2024
THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ
THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Ca nhập lễ
Tv 95,2.3
Ngày qua ngày,
hãy loan báo ơn Thiên Chúa cứu độ,
kể cho muôn dân biết Người thật quang vinh.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một lòng tin vững mạnh, để chúng con thật tình gắn bó với Ðức Kitô, Con Một Chúa như thánh Ba-tô-lô-mê-ô Tông Ðồ. Xin Chúa cũng nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Kh 21,9b-14
Trên mười hai nền móng, có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
9b Tôi là Gio-an, bấy giờ, một thiên thần đến bảo tôi : “Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên.” 10 Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12 Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.
Đáp ca
Tv 144,10-11.12-13ab.17-18 (Đ. x. c.12a)
Đ.Lạy Chúa, kẻ hiếu trung với Chúa
được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
10Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,11nói lên rằng : triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
Đ.Lạy Chúa, kẻ hiếu trung với Chúa
được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
12Để nhân loại được tường những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.13abTriều đại Ngài : thiên niên vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Đ.Lạy Chúa, kẻ hiếu trung với Chúa
được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
17Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.18Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
Đ.Lạy Chúa, kẻ hiếu trung với Chúa
được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
Tung hô Tin Mừng
Ga 1,49b
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 1,45-51
Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
45 Khi ấy, ông Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói : “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp : đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét.” 46 Ông Na-tha-na-en liền bảo : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” Ông Phi-líp-phê trả lời : “Cứ đến mà xem !” 47 Đức Giê-su thấy ông Na-tha-na-en tiến về phía mình, liền nói về ông rằng : “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.” 48 Ông Na-tha-na-en hỏi Người : “Làm sao Ngài lại biết tôi ?” Đức Giê-su trả lời : “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” 49 Ông Na-tha-na-en nói : “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en !” 50 Đức Giê-su đáp : “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin ! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” 51 Người lại nói : “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Tông Ðồ Ba-tô-lô-mê-ô, chúng con dâng tiến của lễ này để chúc tụng tôn vinh Chúa. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu mà ban ơn trợ giúp chúng con. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng các Tông Ðồ
Tông Ðồ, mục tử dân Thiên Chúa.
Ðọc trong lễ các tông đồ nhất là Phê-rô và Phao-lô
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu, Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các Thánh Tông Ðồ, Chúa luôn che chở, giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa coi sóc đoàn chiên.
Vì thế, cùng với các Thiên thần và tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Lc 22,29-30
Chúa nói : “Thầy sẽ ban quyền cai trị cho anh em, như Cha Thầy đã ban cho Thầy, để anh em được cùng với Thầy đồng bàn ăn uống trên vương quốc của Thầy.”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, là Thiên Chúa chúng con, trong ngày lễ kính thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ, chúng con đã lãnh nhận bí tích Thánh Thể là bảo chứng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho bí tích này nâng đỡ chúng con bây giờ và mãi mãi. Chúng con cầu xin…
2024
Giới Răn Yêu Thương
23.8 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
Ed 37:1-14; Tv 107:2-3,4-5,6-7,8-9; Mt 22:34-40
Giới Răn Yêu Thương
Thiết nghĩ ai trong chúng ta cũng đều hiểu rõ điều răn đứng đầu và quan trọng nhất của đạo Công Giáo là “mến Chúa yêu người”. Thế nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi lòng mình rằng: Tôi tôn thờ một Thiên Chúa bằng trí hiểu hay bằng con tim? Tôi yêu thương người thân cận bằng cái lý hay cái tình?
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật.
Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu Chúa hết lòng là dâng lên Thiên Chúa một tình yêu tròn đầy, không chia sẻ cho bất kỳ ai. Nếu có yêu ai thì cũng chỉ yêu họ vì Chúa. Yêu Chúa hết linh hồn là dâng cho Chúa mọi sở hữu, đặt Chúa làm chủ đời mình, còn mình chỉ là người quản lý sử dụng của cải theo đúng ý Thiên Chúa. Yêu Chúa hết trí khôn là dâng cho Chúa bản thân của mình, không đòi hỏi điều gì cho mình nữa để hoàn toàn phục vụ một mình Thiên Chúa mà thôi. Mến Chúa thì cũng phải yêu thương tha nhân, vì mọi người đều mang trong mình dáng vóc thần linh, là hình ảnh của Thiên Chúa. Yêu tha nhân như chính mình là khi chúng ta muốn làm điều gì đó cho mình, thì cũng hãy làm điều ấy cho người ta.
Trên thực tế, chúng ta khó mà nhận biết Thiên Chúa hiện diện ở trong người khác ngay lập tức, mà phải nhìn họ bằng một cặp mắt đức tin. Thực sự chính Thiên Chúa ngự trong mỗi người, nên ta không được phép đóng khung bất cứ ai về cái nhìn ban đầu. Làm thế là ta phủ nhận và xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cần đón nhận nhau hơn trong đời sống hằng ngày, dành cho nhau tình yêu thương chân thật như dành cho chính Chúa.
Mỗi khi chúng ta từ chối tha nhân cũng là lúc chối từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách mơ hồ mà là nơi chính tha nhân. Chúng ta yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.
Tuy nhiên, chúng ta đừng nên lẫn lộn điều này: Thiên Chúa là Thiên Chúa, con người là con người. Thiên Chúa là Đấng chúng ta tôn thờ. Con người chỉ là hình ảnh, là nơi Thiên Chúa ngự trị mà thôi. Nhưng vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (x. Mt 10, 40). Vì thế, mỗi khi chúng ta biết sống cho tha nhân là một cách để sống cho Chúa.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và ngài dẫn giải: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy”.
Yêu người như yêu bản thân mình: Đây là tình yêu nhân bản vị tha của Do thái giáo: Như Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,16), và “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta. Vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Ngoài ra còn phải yêu thương hết mọi người, dù là người thân hay người xa lạ, dù là bạn hay thù như lời Chúa dạy: “Thầy nói với anh emlaf những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,27-31). Mỗi tín hữu chúng ta cần phải xin Chúa giúp thực tập đức ái theo từng bước như vậy.
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.
2024
Đức Maria Trinh Nữ Vương
22.8 Lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương
Ed 36:23-28; Tv 51:12-13,14-15,18-19; Mt 22:1-14
Đức Maria Trinh Nữ Vương
Việc cử hành lễ Đức Maria Nữ Vương đem đến cho chúng ta một niềm vui đặc biệt khi chiêm ngắm một con đường khác mà Thiên Chúa vén mở tình yêu của Ngài cho nhân loại. Ngài ban cho Mẹ Maria – một bông hồng giữa bụi gai mà không bị suy suyển – được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, trên tất cả các thiên thần.
Bằng phương cách độc nhất, Mẹ tự nguyện trở thành dụng cụ của Thiên Chúa để qua Mẹ “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1,14). Những hoa trái cứu chuộc đến với chúng ta qua Đức Maria khi Mẹ trả lời “Xin Vâng” với Chúa Cha để đem Chúa Giêsu Kitô vào thế giới loài người. Thân xác Đức Maria trở nên cực thánh khi cưu mang Đức Kitô. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca chỉ cho ta một trái tim hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, yêu mến Ngài, và uớc muốn làm mọi sự cho Ngài và tuân phục Ngài. Được Chúa chúc phúc, Đức Maria tuân theo kế hoạch cứu độ, và hiến đâng trọn đời cho Chúa.
Vì vậy Mẹ Maria rất thánh được tôn vinh lên địa vị cao quí nơi ngai tòa Thiên Chúa Ba Ngôi, từ nơi này Thiên Chúa cho các thánh thấy rõ Thiên Chúa đời đời hằng hữu và mọi thụ tạo đều tuỳ thuộc thánh ý Chúa. Được tràn đầy ân sủng vượt trên mọi thụ tạo, ở trần thế, Đức Maria đã hạ mình xuống địa vị thấp hèn nhất, thì nay, trên thiên quốc, Mẹ được nhận lấy địa vị tối cao và tham dự quyền chăm sóc mọi tạo vật. Mẹ là Nữ Vuơng, là Đấng Bảo Vệ, là Trạng Sư, là Mẹ và Thầy Giáo hội lữ hành. Mẹ giúp đỡ và cứu vớt mọi nỗi thống khổ, vất vả, cực nhọc, và ưu phiền của nhân loại.
Hiện nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh Quốc, Hòa Lan, Thụy Ðiển, Thái Lan, chức nữ hoàng và quốc vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.
Giữa trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức chính trị và trong đời sống xã hội, những câu kinh: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy…” lượt dịch bài bình ca bất hủ bằng tiếng La Tinh: “Salve Regina…” vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng lên Mẹ Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn con cái đối với mẹ không mảy may bị lạnh nhạt, mặc cho thế sự đổi thay.
Trong tông huấn mang tựa đề: “Lòmg sùng kính Ðức Mẹ Maria”, Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa về Ðức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính hôm nay đại khái như sau: “Lễ này là tiếp diễn lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời. Thực vậy, vào lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Ðức Mẹ bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền”.
Lời giải thích của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trên đây giúp chúng ta hiểu đúng vai trò của Mẹ Maria theo tinh thần của cộng đồng Vatican II. Ðó là liên kết vai trò của Ðức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu rỗi của Ngài.
Theo dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ Maria vẫn đứng vững trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị vua dùng thập giá làm ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của tình yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại đang khao khát tình yêu chân thật, làm động lực để biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá, trái tim bị gươm đâm thâu, để dòng máu tình yêu của Mẹ hòa chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống trị với con Mẹ trong Nước Trời.
Maria quả thực đã trọn đời tín thác nơi Chúa. Việc thăm viếng bà chị họ Ê-li-gia-bét nói lên tình thương của Mẹ đối với ông Dacaria và bà Êligiabét, Mẹ đến để phục vụ họ, nhưng Mẹ đến cũng là đem cho họ sứ điệp của niềm vui và bình an: “Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êligiabét” (Lc 1, 40). Lời chào của Maria có ý nghĩa cao vời hơn mọi lời chào xã giao hoặc lời chào của những người thân đi xa về. Mẹ Maria, Nữ tử Sion đã nói lên lời chào bình an, lời chào hoàn tất niềm mong đợi của Israen. Mẹ đã đem niềm hạnh phúc, mang Chúa Giêsu, hoa trái của lòng trinh khiết của Mẹ, mang Vua Hòa Bình là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần đến để khi bà Êligiabét vừa nghe lời Mẹ, đứa con trong bụng bà nhảy lên… (Lc 1, 41).
Maria đã trao ban chính bản thân trọn vẹn bằng lời “xin vâng” đầy lòng tin và tín thác nơi Thiên Chúa, do đó: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14).
Mẹ Maria là Nữ Vương các Ngôn sứ, các thánh tử đạo, Nữ Vương trên trời dưới đất. Tước hiệu ấy đi đôi với tước hiệu Vua Giêsu Con của Mẹ. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Vua yêu thương, phục vụ và khiêm nhượng. “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Ngài xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18, 37).
Vua chết trên thập giá để kéo mọi người đến với Ngài vì “Chỉ nơi Ngài mới có ơn cứu chuộc chan chứa” (Copiosa apud Eum Rédemptio). “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Mẹ Maria là Nữ Vương đứng dưới chân thập giá:” Con Mẹ là Vua cứu chuộc”. Nên, Mẹ cũng đồng hiệp thông với sự đau khổ, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu để thống trị với Con của Mẹ trong Nước Thiên Chúa.”… Hôm nay, trong lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ ngự bên cạnh Vua cao cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người Mẹ nhân hiền” (Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong tông huấn: “Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria”).
Dù rằng, thế giới hôm nay, chức “Vua” chỉ có vai trò tượng trưng, nhưng không hề có thực quyền, Maria là Nữ Vương vẫn hoàn toàn có giá trị, vẫn hoàn toàn có uy quyền trước Chúa Giêsu Vua, Con của Mẹ. Nhân loại vẫn không ngớt ca tụng Mẹ là Nữ Vương như kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vẫn thường đọc. Mẹ là Nữ Vương bên ngai toà Đức Kitô để Mẹ chiếu dọi ánh hào quang vinh quang của Chúa Giêsu Vua cho nhân loại.
Người ta đã tôn sùng Đức Trinh Nữ Vương từ lâu đời. Đức Thánh Cha Piô VII vào thế kỷ XIX đã công khai cho phép một số Giáo Phận mừng lễ Đức Trinh Nữ Vương. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã thiết lập một lời nguyện và một lễ kính Đức Trinh Nữ Vương đặc biệt. Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng dâng loài người cho trái tim vẹn sạch Đức Trinh Nữ Vương vào năm 1942 giữa lúc thế chiến thứ 2 đang ngập tràn. Năm 1944, chính Đức Giáo Hoàng Piô XII đã buộc mừng kính lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương trong Giáo Hội toàn cầu.
Muôn đời, nhân loại sẽ hiệp ý với Mẹ Trinh Nữ Vương ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa:” Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người “(Lc 11, 49-50). Mẹ là Nữ Vương cao sang, uy quyền. Mẹ là Nữ Vương tuyệt mỹ.
2024
Lòng Quảng Ðại Của Thiên Chúa
21.8 Thánh Piô X, Giáo Hoàng
Ed 34:1-11; Tv 23:1-3,3-4,5,6; Mt 20:1-16
Lòng Quảng Ðại Của Thiên Chúa
Vị giáo hoàng vĩ đại này có tên là Giuse Sartô, sinh năm 1835. Ngài là con trai của một người đưa thư ở Riese, nước Ý. Giuse có biệt danh dễ thương là “Beppi.” Khi quyết định muốn làm linh mục, Giuse đã phải cố gắng hy sinh rất nhiều để học hành. Nhưng Giuse chấp nhận tất cả. Giuse thậm chí đã đi chân không hàng dặm tới trường để tiết kiệm đôi giày tốt của mình. Sau khi được thụ phong linh mục, cha Sartô đã phục vụ tại các giáo xứ nghèo suốt 17 năm. Mọi người đều quý mến Sartô. Cha Sartô đã từng bán mọi thứ mình có để lấy tiền giúp họ. Các em gái của Sartô đã phải cất giấu mấy chiếc sơ-mi của ngài đi kẻo không thì Sartô sẽ chẳng còn gì để mặc. Dù sau này làm giám mục và hồng y, Giuse Sartô vẫn bố thí cho người nghèo những của cải mình có. Ngài chẳng hề giữ lại điều gì cho riêng mình!
Khi đức thánh cha Lêô XIII qua đời năm 1903, hồng y Sartô được chọn lên kế vị. Ngài nhận tước hiệu là Piô X. Ngài là giáo hoàng của bí tích Thánh Thể. Đức Thánh Cha Piô X đã khuyến khích mọi người hãy rước Chúa Giêsu Thánh Thể cách thường xuyên. Ngài cũng hạ thấp mức tuổi cho trẻ em để chúng được phép rước Chúa Giêsu vào lòng sớm hơn. Trước kia, để được lãnh bí tích Thánh Thể, các trẻ phải chờ đợi trong suốt nhiều năm. Ngài cũng là giáo hoàng của những chỉ dẫn tôn giáo. Ngài tin kính và yêu mến đức tin Công giáo. Ngài muốn mọi Kitô hữu đều được chia sẻ vẻ đẹp của các chân lý đức tin. Ngài thực sự quan tâm đến từng người với những nhu cầu vật chất và tinh thần của họ. Ngài khuyến khích các linh mục và các giảng viên giáo lý hãy cố gắng giúp mọi người học hiểu về đức tin Công giáo.
Khi Đại Thế Chiến thứ nhất bùng nổ, thánh giáo hoàng Piô X đã phải đau khổ nhiều. Ngài biết nhiều người sẽ bị giết chết. Thánh Piô X nói: “Cha sẽ vui mừng dâng hiến mạng sống cha để cứu những em nhỏ đáng thương khỏi nỗi đau kinh khủng này!” Về cuối đời, thánh nhân cũng nói: “Cha đã sống nghèo, và cha ao ước cũng được chết nghèo!” Piô X chẳng bao giờ giữ lại cho mình bất cứ của gì cho tới ngày về gặp Thiên Chúa. Giáo hoàng Piô X về trời ngày 20 tháng Tám năm 1914.
Giáo hoàng Piô X được đức thánh cha Piô XII tôn phong hiển thánh năm 1954. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên được phong thánh trong suốt 242 năm.
Thánh giáo hoàng Piô X hiểu rõ được tầm quan trọng của việc huấn giáo. Dạy trẻ em yêu mến Thiên Chúa và chuẩn bị cho chúng lãnh các phép bí tích là những ưu tư hàng đầu của thánh nhân. Cộng tác vào chương trình huấn giáo của giáo xứ chính là một cách chúng ta đang đóng góp phần mình để bảo tồn gia sản quý đẹp của thánh giáo hoàng Piô X.
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?”. Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.
Câu chuyện những người thợ làm vườn nho cũng là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Trước mỗi chặng đường của cuộc sống, chúng ta cũng lo lắng, chờ đợi, muốn tìm một đường đi, tìm một hướng đi cho đời mình. Chúng ta muốn sử dụng cuộc đời mình thế nào cho hữu ích. Chúng ta là những người thợ rất nhiều lần “không được ai mướn”, rất nhiều khi chúng ta chỉ biết chờ người khác mang đến sự may mắn, và rất nhiều lần chúng ta không thể làm gì cho đời mình được tươi sáng và có ý nghĩa hơn. Như vậy, mỗi ngày chỉ biết đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời. Giữa những lúc phân vân, giữa những nẻo đường ngang dọc, chúng ta hãy kiên tâm chờ đợi, Chúa sẽ đến gọi chúng ta đi làm vườn nho của Ngài. Ngài mở cho chúng ta một tương lai, trao cho chúng ta một sứ mạng. Ngài chỉ cho chúng ta thấy cách tốt nhất để khai thác và phát triển mọi tiềm năng của đời mình.
Thiên Chúa kiên nhẫn đến mời gọi chúng ta trong từng khoảng khắc, cả những lúc thất vọng của giờ mười một Ngài vẫn đến. Chúa đến là Ngài muốn chúng ta có một cuộc sống thật ý nghĩa, sống có ích, sống cho ra sống, sống xứng đáng với phẩm giá của mình, sống có tư cách, sống có danh dự. Chúa mời gọi mỗi người vào làm vườn nho là Ngài muốn chúng ta được hiệp thông vào sự sống thần linh của Ngài.