2024
CẨN TRỌNG VỚI CỦA CẢI
20.8 Thánh Bênađô, Gmtsht
Ed 28:1-10; Đnl 32:26-27,27-28,30,35-36; Mt 19:23-30
CẨN TRỌNG VỚI CỦA CẢI
Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.
Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sự rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần nặng nề khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o. Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến rũ của gia đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.
Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.
Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái.
Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.
Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được đức Alexandro III châu phê. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.
Thánh Bênađô nhắc nhở chúng ta rằng mỗi chúng ta là một sự khác biệt. Mỗi người chúng ta có thể cống hiến tài năng của mình để làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Nếu bạn phân vân không biết mình phải đóng góp điều gì, bạn hãy tha thiết cầu nguyện xin thánh Bênađô trợ giúp.
Của cải có sức thu hút và mê hoặc lòng người, bởi vì dường như nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu và đời sống hưởng thụ của con người. Chẳng vậy mà người đời có câu: “có tiền mua tiên cũng được”, hay “tiền là tiên là phật…” Người có nhiều tiền của được gọi là người giàu. Theo quan niệm của người Do-thái cũng như quan niệm của nhiều người thì đó là những người được phúc. Thế nhưng, lời của Đức Giê-su trong Tin mừng hôm nay gây sốc không những cho người nghe lúc bấy giờ (các môn đệ vô cùng sửng sốt) mà gây sốc cho rất nhiều người trong mọi thời đại: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (c. 24). Đồng thời ngược lại, Chúa lại hứa ban thưởng gấp trăm cả đời này lẫn đời sau cho những ai từ bỏ mọi sự mà theo Người.
Có mâu thuẫn không giữa những điều Chúa nói? Chẳng phải nếu Chúa ban cho họ gấp bội ở đời này thì họ lại trở thành người giàu hay sao, và khi ấy phải chăng họ lại trở thành những kẻ khó vào nước trời? Thực ra, mấu chốt của vấn đề là tinh thần từ bỏ; người có tinh thần từ bỏ không bị ràng buộc bởi của cải, hay nói khác đi, họ không bị của cải vật chất cản trở bước đường làm người môn đệ, nhưng biết dùng nó như phương tiện Chúa ban để sống theo ý Chúa. Vì thế, họ có thể là người rất giàu có về của cải nhưng luôn coi nó là hồng ân, là quà tặng của Thiên Chúa ban mà sống trong tinh thần tri ân, cảm tạ và luôn sẵn sàng chia sẻ, cho đi không tính toán.
Đã hẳn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải sống nghèo nàn mạt rệp. Vì cái nghèo cho thấy sự tồn tại của điều ác. Nó chỉ cho chúng ta biết xã hội, môi trường chúng ta sống vẫn còn đó sự bành chướng của ích kỷ; vẫn còn đó những con người không biết chia sẻ, chỉ biết vun đắp cho chính mình, thiếu vắng tinh thần quảng đại sẵn sàng cho đi của một tình yêu vị tha. Hơn nữa, sự nghèo túng, bần hàn, khốn cùng như ‘sự dữ hiện hình’ làm cho con người không còn nhân phẩm, sống không ra người và đó không phải là điều Thiên Chúa muốn; vì khi tạo dựng vũ trụ, con người, chẳng phải Thiên Chúa đã chúc phúc và ra lệnh cho nó sinh sôi và phát triển phong phú hay sao? Và Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô khi đến cứu độ trần gian Ngài đã đến với thân phận nghèo hèn khốn cùng của con người là để cứu vớt, nâng họ lên khỏi vực sâu của bần cùng tội lỗi cho họ trở nên ‘giàu có’ vì được làm con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự giàu có lại khiến con người dễ xa rời Thiên Chúa bởi mê lầm, tự mãn. Mê lầm vì nghĩ rằng của cải là cứu cánh có thể thỏa mãn tất cả, đem lại sung sướng và hạnh phúc – tiền có thể làm cho họ đạt được danh vọng, vinh quang và mọi thú vui ở đời – bởi thế mà ‘có tiền mua tiên cũng được’; và cũng từ đó dẫn đến tự mãn không cần Thiên Chúa, và tồi tệ hơn nữa là họ có thể quay lưng lại với Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa, bất chấp mọi thủ đoạn để có thể đạt được những ước muốn bất chính của mình. Vì vậy mà Đức Giê-su nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ… các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được” (Lc 16,13). Vì tiền của có thể là một tên đầy tớ tốt, hữu dụng, nhưng ngược lại nó sẽ là ông chủ xấu xa, độc ác.
Cuối bài Tin mừng, chúng ta thấy một câu có vẻ không ăn nhập gì lắm, nhưng thực ra là một ý hướng chủ đạo dẫn dắt bản văn: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.” (c. 30) Những kẻ ‘đứng chót’ ở đây – Đức Giê-su muốn nói đến những con người ‘nghèo’ của Tin mừng – những người sống khiêm tốn, chỉ biết cậy dựa vào Thiên Chúa chứ không cậy dựa vào thế lực của giàu sang vinh hoa phú quí; họ là những kẻ được Thiên Chúa yêu thương, bênh vực và là những ‘người lớn’ trong nước trời (Lời kinh Magnificat). Bởi vì họ lấy Chúa là sức mạnh, là gia nghiệp của đời mình. Họ là những người khôn ngoan biết tích lũy kho tàng trên trời nơi mối mọt không thể đục khoét hơn là tìm kiếm của cải phù vân (x. Lc 12,33); họ hiểu ý nghĩa và vị trí của tiền của, biến nó thành phương tiện để thi hành ý Chúa chứ không coi nó là mục đích của cuộc đời. Vì thế, họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và nước trời sẽ là phần thưởng của họ. (c. 28. 29)
Như đã nói: Tiền của có sức hút và mê hoặc con người – ‘Đồng tiền đi liền khúc ruột’ – do đó, để có thể làm chủ được nó, con người không được khinh suất, nhưng rất cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Bởi thế mà Đức Giê-su đã nói: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” (c. 26) Với sự hướng dẫn và ơn Chúa ban, con người sẽ biết cách sử dụng tiền của để mưu cầu lợi ích cho mình và cho tha nhân, giúp phát triển xã hội ngày càng tươi đẹp, lành mạnh và phong phú.
2024
Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
19.8 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
Ed 24:15-24; Đnl 32:18-19,20,21; Mt 19:16-22
Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.
Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời.
Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: “Anh chỉ còn thiếu một điều”.
Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.
Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Chọn Chúa chứ không phải chọn việc của Chúa. Đó là châm ngôn sống của đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Sinh thời, trong những tháng ngày sống trong lao tù, giữa những làn ranh của sự sống và cái chết, giữa những cám dỗ muốn tự do hay buông xuôi cho số phận. Ngài luôn luôn kiên định và ý thức rằng chọn Chúa, sống theo thánh ý Chúa, để Chúa hướng dẫn cuộc đời, ơn gọi và sứ mạng. Chính việc phó thác, cậy trông vào sự quan phòng và lòng xót thương của Chúa đã giúp ngài vượt qua muôn vàn những thử thách để sống niềm tin đã chọn và làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh không mong muốn.
Những mẫu người được Chúa yêu, chọn, chúc phúc và dẫn dắt theo đường lối quan phòng của Ngài đã từng được Kinh thánh nhiều lần nhắc tới. Tiên vàn họ là Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào đường lối Thiên chúa, dám từ bỏ tất cả, lên đường đến vùng đất hứa. Ông để đời mình cho Chúa dẫn dắt và lèo lái. Ông được gọi là người cha của đức tin và của nhân loại.
Kế đến, họ là Môsê, bỏ qua những thương lượng, trả giá nơi bản tính nhân loại, Môsê đi theo tiếng gọi của Chúa dẫn đưa dân Người về tới bến bình an. Và còn rất nhiều những mẫu gương, những chứng nhân trong thời đại này khi mà họ đặt cả cuộc sống và ơn gọi của mình vào sự quan phòng và hướng dẫn của Thiên Chúa. Họ là Phanxicô khó nghèo. Họ là Inhaxiô đầy quyền lực. Họ là Gioan Phaolô II nhiều danh tiếng…Tất cả họ đã chọn Chúa là gia nghiệp đời mình lên trên hết mọi sự, họ đã tự nguyện phó thác ơn gọi và sứ mạng cho Chúa sinh hạt, nảy mầm.
Câu chuyện trong bài Tin mừng ngày hôm nay, thánh Mátthêu lại trình bày cho chúng ta về một chàng thanh niên dường như lại đi ngược với những giá trị mà các thánh nhân đã sống. Anh đã chọn công việc của Chúa hơn là sống ơn gọi mà Ngài đã trao phó. Khi nghe danh tiếng của Chúa Giêsu, anh muốn đi theo và trở thành môn đệ của Ngài. Thật vậy, tất cả những đòi hỏi nơi Chúa Giêsu đã được anh giữ trọn và sống một cách triệt để. Những yêu cầu nơi Chúa Giêsu xem ra như một tấm vé hạng sang để anh trở thành đệ tử ruột và xứng đáng đạt phần thưởng sự sống đời đời.
Tuy vậy, Chúa Giêsu còn muốn người môn đệ của mình đi xa hơn nữa, xả thân và hy sinh hơn nữa nếu muốn ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Đó là Người yêu cầu anh bán hết những tài sản mình có để cho người nghèo. Nghe đến đây, anh buồn rầu bỏ đi. Anh không dám bỏ của cải, vật chất, mồ hôi nước mắt của anh. Anh đã đặt để công việc của anh và của Chúa trên giá trị của Tin mừng. Anh đã để cho sự ràng buộc của thế gian trên những yêu cầu của Nước Trời.
Câu chuyện của anh nhà giàu trên đây cũng là bài học cho nhiều người Ki-tô hữu chúng ta. Có thể chúng ta đang sống rất tốt lành và đúng bổn phận của một tín hữu ngoan đạo. Chúng ta đang thực thi những công việc của Chúa và Hội thánh dạy một cách rất tường tận và chu đáo. Thường xuyên tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, chịu khó đọc kinh sáng tối, năng học hỏi Giáo lý và các giáo huấn của Giáo hội. Tuy vậy khi phải đối diện với những nghịch cảnh của đời mình như ốm đau, bệnh tật, thiên tai và những trái nghịch xảy ra cho bản thân và gia đình, chúng ta lại kêu than và ca cẩm Chúa. Đứng trước những thử thách này dường như chúng ta đang lấy những công phúc và khó nhọc của mình để ra giá và ăn vạ Chúa. Con người hữu hạn nơi chúng ta là như vậy.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhìn vào gương của các thánh nhân, lấy cuộc đời và ơn gọi của các ngài làm gương soi và đặt để đời mình vào đời Chúa. Nhất là xin cho mỗi người chúng ta có trái tim của Chúa để ôm ấp tất cả những nghịch cảnh ở đời này, có đôi tay của Chúa để đón chào tất cả những khó khăn và đặc biệt có khối óc của Chúa để biết phân biệt và chọn lựa công việc trong đời sống hàng ngày. Có Chúa, ở với Chúa, chúng ta sẽ có tất cả như lời thánh vịnh 126 đã nói: Kẻ được Chúa thương, dầu có ngủ, Ngài vẫn ban cho đủ tiêu dùng.
Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.
2024
Chúa Giêsu Với Trẻ Nhỏ
17.8 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Ed 18:1-10,13,30-32; Tv 51:12-13,14-15,18-19; Mt 19:13-15
Chúa Giêsu Với Trẻ Nhỏ
Trong tâm thức nhiều người, khi người lớn nói chuyện, con nít không được đến quấy rầy. Vì vậy, các môn đệ đã ngăn cản các trẻ em đến với Chúa Giê-su. Tuy nhiên, cái nhìn của Chúa Giê-su lại khác. Ngài không quan tâm đến việc các em có quấy rầy hay không, nhưng nhìn vào tâm hồn của các em, những tâm hồn đơn sơ, chưa vướng tội luỵ và Ngài đã chúc phúc cho chúng. Chúa mong muốn những người theo Ngài có được tâm hồn như chúng để đón nhận Tin Mừng, để gia nhập vào Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, những ai không có tâm hồn đơn sơ, trong sạch thì không thể vào được Nước Trời.
Các trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời. Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.
Tin Mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay đề cập đến trẻ nhỏ trong một hoàn cảnh khác, với những lời của Chúa Giêsu: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời”. Người ta dẫn các trẻ em đến với Chúa Giêsu để Ngài đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Ðặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do thái giáo thời Chúa Giêsu. Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành; họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù theo phong tục người Do thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.
Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo Hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đức trẻ. Các nhà chú giải đã xem đoạn Tin Mừng này như là căn bản cho việc rửa tội trẻ nhỏ được cộng đoàn tiên khởi thực hiện.
“Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng”. Chúng ta có thái độ kỳ thị, ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Chúa không? Có những người lớn, những bậc cha mẹ rơi vào tâm thức của các môn đệ ngày xưa: họ không đem con cái đến với Chúa Giêsu, họ không nêu gương sống đức tin cho con cái, cũng không muốn cho con cái lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nại lý do tôn trọng tự do của con cái, đợi chúng lớn lên và tự quyết định muốn rửa tội hay không. Ðây là thái độ sai lầm về ơn cứu rỗi của Chúa: Ơn Chúa được ban nhưng không cho mọi người, chúng ta là ai mà dám xét đoán về điều kiện tuổi tác để được Chúa chúc lành và ban ơn cứu rỗi.
“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”. Nếu nước Thiên Chúa là của những ai giống như trẻ nhỏ, thì thật khó cho chúng ta – những người trưởng thành có thể vào nước Trời. Bởi vì chúng ta không là trẻ nhỏ, và vì chúng ta thường có khuynh hướng lý tưởng hoá sự ngây thơ của trẻ con, điều có vẻ gây nhiều ấn tượng cho chúng ta, nhưng đây không phải là điều Chúa Giêsu muốn nói tới, sự ngây thơ của trẻ con với chúng ta là điều bất khả thi.
Tại sao nước Thiên Chúa là của những ai giống như trẻ con? Tại sao con nít có thể vào nước Trời như lẽ tự nhiên? Chúa Giêsu không tôn vinh sự ngây thơ của con trẻ, mà đúng ra Chúa Giêsu tôn vinh trẻ nhỏ vì chúng không có ảo tưởng về cái tôi toàn năng của mình. Có thể nói, trẻ nhỏ không có lựa chọn nào khác ngoài lựa chọn phải phụ thuộc và cần sự trợ giúp của ai đó: đó có thể là ông bà, cha mẹ, anh chị hay những người trưởng thành mà chúng tin tưởng.
Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta.
Điều làm Chúa hài lòng và chúng ta có thể hiểu đúng Lời Chúa dạy: “Nước Trời là của những ai giống như trẻ nhỏ”, đó là chúng ta không ảo tưởng về chính mình khi tự cho mình toàn năng, giỏi giang, hiểu biết, không cần ai khác, không cần sự trợ giúp của người thân cận, thậm chí không cần Chúa. Điều Chúa muốn nói là chúng ta đừng tự phụ, đừng nghĩ mình có thể lo cho chính mình mà không cần ai giúp đỡ; khi trẻ nhỏ đói, chúng sẽ nói: con đói, hoặc không ai cho chúng ăn, chúng sẽ đói. Chúng ta là những người trưởng thành phải luôn luôn nói điều này: xin giúp con!
2024
KHẾ ƯỚC HÔN NHÂN
16.8 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Ed 16:1-15,60,63; Ed 16:59-63; Is 12:2-3,4,5-6; Mt 19:3-12
KHẾ ƯỚC HÔN NHÂN
Không khi nào hơn lúc này, những nhà xã hội học, các nhà đạo đức học, những người đứng đầu các tôn giáo, các quốc gia lại quan tâm cách đặc biệt về sự bền vững trong hôn nhân gia đình. Là tế bào của xã hội, là cộng đồng cơ bản của Hội Thánh, vai trò của gia đình luôn có tầm quan trọng mà không có tổ chức hay đoàn thể nào có thể thay thế cách hữu hiệu. Một xã hội mà đời sống hôn nhân thiếu bền vững, thì có thể nói là đang trên đà băng hoại. Chính vì thế Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dường như xoáy trọng tâm vào đời sống hôn nhân mà chủ đề chính là sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu phụ.
Làm sao để gìn giữ sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu thê giữa một xã hội đầy biến động và chóng đổi thay như hôm nay ? Một trong những cách thế gìn giữ sự thủy chung, trước sau như một của đời hôn nhân, đó là sống trong sự tín thác vào tình yêu. Không chỉ biết xây dựng lòng tin vào tình yêu của nhau mà còn hướng tâm trí của mình về hoa trái của tình yêu, đó là một trong những cách thế tuyệt vời để gìn giữ mối dây liên kết bất khả phân ly giữa vợ chồng. Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không được phân ly. Sự kiện vợ chồng nên một xương một thịt đã được cụ thể hoá qua hình ảnh Thiên Chúa lấy xương sườn Ađam để dựng nên Evà. E-và như thân cây được Thiên Chúa làm cho nẩy sinh từ gốc cây A-đam; gốc cây và thân cây chỉ là một, nên A-đam và E-và cũng chỉ là một. Thế nên khi Thiên Chúa trao Evà cho Ađam, ông vui mừng mừng xác nhận rằng nàng không là ai xa lạ mà chỉ là xương thịt của mình: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. (Sáng Thế 2, 18-23)
Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt. Cái sự nên một xương một thịt này được hiện thực hóa nơi chính người con, một kết quả hữu hình của tình yêu đôi lứa. Trong hôn nhân, tuy người nam và người nữ là hai chủ vị khác nhau, nhưng họ được Thiên Chúa liên kết thành một với nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ là một như A-đam, E-và là một với nhau.
Chúng ta biết, hai trường phái Pharisêu thường không đồng tình với nhau về việc ly dị. Vì lẽ, theo truyền thống, nhóm Hilen dựa vào Đệ nhị luật (24,1) cho phép ly dị dù bất cứ lý do gì, còn phe Shammai chỉ cho ly dị vì lý do ngoại tình. Biệt phái biết đây là vấn đề hóc búa, nên họ đến để vừa hỏi vừa thử thách Chúa Giêsu.
Hôm nay, nhân việc những người Pha-ri-siêu đến gặp Chúa và thử thách Người về vấn đề hôn nhân và sự chung thủy. Những người Biệt Phái nại vào truyền thống cha ông, ở đây là Mô-sê, để biện minh cho việc người ta được quyền ly dị vợ vì những lý do mà họ thấy không thích. Còn Chúa, Chúa tuy không phủ nhận truyền thống tiền nhân, nhưng Chúa nại vào ý định của Đấng Tạo Hóa khi dựng nên giống hình ảnh của Chúa. Khi nại vào ý định của Thiên Chúa để bênh vực cho hôn nhân và sự chung thủy bất khả phân lý của nó, Chúa không phải là người trích dẫn mà chính là: Mạc khải ý định của thiên chúa với hôn nhân gia đình trong tư cách là đấng tạo thành trời đất cùng với Chúa Cha và Thánh Thần.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà đời sống hôn nhân gia đình gặp quá nhiều sóng gió thử thách. Chính vì điều này, nhiều quốc gia, thậm chí tôn giáo nhân danh tự do và hạnh phúc của cặp đôi để cho phép ly dị. Họ lập luận rằng không sống được với nhau thì chia tay. Thà mất hai để được bốn. Ý họ muốn nói hai người chia tay để tìm kiếm một hôn nhân khác hạnh phúc hơn. Nhưng ai dám bảo đảm hôn nhân mới sẽ hạnh phúc. Thống kê chỉ ra rằng hơn ¾ những cặp đôi ly dị trước đó đã ly hôn. Nguy hiểm hơn, nhiều người Công Giáo hôm nay cũng chạy theo cách sống này trong hôn nhân để ly dị người mà trước Chúa, Hội Thánh, cộng đoàn Dân Chúa, cha mẹ, họ hàng đôi bên và bạn bè thân hữu, để nói lời cam kết yêu thương thủy chung với người họ yêu đến trọn đời.
Cũng qua cuộc đối thoại này, khi những đối thủ của Chúa nghĩ rằng: đời hôn nhân mà khó khăn như vậy thì tốt hơn đừng kết hôn. Đáp lại Chúa cho thấy, điều quan trọng không phải là kết hôn hay sống độc thân nhưng là vì điều gì ta chọn sống tình trạng ấy trong đời. Nếu ta bị cưỡng bức, không có tự do trong chọn lựa của mình, thì dù ta sống ơn gọi nào đi nữa, cũng không mang lại hạnh phúc cho mình và cho người. Tự do trong tình yêu và trách nhiệm với Chúa và tha nhân sẽ làm cho cuộc sống, dù hôn nhân gia đình hay độc thân vì Nước Trời vẫn có giá trị trước mặt Chúa và được Chúa chúc phúc.
Qua đây, Chúa Giêsu đã khẳng định lại cho họ biết về luật đơn hôn của hôn nhân. Một lập trường giáo lý rất cách mạng, trái ngược hẳn với luật lệ và phong tục thời đại để trở về với ý định nguyên thủy của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, Người còn muốn nhấn mạnh đến giá trị của việc tự nguyện sống độc thân trọn vẹn để phục vụ nước Trời.
Vấn đề ly dị dường như càng ngày càng trở nên một vấn nạn và là một nỗi lo rất cấp thiết của xã hội. Có người lý luận rằng: “Hôn nhân là để sống hạnh phúc với nhau, nếu không còn hạnh phúc nữa thì sống chung làm gì cho khổ”. Nghe qua có vẻ có tình có lý, nhưng nếu quan niệm như vậy thì còn đâu ý nghĩa của gia đình, đâu là nền tảng của hôn nhân? Đó chỉ là thứ hôn nhân để tìm thú vui ích kỷ cho bản thân, chứ không nhằm yêu thương và phục vụ nhau.
Trong luật lệ, đôi khi cũng có những miễn chuẩn, nhưng đó chỉ là tạm thời chứ không được lạm dụng; và do vậy, cần luôn nhìn đến mục đích của luật để sống đúng thánh ý Thiên Chúa và Giáo hội mong muốn.
Khi sự bất trung, bất tín xuất hiện và lan tràn như chuyện cơm bữa, trở thành chuyện thường tình, thì mọi mối tương quan giữa các cá nhân cũng như tập thể chắc chắn bị gãy vỡ. Nay ký kết hôn ước, mai đường ai nấy đi thì còn gì là hôn nhân ! Nay ký hợp đồng, mai lại tùy tiện hủy bỏ thì còn gì là thương mại, bán mua ! Nay ký hiệp ước, mai lại đơn phương rút, hủy thì còn gì là quan hệ đối tác ! Tuy nhiên, cũng cần chân nhận rằng “nhân bất thập toàn”. Phận người thì khó tránh khỏi những sai lầm đáng trách hay có thể lượng thứ. Không kể các trường hợp cố tình và cố chấp, thì để gìn giữ sự thủy chung thì phía người lỗi phạm cần có sự khiêm nhu, chân thành nhìn nhận sai sót và phía còn lại cần có sự quảng đại, bao dung, tha thứ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn Nhân trong Giáo Hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do con người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và thủy chung với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo Hội và không bao giờ xa lìa Giáo Hội. Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa se kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Đức Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”.