2024
Thân phận người theo Chúa
4.5Thứ Bảy trong tuần thứ Năm Mùa Phục Sinh
Cv 16:1-10; Tv 100:1-2,3,5; Ga 15:18-21
Thân phận người theo Chúa
Chúa Giêsu đã cho họ biết trước rằng làm môn đệ Ngài thì phải chấp nhận bị thế gian thù ghét. Nhưng thực tế, chúng ta một mặt tránh làm những gì khiến thế gian thù ghét mình, mặt khác còn tìm cách để thế gian yêu thương chiều chuộng mình. Hẳn là chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng không nên quên Lời Chúa nói: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
“Vì các con không thuộc về thế gian… nên thế gian ghét các con.” Người thế gian coi tiền bạc trọng hơn đạo đức, lọc lừa nhiều hơn là chân thật, ai cũng ích kỷ lo cho bản thân, thậm chí chà đạp lên người khác… Kitô hữu không thể sống như họ, cho nên bị họ thù ghét. Vậy, nếu vì phải sống theo lý tưởng tốt đẹp của mình mà bị thế gian thù ghét, chúng ta hãy chấp nhận.
“Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước.” Chúng ta còn chấp nhận bị thế gian thù ghét vì lý do chúng ta làm môn đệ Chúa, chúng ta phải vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu bị ngược đãi và bị bắt bớ, vì Ngài không thuộc về thế gian. Người môn đệ của Chúa cũng không thuộc về thế gian nữa. Vì thế, họ cũng sẽ bị thế gian ghét bỏ và ngược đãi như Chúa. Chúng ta tin và đi theo Chúa, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều gian nan, thử thách và đau khổ. Nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và Ngài cũng cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng. Quan trọng là chúng ta có tin vào Ngài và can đảm chấp nhận bị ngược đãi, bị thua thiệt, bị mất mát vì Ngài hay không?
Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ: “Thế gian sẽ thù ghét các con”. Lời Chúa nói lúc nào cũng đúng cho thời bấy giờ và sau này. Lý do thế gian ghét chúng ta: vì chúng ta không thuộc thế gian cũng như Chúa không thuộc về thế gian. Họ ghét Chúa thì các môn đệ cũng bị ghét lây. Ca dao Việt Nam có câu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Nhân tình thế thái thời Chúa Giêsu cũng không ra khỏi cái lẽ thường ấy. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
Từ ngữ “thế gian” mang hai ý nghĩa: thứ nhất, chỉ nhân loại cách chung, ví dụ: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian”. Thứ hai thế gian là “là những người không chấp nhận Đức Giêsu và thù ghét Ngài. Đây là ý nghĩa trong đoạn Tin mừng này.
Chúa Giêsu phân tích cho các môn đệ hiểu tình cảnh của các ông giữa một thế giới thù nghịch với Chúa: thế gian ghét Chúa thì cũng ghét ai theo Chúa. Sự hiện diện của Chúa phân tách thế giới thành sáng và tối, và Ngài trở thành cớ cho những kẻ ở trong bóng tối ghét bỏ Ngài và những người sống theo ánh sáng, bởi vì ánh sáng phơi bày công việc gian tà của họ.
Nếu các tín hữu Kitô có bị bách hại là bởi vì niềm tin Kitô là thách đố và tra vấn cho những lương tâm con người. Nhìn lại các cuộc bách hại đã và đang diễn ra trong các chế độ toàn trị, người ta cũng thấy rằng: chính vì chủ trương duy vật vô thần mà các chế độ độc tài bách hại Giáo hội. Chính vì đến để làm chứng và nói lên sự thật mà Chúa Giêsu đã bị chống đối, khước từ và loại trừ. Ngày nay, bất cứ ai sống cho sứ mạng ấy, dù đang sống trong xã hội nào cũng đều bị bách hại cách này hay cách khác.
Năm 1968, khi Đức Phaolô VI ra thông điệp “Sự Sống Con Người”, trong đó Ngài lên án não trạng chống lại sự sống của con người thời đại, người ta đã có lý để gọi Ngài là một người chống lại cả thế giới.
Có một điều hiển nhiên đó là: làm người chẳng ai muốn mình bị thù ghét. Thế nhưng, một điều khác hiển nhiên không kém, đó là một khi đã đi theo Đức Kitô để thuộc về Ngài thì: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15, 20). Đó là một thực tế phũ phàng không có lựa chọn nào khác… Dĩ nhiên, Đức Kitô không chọn cách sống để bị thù ghét, mà là chọn sự thật, một sự thật đến từ Chúa Cha, và cũng trong chính sự thật ấy người ta đã ghét Ngài: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19).
Mang thân phận là Kitô hữu, chúng ta phải đối diện với sự thù ghét của thế gian, nếu không chúng ta chỉ là Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Vấn đề không phải sống làm sao để đừng bị ghét, mà phải ứng phó với thực tế ấy như thế nào? Đức Kitô vẫn yêu thương con người đến cùng. Ngài sẵn sàng đón nhận sự thù ghét, chấp nhận chết để thực hiện ơn tha thứ, kể cả với kẻ ghét mình. Đó cũng là con đường Ngài mời gọi chúng ta bước theo, nếu muốn thành môn đệ của Ngài, là Kitô hữu thực thụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu Kitô hữu của mình. Khi mang danh hiệu này, chúng ta thuộc về Đức Kitô, được thông phần đau khổ với Ngài, và được vinh hạnh cùng Ngài cứu chuộc thế giới ngang qua những đau khổ mà chúng ta phải chịu vì danh Đức Giêsu. Vì thế, những trái khoáy dồn dập tư bề, những đau khổ về tinh thần cũng như thể xác như: bị bắt bớ, đánh đập và ngay cả cái chết… chúng ta hãy vui mừng hân hoan, bởi lẽ vì được thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.
2024
TIN VÀ HÀNH ĐỘNG
3.5 Thứ Sáu – Thánh Philipphê và Giacôbê, Tông Đồ
Cv 15:22-31; Tv 57:8-9,10-12; Ga 15:12-17
TIN VÀ HÀNH ĐỘNG
Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.
Thánh Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêrusalem.
Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.
Thánh Philipphê xưa kia xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha, chứng tỏ các ngài vẫn chưa hiểu được Thầy đúng mức. Hôm nay đúng ra chúng con đã biết nhiều về Chúa hơn, có kiến thức về triết học, thần học… và nghe mọi lời Chúa dạy dưới ánh sáng Phục Sinh. Tuy nhiên, rõ ràng là các Tông đồ có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Giêsu đối với mình thế nào, còn con hôm nay nhiều lúc chỉ tìm kiến thức suông thay vì đi tìm chính Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết nhìn lên Thập Giá Chúa và lắng nghe lời giảng của Chúa để hiểu được tình yêu Chúa và chương trình Chúa muốn dành cho từng người chúng con.
Chúa Giêsu luôn ở trong Chúa Cha. Ngài hiện hữu từ đời đời và cùng với Chúa Cha sáng tạo vũ trụ. Hôm nay ngài đến cứu độ chúng ta và cho thấy tình thương của Chúa Cha đố với loài người chúng ta. Thật lạ lùng khôn xiết! Qua Chúa Con, Chúa Cha nhận tất cả mọi người làm con. Phần chúng con phảI biết tin giữ lời Chúa, luôn gắn bó với Chúa Con để khi chúng con chết trong Ngài thì cũng được phục sinh với Ngài và hưởng hạnh phúc thanh nhàn cùng Ngài trên Thiên Quốc.
Thánh Philipphê là người trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: vừa khi được Chúa kêu gọi đã tin vào Chúa Giêsu và tìm Nathanael để giớI thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanael cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa. Khi những ngườI Hy lạp muốn gặp Chúa Giêsu, chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến vớI Chúa Giêsu. Chính ngài cũng xin Chúa Giêsu cho ngài và các Tông đồ thấy Chúa Cha.( Ga 14,7-9).
Về hạnh Thánh Giacôbê, chúng ta thấy:sau khi Chúa Giêsu về trời ngài đã lên tiếng cho những người ngoại giáo được gia nhập Kitô giáo mà không phải cắt bì (Cv 15, 13 -21). Ngài đã đem nhiều người Do thái và cả dân ngoạI trở về chính đạo… Noi gương các ngài, chúng con ý thức nhiệm vụ giớI thiệu Chúa cho mọi người. Xin các ngài giúp chúng con biết kết hiệp với Chúa Giêsu trong mọi việc làm, lời nói và ý tưởng, thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa đời này và đời sau.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Như Philipphê đã giới thiệu Chúa cho Nathanael, chúng ta cũng hãy giới thiệu Chúa cho những người xung quanh chúng ta. Nhưng để giới thiệu Chúa cho người khác thì chính chúng ta phải gặp gỡ Chúa trước, phải hiểu biết về Ngài, phải có niềm xác tín vào Ngài là Thiên Chúa: Gặp Chúa qua việc đọc và suy niệm Kinh Thánh; gặp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích; gặp Chúa qua đời sống cầu nguyện…Để khi có người nghi ngờ về lời giới thiệu của chúng ta, chúng ta có thể nói với họ như Philípphê đã nói với Nathanael rằng: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Như Philipphê dẫn người Hilạp đến gặp Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm dẫn người khác đến gặp gỡ Chúa. Cha xứ dẫn đoàn chiên trong giáo xứ tới gặp Chúa. Thầy cô giáo lý viên dẫn dắt học sinh tới gặp Chúa qua các giờ giáo lý. Cha mẹ dẫn con cái của mình tới gặp Chúa. Người kitô hữu dẫn những người lương dân tới gặp Chúa…
“Đức Tin không có hành động quả là đức tin chết”(Gc 2,17), thánh Giacôbê đã nói như vậy. Vì vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta không những rao giảng Tin mừng bằng lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Để nhân loại nhận ra Chúa qua chúng ta.
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa chọn qua bí tích Rửa Tội; và vì vậy, chúng ta cũng được diễm phúc: thấy những việc Chúa làm trong cuộc đời mình; nghe những lời Chúa nói qua Tin Mừng, qua Giáo Hội; được sai đi loan báo Tin Mừng và làm chứng bằng đời sống gương mẫu về công bình, bác ái, niềm tin, lòng trông cậy và tình mến Chúa.
Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh.
2024
Yêu mến và vâng phục
2.5 Thứ Năm – Thánh Anathasiô, Gmtsht
Cv 15:7-21; Tv 96:1-2,2-3,10; Ga 15:9-11
Yêu mến và vâng phục
Theo thời gian, thánh Athanase là tiến sĩ đầu tiên trong số tiến sĩ và Giáo phụ của Hội thánh. Các Giáo Hội Coptes và Byzantin từ lâu đã kính nhớ thánh nhân vào ngày 2 tháng 5. Lễ này được các tín hữu ở Pháp biết đến vào thế kỷ XII và tại Rô-ma vào thế kỷ XVI mà thôi.
Thánh nhân là người Ai Cập, gốc Alexandrie, sinh vào cuối thế kỷ thứ III. Khoảng năm 313, giám mục Alexandrie bảo trợ cho ngài và như thế, cậu thanh niên Athanase được gia nhập vào hàng giáo sĩ tại Alexandrie. Ngài biết nói tiếng cổ Ai Cập, tiếng Hy Lạp bình dân và Hy Lạp cổ điển. Khoảng năm 320, ngài viết tác phẩm đầu tay: Luận thuyết về Lương dân và Ngôi Lời Nhập Thể, trong đó, một trong các chủ đề chính được phát biểu như sau: “Công cuộc cứu rỗi không phải do từ một kẻ chết, mà do từ một Đấng sống động là Thiên Chúa”.
Năm 325, sau khi làm phó tế được 5 năm và thư ký cho giám mục thành Alexandrie, ngài được tham dự Công đồng chung thứ nhất tại Nicée (ngày nay là Isnik, ở Thổ Nhĩ Kỳ). Công đồng chung này được triệu tập “nhằm tái lập sự hiệp nhất đang bị đe dọa nặng nề”. Thật vậy, linh mục Arius đã truyền bá một lạc thuyết, chủ trương “Ngôi Lời Thiên Chúa không hiện hữu từ đời đời, nhưng được Thiên Chúa Cha sinh ra trong thời gian”. Lúc ấy, Athanase còn là một phó tế trẻ ba mươi tuổi, đã nổi bật như một nhà vô địch, đấu tranh cho đức tin chính truyền. Nhờ tài hùng biện và sức thuyết phục, ngài được nhóm lạc giáo Arius nể sợ.
Sau cùng, ngày 19 tháng 6 năm 325, đúng theo chiều hướng của lời Athanase biện hộ, và sau khi công bố “Ngôi lời đồng bản thể với Chúa Cha”, Công đồng soạn thảo lời tuyên xưng đức tin mà chúng ta được biết như ngày nay, dưới tên gọi là “Kinh Tin Kính của Công đồng Nicée”: “Tôi tin một Thiên Chúa duy nhất… Tôi tin một Chúa Giêsu Kitô…”
Athanase được bổ nhiệm làm giám mục Alexandrie lúc ba mươi lăm tuổi. Nhưng cuộc khủng hoảng do nhóm Arius gây nên vẫn tiếp tục gia tăng, khiến ngài phải sống một cuộc đời lưu đày. Trong bốn mươi năm làm giám mục, ngài phải sống mười tám năm lưu đày: ở Trèves bên nước Đức, tại Rôma, rồi sa mạc Ai Cập… Tuy nhiên, bất chấp tất cả, thánh tiến sĩ vẫn viết được một tác phẩm đáng kể: Luận thuyết chống bè Arius; Chống lương dân; Bàn về Ngôi Lời Nhập Thể; Thư gửi Épictète; Thư gửi Sérapion; Các thư mục vụ … và cuốn Tiểu sử thánh Antôn là tác phẩm ưa chuộng nhất và là cuốn sách mẫu mực về hạnh các thánh. Bộ sách quí giá này đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu biết và phổ biến lối sống đan tu lúc khởi đầu.
Athanase qua đời đột ngột trong đêm 02 rạng ngày 03 tháng 05 năm 373, thọ bảy mươi tuổi, trong khi được thánh Basile thành Césarée khuyến khích, ngài đang tích cực chăm lo tái lập sự hiệp nhất trong Giáo hội Antiochia.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Ngài: Ngài yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã yêu Ngài. Tất cả những gì Chúa Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha, Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Chúa Giêsu dạy chúng ta biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
Có một tác giả đã viết trong một bài ca của ông như sau: “Dù anh lấy bầu trời làm giấy, lấy nước biển làm mực, đốn cây rừng làm bút viết, và dùng con người trên thế giới trải qua mọi thời đại làm người viết, thì anh cũng không bao giờ diễn tả hết được tình yêu Thiên Chúa”. Đây là một kiểu nói có tính cách khoa đại, nhưng không phải là không đúng sự thật, vì Kinh thánh nói: “Từ muôn thuở Chúa đã yêu con”, “Chúa yêu con từ khi con chưa có tuổi, từ khi chưa có sao trời”. Nếu xét về hiện hữu thì con người chẳng hơn gì sự có mặt của muôn tinh tú trong thái dương hệ bao la này. Nhưng vũ trụ bao la ấy một ngày kia sẽ trở về hư không như lời Kinh thánh: “Trời đất này sẽ qua đi”. Nhưng khi mọi sự qua đi, thì chính con người sẽ tồn tại mãi mãi, tồn tại cả xác lẫn hồn.
Theo kinh nghiệm, hễ đã yêu thương ai, hẳn chúng ta muốn sống bên cạnh người ấy, để chia sẻ và lấy sở thích của người ấy làm của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống nữa là tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Đức Giêsu đã rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ luôn ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng phục lệnh truyền của Cha Ngài. Đó là điều được ghi lại trong bài Tin mừng hôm nay.
Ở lại trong tình yêu là luôn hướng về nhau: Nghĩa là dù phải “xa mặt nhưng không cách lòng”, không gian địa lý hay thời gian cách biệt cũng không thể tách rời hai con tim đang hướng về nhau. Cũng thế, khi Kitô hữu yêu mến Đức Kitô thì luôn luôn nhớ và kết hiệp với Người mọi nơi mọi lúc trong mọi sinh hoạt của cuộc sống.
Ở lại trong tình yêu là giữ lời nhau: Khi yêu nhau thật lòng người ta không quản ngại thực hiện những gì đòi hỏi phải có dành cho nhau; cam kết những ràng buộc trong tình yêu.
Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Con khi phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các con hãy vâng nghe lời Người”. Kitô hữu không thể nói yêu Chúa mà không giữ giới răn của Chúa. Kitô hữu yêu Chúa là làm theo ý Chúa và giữ điều răn Chúa. Bởi vì như Đức Giêsu đã nói rõ điều kiện: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy, các con ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15, 10).
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu biết rằng mình chẳng còn ở lại một cách hữu hình với các môn đệ được bao lâu nữa, do đó, để tránh cho các môn đệ cảnh xa mặt cách lòng, Chúa Giêsu mời gọi và truyền dạy các ông một phương cách mới để duy trì tình yêu đối với Ngài, đó là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài, như Ngài đã tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha và luôn kết hợp với Ngài. Chúa Giêsu chia sẻ cho các môn đệ kinh nghiệm sống của Ngài với Chúa Cha và lấy đó làm lý tưởng cho cuộc sống đức tin của các môn đệ trong thời gian sau biến cố Phục sinh, thời gian của sự dấn thân làm chứng cho Ngài. Người làm chứng cho Chúa phải sống kết hợp với Chúa, tuân giữ các lệnh truyền của Ngài, và quan trọng nhất là lệnh truyền: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy”, đó là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại: Tất cả những gì Chúa Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha. Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Và nhân loại cũng phải trao cho nhau như Đức Giêsu đã truyền: Biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy sống trọn vẹn tình yêu, theo mẫu mực tuyệt hảo như Thiên Chúa yêu thương. Ta hãy giữ giới răn của Chúa Giêsu để sống trong tình yêu của Người.
2024
Thánh Giuse – Mẫu gương của lao động
1.5 : Thứ Tư – Lễ Thánh Giuse lao công
Cv 15:1-6; Tv 122:1-2,3-4,4-5; Ga 15:1-8
Thánh Giuse – Mẫu gương của lao động
Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích Kitô-giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc, thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.
Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Chúa Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ khôn ngoan”.
Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái”. Sách này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân: “Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là vị cao trọng nhất… Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa… Kẻ nào nuôi sống mình bằng sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong các tâm tình đạo đức…”
Lời nguyện trong Thánh lễ gợi cho chúng ta “Gương thánh Giuse”, được Tin mừng gọi là “người thợ mộc” (Mt 13,55). Truyền thống cho thấy ngài sống thân tình với Đức Maria, hôn thê của mình và với trẻ Giêsu, chính Người cũng được gọi là “bác thợ mộc” (Mc 6,3). Như thế cả ba vị đều tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ; Người muốn con người lao động để tôn vinh Người và tiếp tục công trình sáng tạo của Người (lời nguyện nhập lễ).
“Giuse trong xóm nhỏ khó nghèo…”
Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse… Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 – 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang… dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp…
Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách…
Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực…
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu về giảng tại quê hương của mình cũng làm dấy lên những thông tin trái chiều về Ngài. Những người đồng hương Nazareth có lẽ đã nghe đồn thổi về Ngài và càng ngạc nhiên hơn khi nghe chính Ngài phát biểu trong Hội đường của họ. Những thành tích về sự khôn ngoan và phép lạ Ngài làm đã dấy lên trong họ câu hỏi: “Phải chăng Ngài không phải là Đấng Cứu Tinh mà Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc?”
Và họ bắt đầu tra cứu với một phương pháp rất khoa học: họ mở Kinh thánh ra và thấy rằng Đấng Cứu Tinh xuất thân từ một nơi khác, chứ không phải từ ngôi làng nghèo nàn tăm tối như Nazareth. Họ điều tra về nguồn gốc Chúa Giêsu và thấy rằng: cha mẹ và anh em Ngài đều là những người nghèo hèn mà họ biết rõ ngọn nguồn. Với lối suy luận và lý luận rất khoa học ấy, những người đồng hương với Chúa Giêsu đã khước từ Ngài. Nguồn gốc tăm tối của Chúa Giêsu đã là mạng chắn khiến họ không tin nhận nơi Ngài
Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao…
Thiên Chúa vẫn hằng làm việc. Như vậy khi ta làm việc là ta cộng tác với Thiên Chúa để làm cho trái đất này mỗi ngày mỗi đẹp hơn và cũng làm cho cuộc đời của ta giống Chúa hơn. “Cha ta và ta hằng làm việc và làm việc không ngừng”.
Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse”