2024
HY SINH
12.8
Thứ Hai trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Ed 1:2-5,24-28; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Mt 17:22-27
HY SINH
Qua đoạn Tin mừng trên, Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó lần thứ hai. Cũng giống như Chúa đã tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất, là Con Người sẽ bị đau khổ, chịu chết và sẽ sống lại.
Qua lời tiên báo lần này, một lần nữa Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các tông đồ biết được Người đến thế gian để đem ơn cứu độ cho loài người bằng cuộc thương khó, chịu chết và sống lại. Qua cái chết của mình, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng sự chết bằng cách là Người đã phục sinh.
Bằng cách này, hay cách khác Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các tông đồ biết Người chính là Đấng Cứu Độ. Nhưng các ông vẫn không nhận ra. Do đó, khi Chúa tiên báo cuộc thương khó lần thứ hai thì các tông đồ buồn phiền như trang Tin mừng đã nói đến.
Có lẽ, cách nào đó, nếu đặt vị trí của mình vào trường hợp của các tông đồ, chúng ta cũng sẽ buồn khi nghe Chúa nói về cuộc thương khó.
Các tông đồ nói riêng, chúng ta nói chung, nỗi buồn của chúng ta vẫn mang tính cách của thế gian, với thân phận mỏng giòn của một kiếp người. Nhưng với Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng ta sống bằng đức tin. Tin vào ơn cứu độ của Chúa đã đem lại cho chúng ta qua cuộc thương khó, sự chết và sự phục sinh của Người. Nhờ ánh sáng đức tin vào Đức Giêsu, chúng ta mới dễ dàng vượt qua được những chông gai thử thách, những cơn cám dỗ của thế gian.
Lời Chúa cho chúng ta biết hai sự kiện: sự kiện thứ nhất là việc Chúa Giêsu nộp cho Đền Thờ. Sự kiện thứ hai là việc Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc thương khó. Qua hai sự kiện này, chúng ta có thể rút ra được một bài học về sự Hy sinh. Chúa Giêsu hy sinh nộp thuế cho Đền thờ, dù điều đó không phải là bổn của Người, bởi Đền thờ là nhà của Cha (x. Lc 2,49). Sở dĩ Người hy sinh nộp thuế như vậy để làm gương cho các môn đệ. Còn về cuộc thương khó, đó là một sự hy sinh lớn lao mà Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Trong sự kiện này, Chúa Giêsu đã hy sinh chính mình để đổi lấy sự sống cho mỗi người chúng ta.
Trong cuộc đời của chúng ta, mỗi một ngày sống đều là một của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa để đáp lại tình yêu cứu độ của Người. Của lễ mà thiếu đi sự hy sinh thì sự dâng hiến chỉ là hành vi giả dối đối với Thiên Chúa. Hy sinh càng lớn lao thì giá trị của hiến lễ càng cao cả. Hy sinh càng âm thầm thì hiến lễ càng được Thiên Chúa yêu thích.
Cuộc sống hằng ngày của chúng ta có rất nhiều cách thức để hy sinh. Chúng ta cùng nhau suy nghĩ một vài cách điển hình như sau:
Khi có được tinh thần hy sinh, thì chúng ta mới dám đón nhận và làm những công việc mà không ai muốn làm, nhưng có giá trị rất lớn đối với Thiên Chúa. Bởi lẽ, nó bắt nguồn từ một tâm hồn lương thiện và khiêm nhu chân thực.
Trong những ngày giãn cách xã hội này, có rất nhiều việc nhỏ bé và âm thầm để chúng ta có thể hy sinh như: “Hy sinh sống ở nhà, không đi ra đường, hạn chế tiếp xúc, thực hiện nghiêm túc những chỉ thị của nhà chức trách…. Chia sẻ thời gian, vật chất, lương thực, thực phẩm để giúp đỡ những người đang đau khổ” (Trích Bữa Ăn Thiêng Liêng, thứ năm 05/08/2021 của Cha sở Phaolô Trương Hoàng Phong).
Nói đến hy sinh là nói đến tình yêu. Không có tình yêu thì sự hy sinh chỉ là một hành vi cao hứng nhất thời, hay chỉ là tô thêm màu sắc cho cái tôi của mình. Các tông đồ là những người đã được Chúa Giêsu huấn luyện kỹ lưỡng và đã chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ của Thầy mình. Thế nhưng khi nghe Chúa nói đến việc phải hy sinh, các ông đã tỏ ra “buồn phiền lắm”. Phải chăng tình yêu là điều rất quan trọng để có thể hy sinh?
Thật vậy, chính sự hy sinh mới nói lên một tình yêu chân thành, sâu thẳm đối với Thiên Chúa và tha nhân. Những ai tha thiết yêu mến Thiên Chúa cũng đều mong mỏi được hy sinh với Người và vì Người. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì”.
Ngang qua cuộc thương khó và tử nạn, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý của Chúa Cha. Qua việc nộp thếu cho Đền thờ, Chúa làm gương cho chúng ta trong việc vâng phục quyền bính dân sự. Đó là mẫu gương tuyệt hảo về sự vâng phục!
Là Kitô hữu, chúng ta hãy là những đầy tớ trung thành của Chúa. Điều đó làm cho chúng ta trở thành một “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Điều đẹp lòng Thiên Chúa chính là việc chúng ta chu toàn những gì Người muốn, điều Chúa thích là “con thích làm theo thánh ý” (x.Tv 40, 9).
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được thay đổi: từ tội lỗi sang công chính; từ bất tuân sang vâng phục. Sự vâng phục của chúng ta không phải là phục lụy mà là trở nên giống Chúa Kitô. Đấng luôn vâng phục vì yêu mến Chúa và tha nhân. Ơn gọi Kitô hữu là một ơn gọi vâng phục như Đức Kitô đối với Chúa Cha. Thế nên các tín hữu được định nghĩa là “những người con biết vâng phục” (x. 1Pr 1, 14).
Trước tình hình khó khăn và phức tạp như hiện nay, chúng ta cần có sự gắn kết mật thiết với Chúa để luôn được bình an trong vâng phục. Cần biết lắng nghe, bởi ý Chúa có thể nói qua mọi hạng người. Cần suy nghĩ và tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta qua hoàn cảnh đó!
Chúng ta hãy nghĩ đến Mẹ Maria, Mẹ chẳng hiểu hết những gì Mẹ xin vâng, nhưng trong tin tưởng và lòng kính mến Thiên Chúa Mẹ đã đón nhận tất cả. Xin Vâng!
2024
Sự chết làm trổ sinh hoa trái
Thứ Bảy Thánh Lôrensô, Tstđ
St 1:12; St 2:4; Tv 9:8-9,10-11,12-13; Mt 17:14-20
Sự chết làm trổ sinh hoa trái
Nguyên tổ của con người là Adam và Eva khi phản bội Thiên Chúa đã đưa tội lỗi và sự chết vào thế giới. Thiên Chúa đã đã phán xử công minh. Nhưng ngay lúc luận phạt thì Thiên Chúa đã Thương Xót con người và với Tình yêu bao la, Ngài đã hứa ban Đấng Cứu chuộc cho con người.
Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì vâng phục Chúa Cha và để thực hiện kế hoạch cứu độ loài người của Chúa Cha, Ngài đã xuống thế mặc lấy xác phàm, cùng chịu chung số phận của người phàm là phải chết, hơn nữa lại chịu một cái chết nhục nhã đau đớn của một tử tội.
Sự tự nguyện vâng phục Chúa Cha của Chúa Giêsu đã làm cái chết của Ngài nên giá cứu chuộc loài người, giải thoát loài người khỏi tội lỗi và án phạt là cái chết đời đời, để loài người được giao hoà trở lại với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ. Tình yêu của Đức Giêsu đã chiến thắng tội lỗi, hận thù và sự chết để phục sinh, dẫn đường cho các Kitô hữu cùng sống lại một sự sống đời đời như Ngài. Sự vâng phục đó đối nghịch với sự bất tuân của Adam.
Cái chết của Chúa Giêsu đã khai sinh ra Hội Thánh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Hội Thánh của Chúa có bổn phận tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian này. Lời Chúa Giêsu không chỉ nói về chính Ngài là hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để sinh những hạt mới, mà còn nói về các môn đệ của Ngài, vì môn đệ đích thực của Chúa thì phải đồng hình đồng dạng như Ngài, cũng phải chết vì tội lỗi, chết đi phần riêng con người của mình để sống cho Thiên Chúa, như Thánh Phaolô nói “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Từ hạt lúa Giêsu, sau khi chết đi, hạt lúa ấy đã trổ sinh một Hội Thánh phát triển và hoạt động mạnh mẽ để quy tụ loài người về một mối. Và giống Chúa Giêsu, ngay từ thời khai đạo, các Kytô hữu đã trở thành những hạt lúa được gieo vào lòng đất và đã chết đi để Hội Thánh của Chúa từ một nhóm người tại Giêrusalem, hơn hai ngàn năm sau, dù luôn bị ngăn cản, phá phách, bắt bớ, bách hại rất tàn bạo, Hội Thánh vẫn lớn mạnh phát triển như ngày nay. Hội Thánh đã gieo những tư tưởng yêu thương, tôn trọng sự sống, nhân ái, đạo đức thánh thiện và bình an vào mọi khía cạnh của văn minh, văn hoá, đời sống, xã hội… của nhân loại, để biến đổi thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn.
Các hạt giống của Thiên Chúa, đặc biệt là các hạt giống là máu các Thánh Tử Đạo còn tiếp tục sinh sôi muôn vàn Kytô hữu nhiệt thành với Đức Tin.
Thánh Phó tế Lorensô mà Giáo Hội mừng kính hôm nay là một tấm gương sáng chói về tình yêu với Thiên Chúa và với đồng loại, là hình ảnh điển hình của hạt lúa gieo vào lòng đất đã chết để sinh nhiều hạt mới. Ngay cả với kẻ thù là hoàng đế Valêrianô của Rôma và các thuộc hạ, những kẻ đang ra sức hành hạ tra tấn thánh nhân một cách cực kỳ dã man, ngài cũng xin Chúa “ban cho những người có mặt đây được trở lại cùng Chúa. Xin Chúa hãy an ủi họ trước toà phán xét”. Hạt giống Lorensô ngay lập tức đã sinh một hạt giống khác cũng vì yêu Chúa mà cam chịu tử đạo, đó là anh Rômano, một người trong toán lính đang tra tấn Thánh nhân. Anh cảm phục sự hân hoan và can trường đón nhận những cực hình và cái chết vì yêu Chúa của Thánh nhân, nên đã đến xin Thánh nhân rửa tội và cũng chịu tử đạo.
Cái chết anh dũng của Phó tế Lorensô đã là nguồn khích lệ lớn lao cho các Kitô hữu đang trốn tránh sự bắt bớ trong các hang động cùng thời, để họ kiên tâm giữ vững Đức Tin làm cho Hội Thánh vẫn mãi tồn tại và phát triển.
Cuộc sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa, chỉ có giá trị khi chúng ta biết sống quên mình, biết nghĩ đến anh chị em đang sống chung quanh chúng ta, để yêu thương và phục vụ mọi người một cách vô vị lợi. Ước gì cuộc đời của mỗi người chúng ta là hạt lúa được chôn vùi – chôn vùi chính mình, để nẩy sinh nhiều bông hạt yêu thương cho Chúa và cho tha nhân.
“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 25-26). Đức Giêsu quả quyết: “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” Cái được-mất trong sự bỏ mình hay giữ lấy, Người đã chứng minh bằng luật tự nhiên: “Nếu hạt giống rơi xuống đất không thối đi, nó sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ nảy sinh hàng trăm những hạt khác”.
Với ý nghĩa này, ta có thể nhận ra lý do phải hy sinh, “chết” đi để được “sống”. Ai chăm lo tìm kiếm lạc thú ở đời này thì sẽ mất đời sống vĩnh cửu. Còn ai dám từ bỏ bản thân vì Chúa và vì Tin Mừng thì sẽ được hưởng sự sống đời đời mai sau. Người môn đệ- “kẻ phục vụ Thầy” cũng phải đi cùng một con đường như Đức Giêsu để đạt tới vinh quang. Như hạt lúa, chúng con cũng phải chết đi cho tội lỗi để sinh nhiều bông hạt.
Với Kitô hữu ngày nay, cái chết không phải chỉ là chết về phần xác, mà còn là chết về tội lỗi, như từ bỏ những đam mê trần thế, những thói quen tổn hại Đức Tin và đạo đức của một Kitô hữu. Việc này không dễ chút nào vì “mưu ma chước quỷ” rất tinh khôn, khéo léo, với những hình thức đáng yêu, rực rỡ, ngọt ngào khiến người Kitô hữu khó thoát được nếu không luôn cầu nguyện, năng chịu các bí tích Hoà giải, Thánh Thể, chăm chỉ học và sống Lời Chúa, sống kết hợp với Chúa Giêsu để được Ngài che chở, bổ sức cho, vì “không có Thầy thì anh em chẳng làm được gì hết” (Ga 15,5)
2024
Giá Trị Của Khổ Ðau
Thứ Sáu 9/8 Nk 2:1,3; Đnl 32:35-36,39,41; Mt 16:24-28
Giá Trị Của Khổ Ðau
Cũng như tình yêu, có lẽ chẳng ai định nghĩa được “đau khổ là gì” một cách chính xác và thỏa mãn nhất, vì đau khổ đa dạng lắm. Thiết tưởng có thể hiểu đơn giản theo phương trình: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Người ta dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình. Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ.
Chẳng ai thích đau khổ, nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó”. Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống”. Chính đau khổ lại khiến người ta nên khôn, lạ thật!
Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Như vậy, “người đẹp” không thể tự nhiên mà có.
Triết lý đau khổ thật kỳ diệu. Hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Dù đau khổ cùng cực, nhưng “ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống Kitô hữu, đó là đón nhận đau khổ như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành cho Ngài.
Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau khổ vốn là phần số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước đau khổ mà thôi.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận khổ đau; chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
Bức tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện và hiện được đặt tại Ðền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng; thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy khổ đau, con người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Thập giá luôn là điều khó chấp nhận trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại của chúng ta. Chẳng ai muốn vác thập giá, đó là lẽ tự nhiên. Thánh Phêrô khi nghe thấy Chúa nói Ngài sẽ phải lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết, ông đã cản ngăn. Đó phản ứng của bản năng tự vệ. Chúa Giêsu cũng đã tỏ ra sợ hãi trước cuộc tử nạn của Ngài, nhưng Chúa đã vâng theo thánh ý Chúa Cha để đi trọn con đường của Ngài, con đường từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày.
Phải từ bỏ chính mình: tức là khước từ lòng tự ái, sự nuông chiều bản thân, từ bỏ mọi tính hư tật xấu. Vác thập giá hằng ngày có nghĩa là hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Theo Thầy: nghĩa là thành môn đệ của Chúa, cộng tác với ngài trong việc loan báo Tin mừng.
Lời mời gọi này đòi hỏi chúng ta một đàng phải liên tục và kiên nhẫn thanh tẩy đời sống và thánh hóa bản thân. Mặt khác chúng ta phải cố mỗi ngày nên giống Chúa hơn
Chúa không giúp ta tiêu diệt thập giá đời mình, nhưng nếu ta có Chúa đồng hành, nếu mỗi ngày ta thấm nhuần lời Chúa dạy, thì chúng ta sẽ chẳng còn sợ gì thập giá khổ đau. Xin Chúa đồng hành và nâng đỡ và tăng thêm sức mạnh để chúng ta đầu can đảm vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, để mai sau hưởng hạnh phúc vĩnh hằng mà Chúa dành cho những ai dõi bước theo Ngài.
Nơi nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
2024
LỜI TUYÊN XƯNG
8.8 Thánh Đa Minh, Lm
Gr 31:31-34; Tv 51:12-13,14-15,18-19; Mt 16:13-23
LỜI TUYÊN XƯNG
Thánh Đaminh sinh tại Calaruega miền Castilien, nước Tây Ban Nha khoảng năm 1172-1173. Sau khi học triết và Thần học, ngài trở thành Kinh sĩ ở Osma. Thời trai trẻ Ngài đã yêu sự khó nghèo cũng như người nghèo, thích cầu nguyện và ham học, hai lần phải dọc ngang Châu Âu đã giúp Ngài mở rộng tầm mắt và quyết định cuộc đời tương lai của mình. Trước nhất, Ngài nhìn thấy và bắt đầu hiểu sự nguy hiểm của nhiều lạc thuyết đang đe dọa Hội Thánh.
Cùng với người bạn tên là Didacus thành Acebedo, ngài bắt đầu đi rao giảng, giúp cải hối những người theo rối Albigeois. Khi Didacus qua đời, ngài lãnh đạo cơ quan truyền giáo do Didacus lập ở Toulouse miền nam nước Pháp. Ngài cùng với anh em giảng thuyết thực tập sám hối, đi chân không, tổ chức nhiều buổi đối thoại kéo dài ngày. Thế nhưng thất bại, nhóm Albigois cùng nhóm Catare đã không chấp nhận lý luận, họ đòi canh tân Hội Thánh và ly khai, thế là Đức Innocence III đã quyết định dùng binh lực để truy lùng lạc giáo. Cuộc chiến tiêu diệt bè Albigeois kéo dài từ 1208 đến 1213 gây biết bao tang tóc cho cả miền nam nước Pháp.
Năm 1215 Đaminh sang Rôma để xin công nhận dòng Giảng Thuyết do ngài thành lập, mục đích là với lời rao giảng và mẫu gương đời sống khó nghèo, tập thể theo tu luật thánh Âu Tinh có thể cải hối những người theo bè rối. Đức Thánh cha Honorius III đã châu phê luật dòng ngày 22.10.1216. từ đó dòng trở thành một sức lực canh tân mạnh mẽ trong Hội Thánh. Thánh Đaminh qua đời tại Bologna ngày 6.8.1221. Ngày 3. 7. 1231 Ngài được Đức Thánh Cha Gregonio IX, bạn than của thánh nhân, tuyên phong ngài lên hàng hiển thánh.
Nhìn vào bối cảnh dân Israel trướcĐức Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia, để giải phóng họ khỏi kiếp sống lầm than và đưa dân tộc họ lên bá chủ thế giới. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Ngài là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Đức Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưngNgài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.
Sự kiện trên lại xảy ra trong giai đoạn cuối của thời kỳ Đức Giêsu ở trần gian. Chính lúc đó, Ngài biết rằng đã đến lúc Ngài phải khởi đầu việc đặt nền móng xây dựng một tòa nhà thiêng liêng, nên đã tuyên bố Phêrô là Tảng Ðá để xây Hội Thánh của Ngài, và trao cho ông chìa khóa Nước Trời. Một quyết định xem ra bất ngờ, và làm mọi người ngỡ ngàng, vì Phêrô cũng chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học, chỉ có sự nhiệt tình, nhưng lại không vững vàng, bị Thầy khiển trách nhiều nhất.Nhưng vì hiểu được Ý Cha trong biến cố này, nên Đức Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội, đại diện cho Ngài là Đá Tảng duy nhất.
Nhìn lại cuộc trắc nghiệm của Chúa Giêsu, chúng ta thấy niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào mộtquan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Vì vậy mà Đức Giêsu “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô”, bởi vì mộtlời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho mộtđức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó. Ông tỏ vẻ tài khôn khuyên can Thầy đừng làm như vậy, và đã bị Thầy quở trách nặng nề, gọi ông là Satan vì đã cản bước đường Ngài.
Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Nếu ai nói rằng, mình có thể đạt tới Đức Kitô hay có thể hòa nhập với Ngài mà không cần đến Giáo Hội, là đi tới nguy cơ lầm đường lạc lối. Làm như vậy là dựng nên một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với suy nghĩ và ý muốn của mình, là từ khước một Đức Kitô như Ngài đã tự mạc khải cho chúng ta.
Tuy nhiên, cũng có một số người dị ứng với quyền bính trong Giáo Hội. Chúng ta biết rằng, quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, là giúp người ta đến với Ngài và trở thành môn đệ của Ngài, chứ không phải là quyềnép buộc đoàn chiên đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của mình. Quyền này được trao để phục vụ sự sống, chứ không phải quyền sinh sát trên đoàn chiên. Trong tiếng La Tinh, quyền bínhlà “auctoritas”, do động từ “augere” có nghĩa là “làm cho lớn lên”. Quyền bính trong Giáo Hội là phương tiện chỉ để phục vụ cho sự tăng trưởng mà thôi. Cho dù có những cá nhân lạm dụng quá đáng quyền bính này, nhưng không vì thế mà Giáo Hội rơi vào sai lạc, hay đánh mất vai trò và bản chất đích thực của mình.
Quả thực, Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì qui tụ quanh mộtmáng cỏ và mộtcây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì Đấng sinh ra trong máng cỏ cũng là Đấng chịu đóng đinh trên đồi Sọ, và là chính Đấng đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.Cuối cùng, bài Tin Mừng đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi hết sức quan trọng:
– Chúa Giêsu là ai và có ý nghĩa gì trong cuộc đời tôi?
– Tôi là ai và như thế nào dưới cái nhìn của Chúa Giêsu?
Mỗi người phải tự trả lời cho mình. Đây là cuộc khám phá cá nhân mà mỗi người chúng ta phải thực hiện cho chính mình. Phêrô đã khám phá ra được chân lý quan trọng, nên ông đã được trao ban đặc đặc ân và trách nhiệm lớn lao. Chúng ta cũng vậy, muốn được vinh dự góp phần với Chúa thì tự mình phải khám phá ra Ngài sâu hơn mỗi ngày. Nếu ta thực sự muốn kiện toàn đời mình, muốn trở nên trọn vẹn là chính mình, muốn nhận ra sứ mạng của đời mình, thì không chỉ tuyên xưng Đức Kitô, mà còn tuyên xưng cả lòng yêu mến thẳm sâu, nghĩa là để Chúa chiếm hữu hoàn toàn cuộc đời mình như thánh Phêrô xưa.