XUYẾN”
26.4 Thứ Sáu trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:26-33; Tv 2:6-7,8-9,10-11; Ga 14:1-6
“ĐỪNG XAO XUYẾN”
Đứng trước cái chết của người thân, ai trong chúng ta lại không khỏi xao xuyến và lòng lại không quặn đau đến tột cùng vì sắp phải chứng kiến sự chia lìa vĩnh viễn!
Chúa Giêsu sắp từ giã các môn đệ để trở về cùng Cha, và điều đó khiến các ông u buồn xao xuyến. Không u buồn sao được khi đã ba năm tình nghĩa Thầy trò, không xao xuyến sao được khi đã mất đi điểm tựa. Chúa Giêsu biết rõ điều đó và các môn đệ cũng thấm thía nỗi buồn khi Ngài tuyên bố ra đi.
Chính vì thế để trấn an họ Ngài giải thích việc Ngài ra đi và hứa trở lại. Ngài ra đi không phải vì Ngài, mà vì các ông: Ngài đi dọn chỗ cho các ông và Ngài sẽ trở lại đem các ông đi theo Ngài. Còn gì vui sướng bằng. Người đi nhận chịu gian lao vất và chỉ vì người ở lại, do đó người ở lại không còn mặc cảm bị bỏ rơi nhưng hãnh diện vì được người đi đặc biệt lưu tâm. Thái độ của người ở lại không phải là u sầu than khóc, mà là góp sức với người đi bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho giờ hội ngộ. Còn gì bẽ bàng cho bằng khi trở lại người đi chỉ gặp được sự dửng dưng thờ ơ của người ở lại. Còn gì buồn lòng Thiên Chúa hơn khi Ngài đến gõ cửa mà tâm hồn đã đóng kín và đèn dầu đã cạn
Khi lãnh nhận đức tin người Kitô hữu cũng được Đức Kitô ước hẹn. Ngài hứa sẽ trở lại với riêng từng người và với chung cho cả thế giới. Ngài sẽ trở lại đem họ đến nơi Ngài dọn sẵn, để họ hưởng trọn niềm vui mà hiện nay họ chỉ mới cảm nghiệm lờ mờ như dọi qua gương. Ngài không báo trước giờ Ngài trở lại, nhưng muốn họ luôn sẵn sàng như tân nương chờ đón tân lang.
Tin Mừng hôm nay trong một văn mạch hết sức ấn tượng, đó là sự đau buồn của các môn đệ trước sự ra đi của Chúa Giêsu. Thật vậy, ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi sẽ mất đi điểm tựa!
Tuy nhiên, thấu hiểu được tâm trạng của các ông, nên tình thầy trò thân tín, Chúa Giêsu đã tâm huyết chia sẻ với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Thầy đi dọn chỗ cho anh em… để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”. Lời tâm huyết này được diễn ra trong bữa Tiệc Ly, một bữa ăn cuối cùng của tình thầy trò. Khi nói những lời ấy, Chúa Giêsu trao cho các ông chìa khóa để thêm vững tin, đó là: để khỏi bị xao xuyến, thì: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Thiên Chúa, vì Người hằng thương yêu chúng ta. Tin vào Chúa Giêsu vì Ngài đi để chuẩn bị cho chúng ta như Ngài đã phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em […] và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Chúa chỉ vẽ cho các ông nơi đặt niềm tin tối cần và tối cao trong đời mình: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Ở đời ta còn phải tin vào những đối tượng khác nữa như: ông bà, cha mẹ, người thân… Nhưng Thiên Chúa, là Đấng quyền năng tối cao trong thế giới vũ trụ này và trên cuộc đời mỗi người chúng ta, nên ta phải đặt vào Người một niềm tin tuyệt đối.
Chúa tiếp tục dặn dò và hứa với các ông, nếu tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy thì sau này các ông sẽ được về“nhà Cha Thầy”. Chúa như vật chất hóa, cụ thể hóa ngôi nhà của Thiên Chúa trên trời để các ông dễ tin, dễ hiểu, dù chưa được thấy, được đến bao giờ nhưng tin chắc có ngôi nhà ấy: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… Thầy đi để dọn chỗ cho anh em”.
Một điều mà làm cho các môn đệ cũng như cả chúng ta hôm nay vui sướng, yên vui nhất đó là chính lời hứa cũng như cam kết của Chúa với các môn đệ: “Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Ôi! con người mà được ở chung một nhà, một chốn với Đấng Tạo Hóa quyền phép toàn năng, còn ai được hạnh phúc bằng.
Nói đến đây, các môn đệ tưởng như Chúa Giêsu sẽ chỉ vẽ cho các ông một con đường vật chất, để đi tới ngôi nhà vật chất có không gian, địa lý của Thiên Chúa. Vì vậy khi Chúa nói đến “Thầy đi đâu anh em biết đường rồi”, các ông đã ngơ người. Tôma là người điển hình thưa lại: “Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?”. Vậy là cuối cùng Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ con đường để về với Chúa Cha thật mầu nhiệm vừa hữu hình vừa vô hình: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”.
Chúa là con đường: Ai vâng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa, nên giống Chúa là họ đang đi trên con đường của Chúa bước về nhà Thiên Chúa. Bước trên con đường ấy họ như đã bước vào ngưỡng cửa của ngôi nhà Thiên Chúa, họ đã được nếm thử, ngắm nhìn, dù chưa được hưởng ngoạn tất cả hạnh phúc huy hoàng nơi Nhà Thiên Chúa.
Chúa là sự thật: Tin giữ lời Chúa, ta không còn buồn phiền lo lẵng mà yên vui sống trên dương thế, cho dù gặp muôn nỗi thăng trầm nhưng tin tưởng Lời Chúa sẽ thành hiện thực.
Chúa là sự sống: Chúa là chủ, là nguồn cội sự sống thân xác và sự sống linh hồn mọi người. Tổ tiên ta đã có câu: “Sống chết bởi Trời”. Còn như thánh Phaolô dạy: “Anh em có sống là sống cho Chúa và có chết cũng là chết cho Chúa”. Thật thế Chúa nắm giữ vận mạng tôi, để tôi luôn gắn kết tâm hồn thể và xác tôi trong Người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Chúa trước mọi thử thách trông gai. Không được ủ rũ khóc than. Nhưng là chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Đức Giêsu bằng việc sống những điều Ngài dạy. Hãy khước từ mọi sự bất chính, thêm niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu và trung thành đi trên chính con đường của Ngài để được sự sống đời đời.
2024
11.4 Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mùa Phục Sinh
Cv 5:27-33; Tv 34:2,9,17-18,19-20; Ga 3:31-36
Đấng từ trời mà đến
Tin Mừng hôm nay theo thánh Gioan: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”. Chúa Phục sinh làm tăng thêm lòng tin của con người, khi thân xác trở về với tro bụi thì linh hồn ta vẫn chờ ngày Chúa trở lại phán xét. Thánh Anphongsô từng nói: “Con hãy nhớ, những việc con làm đều có quan hệ đến phần rỗi đời đời. Vì thế, con phải làm hết sức cẩn thận, vì con sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa về các việc con đã làm”. Hay theo Mt16,26 “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì?
Chúa Giêsu khẳng định về mình: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người”. Người đã nói, đã làm chứng về những gì Người đã thấy nơi Thiên Chúa Cha trên trời. Chúa Giêsu chính là Đấng ấy được sai đến trần gian.
Chúa Giêsu cũng dán tiếp chê trách những người Pharisêu và gọi họ là những kẻ “từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất”. Do vậy khi nói những chuyện trên trời họ chẳng hiểu được.
Chúa Giêsu là người duy nhất đầu tiên được nghe, được thấy những chuyện trên trời mà đem nói lại cho nhân loại. Nhưng tiếc rằng người nghe là những Pharisêu thời đó”. “chẳng ai nhận ra lời chứng của Người”.
Chúa Giêsu càng về cuối Chúa càng khẳng định rõ ràng hơn về con người của mình “: Đấng được Thiên Chúa sai đi thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương Người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”. Đó là quyền năng ban phát quyền sinh, quyền tử mà chẳng có vị thủ lãnh nào ở trần gian này có được: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời, còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy”.
thánh Gioan trình bày cho chúng ta biết Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa. Đấng rất cao trọng đã từ trời cao mà đến trong thế gian này để mặc khải cũng như làm chứng cho nhân loại biết về những sự ở trên trời mà loài người với trí khôn giới hạn không thể nào hiểu thấu được. Quan trọng nhất: Chúa Giê-su đã khai mở cho nhân loại biết về màu nhiệm một Thiên Chúa, nhưng Ngài có Ba Ngôi. Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Một Thiên Chúa yêu thương nhân loại, muốn cho loài người được sống trong sự che chở cúa Ngài. Chúa Cha yêu thương loài người nên trao ban Chúa Con và mọi sự trong tay Ngài. Vì thế ai tin vào vào Chúa Con thì được sự sống đời đời, còn kẻ nào cố chấp cứng lòng không tin vào Người Con thì không được sự sống và rồi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng phạt trên kẻ ấy.
Trong các nhân vật lịch sử thế giới, từ cổ chí kim, từ đông sang tây chưa có ai ngoài Chúa Giê-su Đấng từ trời cao mà đến đã phán rằng: “Ta là đường, là sự thật, là sự sáng và là sự sống, ai tin ta thì không đi trong tối tăm, mà đi trong ánh sáng mang lại sự sống đời đời.”
Đôi khi chúng ta trách móc người Do Thái khi xưa rằng đã thấy những sự lạ mà Chúa Giê-su đã thực hiện tỏ tường trước mắt họ nhưng họ vẫn cứng lòng không chịu đặt niềm tin nơi Chúa Giê-su. Nhưng nếu ngày nay, cho dẫu chúng ta có tin Chúa, nhưng chỉ tin thôi mà không thực hành những điều Người dạy thì chúng ta còn đáng trách hơn những người Do Thái năm xưa vậy!.
Thiên Chúa đã yêu thương con người như thế, nhưng con người đã đáp lại lời mời gọi của Ngài như thế nào? Nhân loại đã đón nhận lời Ngài cách tích cực chưa? Chúng ta thấy một thực trạng rằng, rất nhiều người vẫn còn phớt lờ lời Hằng Sống ấy.
Đứng trước bao việc Chúa làm, với một tâm trí ngay thẳng, chúng ta phải khiêm nhường nhìn nhận giới hạn của chúng ta rằng: rất nhiều điều trong cuộc sống này, chúng ta vẫn còn chưa biết đến, vì vũ trụ quá bao la, trong khi khả năng hiểu biết của con người thì quá bé nhỏ hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời?
Ngôn sứ Isaia cũng đã từng tuyên sấm cho dân Ít-ra-en rằng: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu” (Is 55,9). Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Vì vậy Chúa Giêsu mới nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ với dân chúng xưa, cụ thể là người Do thái từ thời Cựu ước đến nay, họ không tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.
Trong Bài đọc I hôm nay, các Tông đồ cũng dạy chúng ta rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.
Mặc dù các ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Tin vào Đức Kitô là sự cần thiết để có được sự sống đời đời. Tuy nhiên, điều quan trọng là biết sống cho niềm tin đó, bằng cách biến đổi cuộc sống theo gương của Chúa Giêsu và thực hành những lời Ngài đã khuyên dạy. Thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô”, nghĩa là khi xác định niềm tin yêu và hy vọng vào Chúa, chúng ta sẽ đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách của cuộc sống, để rồi chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu thương bao la của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
2023
Chia sẻ của Đức Thánh Cha trước khi Đại hội Thượng Hội đồng công bố Thư gửi dân Chúa
Chia sẻ của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tôi thích nghĩ về Giáo hội như một Dân trung thành của Thiên Chúa, thánh thiện và tội lỗi, một dân tộc được kêu gọi và quy tụ bằng sức mạnh của các Mối Phúc Thật và của Tin Mừng Mátthêu chương 25. Chúa Giêsu, đối với Giáo hội của Người, đã không áp dụng bất kỳ kế hoạch chính trị nào trong thời của Người: không phải Pharisêu, cũng không phải Sađốc, cũng không phải Essenes, cũng không phải phái nhiệt thành. Không phải là “đoàn thể đóng”; nhưng chỉ đơn giản là tiếp nối truyền thống của Israel: “Các ngươi sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Tôi thích nghĩ về Giáo hội như một dân tộc đơn sơ và khiêm nhường bước đi trước sự hiện diện của Chúa (Dân trung thành của Thiên Chúa). Đây là cảm thức tôn giáo về dân trung thành. Và tôi nói dân trung thành để tránh rơi vào nhiều cách tiếp cận và hệ tư tưởng làm giảm đi thực tế của Dân Chúa. Cách đơn sơ là dân trung thành, hay cũng là “dân thánh trung thành của Thiên Chúa” bước đi, thánh thiện và tội lỗi. Và Giáo Hội là như thế.
Một trong những đặc điểm của dân trung thành này là tính không thể sai lầm của họ; vâng, dân trung thành không thể sai lầm trong đức tin. (Trong đức tin họ không thể sai lầm, Lumen Gentium 9). Trong đức tin, không thể sai lầm. Và tôi giải thích điều đó như thế này: khi bạn muốn biết Mẹ Thánh Giáo Hội tin gì, hãy đến Huấn Quyền, bởi vì chính Huấn quyền là người chịu trách nhiệm giảng dạy điều đó cho bạn, nhưng khi bạn muốn biết Giáo Hội tin như thế nào, hãy đến với dân trung thành.
Một hình ảnh hiện lên trong tâm trí tôi: các tín hữu tụ họp ở lối vào nhà thờ chính tòa Êphêsô. Lịch sử (hoặc truyền thuyết) kể rằng dân chúng đứng hai bên đường hướng về nhà thờ trong khi các giám mục trong đoàn rước vào, và dân chúng đồng thanh lặp lại: “Mẹ Thiên Chúa”, trong khi yêu cầu Phẩm trật Giáo hội tuyên bố rằng sự thật này là tín điều mà họ đã ôm ấp với tư cách là dân Chúa (Một số người nói rằng họ có gậy trong tay và đưa cho các giám mục xem). Tôi không biết đó là lịch sử hay truyền thuyết, nhưng hình ảnh này thật có giá trị.
Dân trung thành, dân thánh trung thành của Thiên Chúa, có linh hồn, và vì có thể nói về linh hồn của một dân tộc nên chúng ta có thể nói về một lối diễn giải, một cách nhìn thực tại, một lương tâm. Dân trung thành của chúng ta ý thức được phẩm giá của mình, họ rửa tội cho con cái họ, họ chôn cất những người đã chết.
Các thành viên của hàng giáo phẩm đến từ dân này và đã nhận được đức tin từ dân này, nói chung là từ mẹ và bà của họ, “mẹ của anh và bà của anh”, Thánh Phaolô nói với Ti-mô-thê như thế, một đức tin được truyền tải bằng tiếng địa phương được sử dụng bởi người nữ, giống như mẹ của anh em nhà Mác-ca-bê, người đã nói với các con của mình “bằng phương ngữ”. Và ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng, trong số dân thánh trung thành của Thiên Chúa, thì đức tin được truyền tải bằng phương ngữ, và nói chung bằng tiếng địa phương được người nữ sử dụng. Điều này không chỉ vì Giáo hội là mẹ và chính phụ nữ là những người phản ánh điều tốt nhất (Giáo hội là nữ), mà bởi vì chính phụ nữ biết chờ đợi, biết khám phá những nguồn lực của Giáo hội, của dân trung thành, những người vượt quá giới hạn, có lẽ đầy sợ hãi nhưng can đảm, và lúc một ngày mới đang bắt đầu nửa sáng nửa tối, họ đến gần một ngôi mộ với trực giác (vẫn không hy vọng) rằng có thể có điều gì đó vẫn sống.
Phụ nữ của dân thánh trung thành của Thiên Chúa là phản ảnh của Giáo Hội. Giáo Hội là nữ, là hiền thê, là mẹ.
Khi các thừa tác viên quá tải trong việc phục vụ và đối xử tệ với dân Chúa, họ làm biến dạng bộ mặt của Giáo hội bằng những thái độ gia trưởng và độc tài. Thật đau lòng khi nhìn thấy “bảng giá” của các việc phục vụ bí tích ở một số văn phòng giáo xứ như trong siêu thị. Hoặc Giáo hội là dân trung thành của Thiên Chúa đang bước đi, thánh thiện và tội lỗi, hoặc cuối cùng Giáo hội trở thành một công ty cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Và khi các tác nhân mục vụ đi theo con đường thứ hai này, thì Giáo hội trở thành siêu thị cứu độ và các linh mục trở thành nhân viên đơn thuần của một công ty đa quốc gia. Đây là sự thất bại lớn nhất mà chủ nghĩa giáo sĩ trị dẫn chúng ta đến. Và điều này gây ra nhiều nỗi buồn và cớ vấp phạm (chỉ cần đến các tiệm may đồ lễ ở Roma để xem thật là cớ vấp phạm khi các linh mục trẻ đang xúng xính thử áo chùng, mũ, áo cổ col và tua áo).
Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một xói mòn, một tai họa, một hình thức thế tục làm vấy bẩn và làm tổn thương dung mạo hiền thê của Chúa; bắt dân thánh trung thành của Chúa làm nô lệ.
Và dân Chúa, dân thánh trung thành của Thiên Chúa, tiến bước với lòng kiên nhẫn và khiêm tốn, chịu đựng sự hoang phí, bị ngược đãi, bị loại trừ bởi chủ nghĩa giáo sĩ trị được thể chế hóa. Và thật tự nhiên khi chúng ta nói về những “ông hoàng của Giáo hội”, hay việc thăng chức giám mục như sự thăng tiến trong nghề nghiệp! Những nỗi kinh hoàng của thế giới, tinh thần thế gian ngược đãi dân thánh trung thành của Thiên Chúa.
2023
ĐTC ban ơn toàn xá cho các tín hữu ở Bán đảo Ả Rập nhân Năm Thánh 1500 năm Thánh Aretas tử đạo
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ ban ơn toàn xá cho các tín hữu ở Bán đảo Ả Rập nhận dịp Năm Thánh ngoại thường sẽ được cử hành tại hai Hạt Đại diện Tông toà Bắc và Nam Ả Rập, từ ngày 24/10/2023 đến ngày 23/10/2024, nhân dịp kỷ niệm 1500 năm cuộc tử đạo của Thánh Aretas và các bạn tử đạo, bị sát hại trong cuộc đàn áp chống Kitô giáo vào năm 523 tại Najran, ở Ả Rập trước thời kỳ Hồi giáo.
Cuộc tử đạo của Thánh Aretas và các bạn tử đạo
Thánh Aretas, sinh năm 427, là thống đốc của thành phố Kitô giáo cổ Najran ở miền nam Ả Rập. Vua của Himyar (thuộc Yemen ngày nay), Dhu Nuwas, được cho là đã theo đạo Do Thái và tiến hành một cuộc đàn áp có hệ thống đối với những người theo Kitô giáo, đốt nhà thờ, buộc người dân phải cải đạo và xử tử những người không chịu từ bỏ đức tin Kitô giáo.
Sau khi chinh phục Najran, Vua Dhu Nuwas ra lệnh ném các linh mục, phó tế, nữ tu và giáo dân xuống hố và thiêu sống. Đàn ông, đàn bà, già trẻ, bị giết không phân biệt: một đứa trẻ 5 tuổi bị chết khi lao vào vào ngọn lửa để được ở bên mẹ. Thánh Aretas, lúc đó đã 95 tuổi, và một trăm Kitô hữu khác đã bị chặt đầu vào năm 523. Đại diện Tông toà Bắc Ả Rập cho biết đã có hơn 4.000 vị tử đạo trong cuộc đàn áp này, đã bị giết “vì đức tin vững mạnh vào Chúa Kitô bị đóng đinh”.
Mở cửa Năm Thánh
Hai vị Đại diện Tông toà Bắc và Nam Ả Rập, Aldo Berardi và Paolo Martinelli, sẽ mở Cửa Thánh ở Bahrain và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Thánh lễ khai mạc trọng thể Năm Thánh sẽ được Đức cha Aldo Berardi, Đại diện Tông toà miền Bắc Ả Rập, chủ sự lúc 11 giờ giờ địa phương vào ngày 4/11/2023, tại Nhà thờ Đức Mẹ Ả Rập ở Awali, Bahrain, đúng một năm sau chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến vùng đất này. Trước Thánh lễ sẽ có nghi thức mở Cửa Thánh.
Vào ngày 9/11/2023, lúc 6 giờ chiều theo giờ địa phương, Cửa Thánh cũng sẽ được Đức cha Paolo Martinelli, Đại diện Tông tòa Nam Ả Rập, mở tại Nhà thờ Thánh Giuse ở Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, nơi Đức Thánh cha viếng đã thăm vào tháng 2/2019. Một thánh tích của Thánh Aretas, được Đức Thượng phụ Bartolomeo I của Constantinople tặng, dự kiếnsẽ được đưa đến Bahrain vào tháng 11.
Ơn gọi là một Giáo hội Công giáo ở bán đảo Ả Rập
Đức cha Berardi nói với hãng tin Fides: “Chúng tôi có những vị tiền nhiệm Kitô giáo ở những vùng đất này, những người đã nêu gương cho chúng tôi. Bây giờ đến lượt chúng tôi trở thành những chứng nhân của Đấng Phục Sinh trong thời điểm hiện tại. Được truyền cảm hứng từ các vị tử đạo Ả Rập, các Kitô hữu trên bán đảo Ả Rập ngày nay được kêu gọi trở thành ‘những vị tử đạo hằng ngày’, những người không ngừng làm chứng sống động cho Chúa Kitô và sứ điệp của Chúa trong những điều nhỏ nhặt hàng ngày của cuộc sống họ.”