2023
Xin vâng như lời sứ thần truyền
25.3 Thứ Bảy Lễ Truyền Tin
Gr 11:18-20; Tv 7:2-3,9-10,11-12; Ga 7:40-53
Xin vâng như lời sứ thần truyền
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.
Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để làm quyết định; nhưng khi con người quyết định chọn điều gì, là con người phải lãnh nhận hậu quả do quyết định ấy mang lại. Thói quen của con người là không muốn phải vâng lời ai, muốn tự mình có thể quyết định mọi sự. Trong cuộc cám dỗ đầu tiên tại Vườn Địa Đàng, con rắn gian manh biết Bà Evà không muốn vâng phục Thiên Chúa, nên cám dỗ Bà ăn trái cây “biết lành biết ác” mà Thiên Chúa đã cấm không được ăn. Hậu quả của cuộc bất tuân là ông bà mất nghĩa cùng Thiên Chúa, và truyền nọc độc của tội Tổ Tông cho con cháu.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc tuân phục hay bất tuân lời Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, mặc dù đã được tiên-tri Isaiah truyền chỉ tuân phục một mình Thiên Chúa, vua Ahaz của Judah vẫn bất tuân sang cầu viện Ai-cập. Hậu quả là nước mất nhà tan, từ vua đến dân bị lưu đày qua Babylon. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh các hy lễ đền tội của Cựu Ước với sự vâng phục của Đức Kitô, và đưa đến kết luận: Thiên Chúa trân quí sự vâng phục của Đức Kitô hơn ngàn vạn chiên cừu, và cái chết của Ngài trên Thập Giá có sức mạnh xóa sạch tội và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Phúc Âm, lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin đã bắt đầu kỷ nguyên cứu độ: Chúa Thánh Thần đã rợp bóng trên Mẹ, và hài nhi Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, đã hình thành trong lòng Mẹ.
Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ : “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra :”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Ê-li-da-bét (Lc 1, 39 – 45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Ê-li-da-bét. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác.
Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn “Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1, 46 – 55). Tâm tình Đức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Đức Mẹ là khát vọng cứu độ tỏa ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Đức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Đức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng.
Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi Mai Khôi. Như hằng ngày đến bên trái tim Đức Mẹ, để xin trái tim Đức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới.
Như Mẹ Maria xưa đã đồng ý để Chúa dùng Mẹ như một phương tiện đến với nhân loại thế nào thì nhiệm vụ chính yếu của mỗi người Kitô hữu ngày nay cũng chính là việc sẵn sàng hiến cho Chúa một cơ hội để Ngài tỏ mình ra cho những người chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày: một nụ cười thân thiện, một ánh mắt thông cảm, một nghĩa cử bác ái, một sự nhịn nhục kẻ thù… tất cả sẽ là việc tông đồ nếu qua đó mà người ta nhận biết Chúa rõ ràng hơn, yêu mến Chúa sâu đậm hơn, và thương yêu tha nhân chân thật hơn.
Xin Mẹ Maria nâng đỡ phù trì để chúng ta ngày một tiến cao hơn trong cuộc lữ hành đức tin qua việc mở rộng tâm hồn sẵn sàng cộng tác với ơn soi động của Chúa Thánh Thần ngõ hầu Chúa Giêsu có cơ hội tiếp tục sinh xuống tâm hồn những ai chưa nhận biết Chúa.
2023
Tin Nhận Chúa Giêsu
24.3 Thứ Sáu
Thứ Sáu trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Kn 2:1,12-22; Tv 34:17-18,19-20,21,23; Ga 7:1-2,10,25-30
Tin Nhận Chúa Giêsu
Chúa Giêsu trở lại Galilê vào một dịp lễ Lều trại của người Do thái. Lễ lều trại là một trong những lễ mừng lớn nhất của họ (như Quốc khánh). Ban đầu, đó là ngày lễ tạ ơn sau vụ mùa, nhất là sau mùa hái nho, người ta thường mừng trong tám ngày liền từ 15 –21 Tischri (tháng 7-8) (Lv 25,34). Mục đích của họ gồm hai phần: một là tạ ơn Thiên Chúa cho vụ mùa thành đạt (Tl 33,16), hai là để tưởng nhớ đến những tháng năm ròng rã ở sa mạc sau thời gian thoát ách Ai cập (Lv 23,42). Dịp lễ lớn này, mọi người buộc phải trở lại đền thờ Giêrusalem dâng của lễ như hoa quả để cầu khấn xin mưa thuận gió hòa.
Chúa Giêsu đã đi lẻn vào một số khách lên đền này. Ngài đi trong âm thầm lặng lẽ, nhưng chẳng bao lâu người ta cũng biết, vì Người bắt đầu giảng dạy ngay tại đền thờ. Do đó cuộc tranh luận với Ngài sôi nổi hơn. Một mặt, các quan quyền trong dân lại đi tìm cách hại Ngài (c.25). Họ muốn hủy tiêu Ngài vì họ thấy Ngài quá nổi nang, họ chỉ biết Ngài là con bác thợ mộc mà không theo họ. Họ không chấp nhận bản tính thần linh của Chúa. Dù bao nhiêu chứng cớ cho vai trò Thiên Chúa đó như: Gioan tiền hô, Thiên Chúa Cha, Kinh thánh, chính lời Chúa nói và việc Chúa làm cũng không đánh động những tâm hồn chai đá đó. Họ quyết tâm từ chối thì đó là quyền tự do của mỗi người, Thiên Chúa cũng kính trọng sự tự do đó.
Chúa Giêsu đã đánh thức lương tâm họ, nhất là nhóm biệt phái, là những người học hỏi về Cựu ước, tinh thông lề luật mà không có lòng khiêm nhường thì thật là nguy hại biết bao nhiêu cho mình và cho người khác. Cổ nhân đã từng nói: “Có học mà không hạnh là kẻ ác”, “Có hạnh có đức mà không có học là đần”. Cho nên, ở đời này còn gì quí hơn “có tài, có đức, có hạnh”. Nơi Chúa Giêsu gồm đủ mọi sự khôn ngoan thông thái và đức độ. Nhưng quả chín thì thường bị nhiều con chim mổ lắm.
Với bao nhiêu lời giáo huấn và phép lạ kèm theo, Chúa mạc khải về Thiên Chúa Cha mà người Do thái không biết hoặc chưa biết cho đủ hay chưa biết như phải biết (Ga 5,37). Chúa Giêsu quả quyết Thiên Chúa Cha là người sai Ngài xuống trần gian để cứu chuộc họ (Ga 5,37. 7,33. 6,19. 20,21). Chúa Giêsu đã từng dùng dụ ngôn những người làm vườn nho hung ác để nói lên việc Thiên Chúa Cha sai Ngài xuống trần gian và bị đem giết đi (Mt 21,33-46). Tin Mừng theo Gioan có hơn 25 lần quả quyết Thiên Chúa Cha sai Ngôi Con xuống trần gian.
Sự cứng lòng của những người Do Thái không tin đã nhốt kín họ trong những định kiến mê muội đối với những hành động khẳng khái của Chúa Giêsu. Thay vì khách quan đặt lại vấn đề để tìm ra nguyên do nào đã thúc đẩy Chúa hành động bất chấp nguy hiểm như thế, họ chỉ một mực bưng tai bịt mắt khư khư giữ lấy lập trường riêng của mình. Họ đem lòng dạ quanh co xấu xa của họ ra xét đoán tha nhân và những sự việc xảy ra chung quanh. Họ không nhận ra được sự thật mà Chúa Giêsu đã mang đến; cũng không nhìn thấy hình ảnh của Ðấng Thiên Sai nơi Chúa Giêsu. Thật ra, đó chỉ là những hình ảnh thô thiển do cái nhìn chủ quan của họ tạo ra. Còn Ðấng Cứu Thế đích thực đang đứng trước mặt họ thì họ lại khước từ.
Chúng ta biết rất ít về Đức Ki-tô, dù sau khi đã được Phúc âm mặc khải cho chúng ta. Điều chúng ta biết về Người là giáo huấn Người để lại cho chúng ta. Và giáo huấn đó thì quá giản dị, quá trong sáng, quá là là mặt đất đến nỗi làm chúng ta hơi thất vọng, nếu chúng ta đòi Người làm những điều phi thường ! Những điều mà như chúng ta nghĩ sẽ có thể thành công dễ dàng nếu có một chút can thiệp siêu việt, siêu phàm của Thiên Chúa; Đây chính là phạm vi Đức Ki-tô đòi hỏi chúng ta phải sống để khám phá là phát triển trong tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta lại từ chối.
Đức Ki-tô nhắc nhở chứng ta không phải chỉ biết Người theo phạm vi loài người mà chính là theo phạm vi Thiên Chúa. Như chúng ta, không phải chỉ sống theo khía cạnh là người này phải làm lụng vất vả để kiếm bánh ăn mỗi ngày : bánh cho xác, bánh cho con tim, cho trí óc mà còn cần thứ khác siêu việt hơn. Thứ khác đó thuộc phạm vi đức tin mà chúng ta phải khám phá. Thứ khác đó chính là Đức Ki-tô, Người đang sống trong chúng ta. Chính là ơn thánh, chân lý mầu nhiệm mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, Người an ủi chúng ta, không vượt xa mà hoàn toàn ở trong chính chúng ta.
Giờ của Chúa Giêsu chưa đến thì cho dù con người có muốn cũng không làm gì được để giờ ấy mau đến. Có lần Chúa Giêsu phán rằng : “ Giờ Ngài chưa đến” nhưng Ngài vẫn can thiệp, đó là khi Mẹ xin Chúa làm phép lạ ở tiệc cưới Cana. Chính Mẹ đã quan tâm và chăm sóc để cho đôi tân hôn được hạnh phúc. Thật thế, Thiên Chúa là Tình Yêu và tất cả những gì là tình yêu đều được Ngài ủng hộ. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở, mời gọi chúng ta kiên trì trong những gì chúng ta đang làm vì vinh danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân, kiên trì và tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa là Cha và là Đấng hết lòng yêu thương những thụ tạo của Ngài.
Mùa Chay, mùa của hoán cải, chúng ta được mời gọi thay đổi trước tiên cái nhìn của chúng ta. Tin nhận Chúa Giêsu là con Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận Ngài, là đi vào cái nhìn của Ngài, là đánh giá mọi sự bằng chính cái nhìn của Ngài. Mùa Chay là mùa quay trở lại với anh em. Ước gì cái nhìn của chúng ta đối với anh em không dừng lại theo những tiêu chuẩn thông thường của người đời, nhưng được mặc lấy ánh mắt tôn trọng, cảm thông, bao dung, tha thứ của Chúa. Ước gì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống không đóng khung trong những phán đoán thông thường của người đời, nhưng được hướng dẫn bởi những tâm tình tin tưởng, phó thác, lạc quan của chính Chúa.
2023
Lời chứng về Chúa
23.3 Thứ Năm Thứ Năm trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Xh 32:7-14; Tv 106:19-20,21-22,23; Ga 5:31-47
Lời chứng về Chúa
Sau khi Chúa Giêsu chữa lành một người trong ngày Sabát, những người Pharisêu chất vấn Ngài về thẩm quyền thần linh của Ngài và việc Ngài tự xưng mình là Con Thiên Chúa. Trả lời cho họ, Chúa Giêsu nêu lên các chứng cứ cụ thể và rõ ràng để làm chứng cho Ngài.
Lời chứng thứ nhất là lời chứng của Gioan Tẩy giả. Ông là ngọn đèn cháy sáng, ông làm chứng về ánh sáng thật là Chúa Giêsu (x.Ga 1,8-9). Ông đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu là đấng Thiên Sai khi Thánh Thần ngự xuống trên Ngài : “Đây tôi đã thấy và làm chứng rằng Người là Con Thiên Chúa” (Ga 1,34). Nhưng người Pharisêu đã không đón nhận lời chứng ấy. Lẽ ra họ phải lấy làm lạ khi một người vĩ đại và thánh thiện như Gioan lại làm chứng rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chúa Giêsu nhắc nhở họ về sự nghịch lý này : Dường như những người Pharisêu đều cho rằng ông Gioan là một ngôn sứ, nhưng họ lại không tin vào lời sấm quan trọng nhất của ông !
Lời chứng thứ hai là những công việc Chúa Cha giao mà Chúa Giêsu đã hoàn thành. Chúa nói : “Chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi”. Những việc Ngài làm, không chỉ về chính Ngài, nhưng chỉ về quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong và qua Ngài. Lẽ ra người Pharisêu phải suy nghĩ khi thấy đám đông dân chúng lũ lượt tìm kiếm Ngài. Lẽ ra ra người Pharisêu phải thắc mắc khi thấy những người tội lỗi đã thay đổi đời sống và đi theo Ngài rất đông.
Lời chứng cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha. Chúa Giêsu nói : “Cha tôi, Đấng đã sai tôi, cũng đã làm chứng về tôi”. Chúa Cha làm chứng bằng những lời của Người trong Kinh Thánh (c.39). Nhưng họ không giữ lời Chúa Cha ở trong lòng, nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Chúa Cha sai (c.38. 40).
Sau những lời chứng biện hộ của Chúa Giêsu, ta thấy khung cảnh như đảo ngược lại. Chúa Giêsu, người bị chất vấn buộc tội nay trở thành Đấng cáo tội : “Các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Tôi đã đến nhân danh Cha Tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận.” Người bị đưa ra trước toà giờ đây lại trở thành thẩm phán chất vấn lại chính những người đã đưa mình ra toà : “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được ?”
Có nhiều chứng từ về Chúa Giêsu. Nhưng có ít người tin vào Ngài. Trước khi chúng ta đứng lên phán xét sự vô tín của người đời, có lẽ chúng ta nên kiểm điểm chính mình. Ngoài những chứng từ vào thời Chúa Giêsu, chúng ta còn có Tân Ước, có hơn hai ngàn năm lịch sử Kitô giáo, có chứng từ của một Hội Thánh sống động trong ân sủng Chúa Thánh Thần, có chứng từ của những con người thánh thiện qua mọi thế hệ vẫn nỗ lực phác họa hình ảnh Thiên Chúa nơi chính đời sống của mình. Thế nhưng, chúng ta vẫn không nhận ra hình ảnh của Chúa Giêsu nơi tâm hồn chúng ta và nơi những người chung quanh. Biết bao lần chúng ta suy nghĩ và hành động như thể Chúa Giêsu vắng mặt, như thể Ngài chẳng liên quan gì đến cuộc sống của chúng ta.
Lời cáo tội của Chúa Giêsu đối với những người Pharisêu cũng có thể dành cho chúng ta: Khi chúng ta không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ đi tìm hư danh cho bản thân mình. Khi chúng ta sống đạo chỉ nhắm đến tôn vinh mình mà không thực tâm mến Chúa. Khi chúng ta tôn vinh những gì thuộc về trần thế và bám vào nó như là cứu cánh. Khi chúng ta không thoát khỏi những thành kiến để đón nhận lấy sự thật. Khi chúng ta không dám ra khỏi những ích kỷ để tin vào tình yêu Thiên Chúa, để ra khỏi cái tôi chật hẹp để sống cho tha nhân. Lời mời gọi của Chúa Giêsu : “Hãy tin vào Ngài, Đấng được Cha sai” đang là lời mời gọi thúc bách mỗi tín hữu. Hãy đến với Ngài để được sống và sống tròn đầy.
Qua Kinh thánh, Chúa Cha cũng làm chứng cho Chúa Con một cách đặc biệt. Đây là một chứng từ có tính cách trực tiếp và có giá trị đối với người Do Thái, vì mọi người Do Thái đều công nhận Kinh thánh là lời của Thiên Chúa .
Trong khi toàn bộ Kinh thánh Cựu ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến. Và không phải Chúa Giêsu là người sẽ tố cáo họ về tội bất trung này, nhưng là chính Mô sê. Bởi vì qua lề luật, Môsê đã nói về Đấng Mêsia tức là về Chúa Giêsu, vậy mà về điểm căn bản này, họ cũng đã từ chối không chịu tin theo lời dạy bảo của ông.
Như vậy, điều cốt yếu để được cứu độ là tin vào Chúa Giêsu nhận ra hình ảnh và lời nói của Chúa Cha nơi Ngài. Có tin vào Chúa Giêsu, lời Thiên Chúa mới ở trong chúng ta. Trong Mùa chay này, chúng ta hãy để cho Lời Chúa lưu lại trong chúng ta bằng cách năng suy gẫm Lời Chúa, để giữa cuộc sống của chúng ta và Lời Chúa biểu lộ khuôn mặt, tinh thần và tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn để có thể nhận ra và lắng nghe được tiếng nói của Chúa và luôn sống trong đường lối của Ngài.
2023
Lời Hằng Sống
22.3 Thứ Tư Thứ Tư trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Is 49:8-15; Tv 145:8-9,13-14,17-18; Ga 5:17-30
Lời Hằng Sống
Tin mừng hôm nay nối tiếp đoạn Tin Mừng hôm qua nói về trường hợp Chúa Giêsu chữa cho một người bất toại ở Betsaida trong ngày Sabat, và đã bị các người biệt phái cho rằng lỗi luật ngày hưu lễ.
Chúng ta nên biết rằng luật thời đó ngặt nghèo lắm. Ngày thứ bảy họ cấm 38 việc làm không được làm trong ngày đó. Một trong những việc đó là chữa bệnh. Cấm chữa bệnh, cấm tiếp bệnh nhân, chỉ trừ trường hợp cấp cứu, chứ những trường hợp nặng kinh niên dù gía nào cũng phải kiêng dè ngày sabat. Cho nên khi chữa bệnh như thế thì họ liền hỏi tại sao lại lỗi luật ngày đó. Chúa Giêsu thay vì trả lời trực tiếp, Chúa đã nói: “Cha ta làm việc luôn và ta cũng vậy” (c.17).
Chúng ta biết rằng việc nghỉ ngày Sabat là bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chúa tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ (Stk 2,2-3). Sau này Giáo hội của Chúa đã bắt nguồn từ sự kiện đó để dạy con cái rằng ngày nghỉ đó có mục đích bớt công việc phần xác hầu lo đến linh hồn mình. Đó mới gọi là mục đích việc nghỉ ngơi ngày Sabat.
Cho nên việc thiêng liêng, việc bác ái nói chung, không bao giờ được nghỉ. Chính Chúa nói: “Cha Ta làmviệc luôn luôn và ta cũng vậy” (c.17). Việc làm cho sự cứu rỗi linh hồn không bao giờ nghỉ ngơi được, không bao giờ cách quãng, để dành được. Chính Chúa đã dạy: “Phải cầu nguyện luôn” (Lc 18,1). Không có chỗ nào trong Kinh thánh mà Chúa dạy nghỉ cầu nguyện cả. Chúa nói “Cha Ta làm việc luôn và ta cũng vậy” (c.17) là có ý nói rằng trong việc cứu rỗi các linh hồn, phải làm việc liên lỉ không thể ngưng lại được. Phải làm từ ngày đầu tiên có con người cho đến ngày tận thế, ngày tận cùng của vũ trụ.
Hơn thế nữa, khi nói như vậy là Chúa muốn nói Ngài là Chúa ngày thứ bảy, Ngài đã ra luật thì Ngài có quyền châm chước luật đó là một điều dễ hiểu. Chúng ta đọc (c.19-30) là những bản văn minh chứng rằng Ngài là Thiên Chúa và cùng ngang hàng với Thiên Chúa Cha (c.19), Thiên Chúa Cha tỏ cho Chúa Con biết mọi điều (c.20): quyền tái sinh, quyền xét xử, lên án (c.21-22).
Tin Mừng cho thấy giữa Chúa Giêsu và người Dothái trở nên gây cấn hơn khi Ngài tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Nói như thế, Ngài minh định rằng: Thiên Chúa vẫn không ngừng sáng tạo và quan phòng cho con người. Nhưng điều quan trọng hơn là Ngài mặc khải cho biết: Ngài đến để thực thi thánh ý của Cha Ngài. Cuối cùng, điều làm cho người Dothái chói tai, khiến họ không chịu nổi, khi nghe Chúa Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Lời Chúa Giê-su không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.
Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước-Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giê-su trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.
Tin mừng cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu. Đấng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm theo ý Ta, nhưng là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Nên một với Thiên Chúa, thể hiện sự nên một ấy đến cùng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đi cho đến cùng. Thực thế, cái chết của Chúa Giêsu gắn liền với mầu nhiệm Ba Ngôi. Người Do Thái kết án Ngài không những vì Ngài không tuân giữ ngày hưu lễ, mà còn vì Ngài tự cho mình ngang hàng với Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu là một mạc khải về Chúa Cha. Qua cái chết ấy, Chúa Giêsu nói lên tiếng xin vâng trọn vẹn với Chúa Cha. Qua cái chết ấy, quyền năng và tình yêu của Chúa Cha được tỏ bày.
Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo hội, đó là hãm đẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang phục sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm quan mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng hoạ lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.
Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Ki-tô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Ki-tô tồn tại mãi mãi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết hướng tới sự sống đời đời. Khi hướng về sự sống đời đời, mọi việc chúng ta làm hay nói đều được tình yêu chi phối chứ không chỉ vì luật mà làm cho chúng ta xa rời tình yêu!
Xin Chúa ban cho chúng ta biết khiêm tốn để tin tưởng vào Chúa Giêsu, yêu mến và trung thành với Ngài. Hãy biết ăn năn sám hối để được tha thứ và đáng hưởng sự sống đời đời. Amen.