2024
NIỀM TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ XỨ CANAAN
7.8 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Tám Mùa Quanh Năm
Gr 31:1-7; Gr 31:10,11-12,13; Mt 15:21-28
NIỀM TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ XỨ CANAAN
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Bà mẹ người Ca-na-an có đứa con bị quỷ ám và làm khổ thân xác nó. Bà biết Chúa Giêsu đang giảng dạy ở gần Bê-ta-ni-a, nên đến xin Chúa chữa con bà. Chúa làm lơ để thử lòng bà. Rồi lại dùng câu tục ngữ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”, ngụ ý từ chối. Vì thương con và cũng vì được nghe người ta đồn thổi về quyền năng và lòng nhân hậu của Chúa. Bà khiêm nhường nài nỉ : “Thưa Thầy, đúng vậy. Nhưng lũ chó con cũng được ăn những mụn bánh từ bàn ăn rơi xuống”.
Với các tông đồ thì hành động của bà chỉ là một sự quấy rầy, còn với Chúa Giêsu thì Người đã dành quyền ưu tiên cho dân Israel, thế nhưng người đàn bà xứ Canaan đã lật đổ các vấn đề đó để đi thẳng tới đối tượng. Chính điều này đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ. T
Người phụ nữ bất hạnh có đứa con gái đau yếu, và bà đã kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà không có vẻ hiếu thắng. Bà không ý thức là mình đang nêu lên một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là Người chỉ muốn hoạt động ở Israel chứ không muốn hoạt động nơi người ngoại giáo, thì bà đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ khiêm nhường của lời cầu xin. Bà cầu xin và đặt mình ngang hàng với đàn chó con, sống bằng những mẩu bánh vụn từ bàn rơi xuống. Bà đã gắn cho đức tin cái tính chất khiêm nhường khiến cho Chúa Giêsu cũng phải cảm động và xiêu lòng.
Trước sự kiên trì của người phụ nữ, Chúa Giêsu lên tiếng “không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”, một thử thách dường như quá nặng, quá khó đối với người ngoại giáo này. Nếu người mẹ xứ Armênia chỉ hy sinh những giọt máu để cứu đưa con, thì bà mẹ Canaan lại hạ mình xuống ngang với “con cho” cũng vì đứa con. Nhưng chính lòng khiêm tốn của bà lại làm cho các tông đồ phải ngạc nhiên “Thưa Thầy đúng lắm, nhưng mà chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ trên bàn của chủ nó rơi xuống”. Trước câu trả lời đầy khiêm tốn này đã làm cho Chúa Giêsu “phải bó tay” mà thốt lên “Đức tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”.
Về đức tin, bà mẹ đau khổ ấy đã tìm đến với Chúa, bà tin Chúa là vị ngôn sứ quyền năng và nhân hậu. Có thể một người khác nghe câu tục ngữ kia đã cảm thấy mình bị xúc phạm vì cho là mình bị khinh chê. Nhưng bà này đã phản ứng một cách rất khiêm nhường. Khiêm nhường là chìa khóa mở lòng thương xót của Thiên Chúa.
Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.
Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: “đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn sao được vậy”. Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết mình vì con.
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Về cầu nguyện, bà này vừa khiêm nhường vừa kiên trì. Khiêm nhường và kiên trì là hai bí quyết làm dịu lòng Chúa, nên con bà được khỏi sự quấy rối của ma quỷ. Vì dù ta không cầu nguyện thì Chúa cũng đã luôn luôn để ý đến chúng ta, phương chi khi chúng ta tin tưởng mà đến với Chúa với tâm hồn khiêm nhường và kiên trì thì tất nhiên Chúa phải lắng nghe.
Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được?
Chẳng nói đâu xa, trong giới “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của “luật sĩ và biệt phái” đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính “luật sĩ và biệt phái” không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.
Hình ảnh người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
2024
LÊN NÚI BIẾN HÌNH
6.8 Thứ Ba Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung
Gr 30:1-2,12-15,18-22; Tv 102:16-18,19-1,29,22-23; Mt 14:22-36
LÊN NÚI BIẾN HÌNH
Ðức Giêsu cho ba tông đồ chủ chốt là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy cảnh Biến hình để các ông có thể giữ vững đức tin của chính các ông sau ngày Thứ Sáu Chịu nạn và giúp giữ vững đức tin cho các bạn đồng chí hướng. Vậy mà trong dinh thượng tế, vì khiếp sợ, ông Phêrô đã chối Thầy mình ba lần. Phúc thay cho ông Phêrô, khi nghe tiếng gà gáy, ông liền nhớ lại lời Chúa tiên báo, khiến ông: Oà lên khóc (Mc 14:72). Nước mắt ông tuôn trào ra như là ông hối hận nói với Thầy mình: Sao con có thể chối Thầy khi con xin dựng ba lều ỏ trên núi để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Thầy mà? Rồi con còn tuốt gươm chép đứt tai tên đầy tớ của vị thượng tế để bảo vệ Thầy, mà sao giờ này con lại hèn nhát đến thế? Như vậy những thực tại của cảnh Biến hình: đám mây, áo trắng hơn tuyết, sự hiện diện của ông Môsê và ông Êlia, tiếng phán từ đám mây có mục đích giúp các tông đồ nhận thức rằng cảnh khổ hình và thập giá của Thầy mình, không phải là một thất bại, nhưng chỉ là một sự biến đổi: qua thánh giá tới phục sinh.
Sau khi từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giê-su và cùng với Người rong ruổi trên các nẻo đường Pa-lét-ti-na để rao giảng Tin mừng, được nghe những lời Chúa giảng, thấy những phép lạ Chúa làm, chứng kiến thái độ yêu – ghét của dân chúng và những nhà lãnh đạo Do-thái dành cho Chúa, nhất là khi nghe thấy Chúa loan báo về việc “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ… bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (x. Mt 16,21), các tông đồ bắt đầu lo sợ và đặt ra những vấn nại về Chúa Giê-su và sứ mạng của Người.
Chính trong bối cảnh này, Chúa Giê-su dẫn ba môn đệ thân tín (Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an) lên núi. Người biến hình trước mắt các ông. Cho các ông xem thấy thần tính và dung nhan sáng láng của Người, khiến các ông ngất ngây, thích thú, muốn được sống trong tình trạng sáng láng tốt lành ấy. Ông Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng Chúa Cha giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”!
Khi suy niệm về sự kiện này, các nhà chú giải cho rằng: Tuy không phải là chóp đỉnh, nhưng Chúa Biến Hình là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân ước, vì nó thâu tóm tất cả mạc khải:
Chúa Giê-su tỏ lộ vinh quang thần linh của mình trong chốc lát vừa xác nhận lời tuyên xưng của Phê-rô (x. Mt 16,16), vừa phê chuẩn mạc khải của Người là muốn bước vào trong vinh quang vĩnh cửu, phải đi qua thập giá tại Giê-ru-sa-lem, nhằm củng cố niềm tin cho các môn đệ trước biến cố tử nạn.
Mô-sê và Ê-li-a, những người phát ngôn của Lề Luật và các ngôn sứ trong Cựu Ước đã xuất hiện để giới thiệu Đấng Ki-tô của Tân Ước cho các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, là những cột trụ của Giáo Hội, có sứ mạng làm chứng và rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo về một Đấng Ki-tô tử nạn và phục sinh đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo.
Chúa Cha xác nhận Chúa Giê-su là Con yêu dấu của Ngài và mời gọi các tông đồ: “Hãy vâng nghe lời Người”! Hãy vâng nghe Người, vì Người là Con Thiên Chúa và là Ngôi Lời vĩnh cửu, đã trở nên người phàm. Người chính là vị Đại Ngôn Sứ mà tất cả các tiên tri đã loan báo và là Đấng Cứu Độ muôn dân mong đợi theo như lời Chúa hứa. Người không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn và ban cho nhân loại một điều răn mới, đó là giới răn yêu thương: “Yêu thương như Chúa đã yêu. Yêu đến nỗi chết cho người mình yêu” (x. Ga 15,12-13).
Chúa Biến Hình cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của Chúa Giê-su, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (x. Pl 3,21). Nhưng được như vậy, chúng ta phải “xuống núi” để chịu lao nhọc, sỉ nhục và chịu đóng đinh ở trần gian cùng với Chúa Giê-su và như Chúa Giê-su. Bởi “Người là Sự Sống, đã xuống thế gian để bị giết; Người là Bánh Hằng Sống đã xuống thế gian để chịu đói; Người là Đường đã xuống thế gian, để chịu mệt nhọc và gục ngã trên đường; Người là nguồn mạch, đã xuống thế gian để chịu khát” (x. Thánh Augustinnô, Sermo 78).
Sau cảnh Biến hình, Ðức Giêsu căn dặn các tông đồ không được nói cho ai biết về chuyện này cho tới khi Con Người sống lại từ cõi chết. Và các ông đã tuân giữ lời Chúa. Sau khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại thì thánh Phêrô mới thuật lại cảnh biến hình trong thư gừi giáo đoàn và nhắc lại tiếng phán từ trời: Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng qúi mến (2 Pr 1:17). Ðó là tiếng Thiên Chúa Cha phán mà thánh sử Mác-cô đã thuật lại trong Phúc âm hôm nay: Ðây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người (Mc 9:7).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Chúa Kitô biến hình một khoảnh khắc thoáng qua. Cuộc biến hình trọn vẹn qua mầu nhiệm Phục sinh, đây là cuộc biến hình ngàn thu. Cuộc biến hình này là căn tính niềm tin của những người theo Chúa. Hãy để hồng ân của Chúa chiếu rực trong cuộc đời của chúng ta ngỏ hầu nhân loại thấy chúng ta biến hình, nghĩa là có thể thấy Chúa Kitô nơi khuôn mặt và đời sống chúng ta.
Trong ngày lễ Chúa Biến hình, Giáo hội muốn dạy người tín hữu hai chân lý. Thứ nhất là Ðức Giêsu có hai bản tính: một bản tính Thiên Chúa và một bản tính loài người. Thứ hai là loài người có ngày sẽ được thông phần vào vinh quang của Nước Chúa. Thật là một điều vinh dự và an ủi, khi người tín hữu mang trong mình thân xác yêu đuối, bệnh tật và rồi sẽ chết, lại có thể được chung hưởng vinh quang phục sinh trên nước trời.
Thánh Phêrô trong lúc xuất thần có xin Thầy mình để được ở lại trên núi hầu được tiếp tục chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Chúa, cho tâm hồn được chìm đắm trong thiên cảnh tuyêt vời. Ông chưa nhận thức được rằng ông còn phải xuống núi đã để làm chứng cho đức tin vào Chúa, để chịu đau khổ và vác thánh giá trước khi được vào vinh quang. Và đó là đường lối của đạo Chúa: qua đau khổ thánh giá, mới tới vinh quang phục sinh. Là môn đệ Chúa, sao ta có thể đi theo con đường khác ngoài đường Chúa đã đi?
2024
TẤM LÒNG NHÂN ÁI
5.8 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Tám Mùa Quanh Năm
Gr 28:1-17; Tv 119:29,43,79,80,95,102; Mt 14:13-21
TẤM LÒNG NHÂN ÁI
Chúa Giêsu không bao giờ làm cho những người tha thiết tìm kiếm Ngài phải thất vọng. Chúng ta thấy một hình ảnh tuyệt vời về điều này khi Chúa Giêsu và các môn đệ của mình lên thuyền tìm một nơi hoang vắng để nghỉ ngơi dọc theo hồ Galilê, thì Thầy Giêsu và các môn đệ có đôi chút ngạc nhiên về sự xuất hiện của hàng ngàn người đã đến nơi trước và chờ gặp các Ngài! Có thể các môn đệ sẽ tỏ vẻ khó chịu trước sự phá vỡ của đám đám đông dân chúng đối với kế hoạch nghỉ ngơi của các ngài. Nhưng Chúa Giêsu thì không như thế – Người chào đón họ với vòng tay rộng mở và ánh mắt yêu thương. Lòng trắc ẩn của Ngài biểu lộ tình yêu cao vời và sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Chúa Giêsu đã nói lời của Thiên Chúa để củng cố đám đông trong đức tin và Ngài đã chữa lành nhiều người bị bệnh.
Trình thuật hóa bánh ra nhiều cho chúng ta thấy tình cảnh rất khó khăn mà dân chúng đang gặp phải. Đó là cơn đói mệt lã khi họ đi theo Chúa Giêsu. Đứng trước vấn đề này, các môn đệ đã chọn giải pháp giải tán đám đông, còn Chúa Giêsu thì chạnh lòng thương và Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngày hôm nay, có rất nhiều anh chị em cần sự giúp đỡ của chúng ta. Đứng trước nhu cầu của họ, chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tỏ lòng nhân ái và làm một cái gì đó cho họ. Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về hai điểm sau đây:
Khi đọc và suy gẫm bài Tin Mừng này, chúng ta dễ dàng cảm nhận sâu xa lòng nhân ái của Chúa Giêsu. Người trông thấy đám đông mệt lã vì phải đi bộ; những người đau yếu bệnh tật; những người tội lỗi; những người đói khát, cô đơn và buồn sầu. Chúa Giêsu không chỉ là trông thấy, mà còn là cảm nếm nỗi đau khổ của dân chúng. Người đau với nỗi đau của họ, khổ với cái khổ của họ, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã hoàn toàn đồng cảm và mang lấy nỗi khổ của họ.
Lòng nhân ái đã thúc đẩy Chúa Giêsu đi đến hành động là “chữa lành các bệnh tật của họ”. Thật thế, trên suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, đi đến đâu là Chúa Giêsu thi ân giáng phúc đến đó. Tình Yêu của Người không có sự lựa chọn, nhưng dành cho hết mọi người “Tôi còn những đoàn chiên khác không thuộc ràn này” (Ga 10,16). Lòng nhân ái của Chúa Giêsu dành cho hết mọi người, trong đó có mỗi người chúng ta, là những người mỏng giòn và yếu đuối. Hành động sau cùng và tột đỉnh nhất của lòng nhân ái Chúa Giêsu chính là cái chết trên thập giá.
Chúa Giêsu biết rõ các môn đệ bất lực trong việc cho dân chúng ăn no, nhưng Người vẫn ra lệnh cho các ông lo cho họ ăn. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ cũng là mệnh lệnh dành cho mỗi Kitô hữu ngày hôm nay.
Là Kitô hữu, chúng ta không thể vô cảm, vô tâm, vô can đối với biết bao nỗi đau buồn, thất vọng của anh chị em xung quanh mình. Để nên giống Đức Kitô, chúng ta cần phải làm triển nở tấm lòng nhân ái và trắc ẩn như Người, nhất là đối với anh chị em đau khổ trong thân xác cũng như trong tâm hồn.
Dẫu biết rằng chúng ta cũng giống như các môn đệ, đều cảm thấy bất lực và thiếu khả năng. Nhưng chính sự hiện diện của chúng ta trong nỗi khổ của tha nhân, đôi khi sẽ mang lại cho họ niềm hy vọng và niềm an ủi. Chúng ta không thể bù đắp hết cho họ những thiếu thốn và mất mát, nhưng sự chia sẻ của chúng ta sẽ làm vơi đi những gánh nặng trong đời họ. Sự đồng hành và gần gũi của chúng ta sẽ làm cho họ vơi đi những mặc cảm do nghèo đói gây ra.
Tại sao Chúa Giêsu mong đợi các môn đệ của mình làm những điều dường như không thể – để nuôi một đám đông đang đói và lớn như vậy khi không có sự cung cấp lương thực đầy đủ? Chúa Giêsu rất có thể muốn thử lòng tín thác của họ và cho họ một dấu hiệu rằng Ngài sẽ can thiệp và mở kho tàng ân huệ thiêng liêng của Thiên Chúa dành cho dân Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cộng tác với Ngài dẫu cho họ là những người không có dư của ăn. Mười hai thúng đầy cá và mẩu bánh còn sót lại cho thấy sự hào phóng tràn đầy nơi những món quà mà Thiên Chúa dành cho chúng ta – những món quà mang lại niềm vui, phúc lành, sự chữa lành và sức sống mới.
Mười hai thúng đầy dư lại cho thấy sự hào phóng và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta. Khi Thiên Chúa ban cho, Người ban cho dồi dào. Ngài cho đi nhiều hơn những gì chúng ta cần để chúng ta ai cũng có điều gì đó để chia sẻ với người khác, đặc biệt là những người khó khăn. Chúa lấy những gì chúng ta có và nhân nó lên vì lợi ích của người khác. Bạn có tin tưởng vào sự cung ứng của Chúa dành cho bạn mà sẵn sàng chia sẻ một cách tự do với người khác, đặc biệt là những người đang cần đến không?
Mỗi người chúng ta hãy là nhịp đập của trái tim Chúa, là cánh tay nối dài của Chúa, để từ đó phát sinh lòng nhân ái của Người cho tha nhân. Thể hiện lòng nhân ái là phải chấp nhận từ bỏ và đau thương mới có thể trao ban. Trao ban không hẳn là mất đi, nhưng đó là phương thức tốt nhất để sở hữu những gì mình đã cho đi. Sở hữu lớn lao nhất đó là sự sống trong Nước Trời, bởi lẽ chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39).
Chúng hãy cầu xin Mẹ rất thánh của chúng ta, Mẹ là người đầu tiên đón nhận lòng nhân ái của Chúa Giêsu vào trong cung lòng của mình. Mẹ sẽ dạy cho chúng ta biết cách đón nhận và trao ban tình yêu của Đức Kitô, Con Mẹ cho những người chung quanh.
2024
ĐỪNG ĐỘC ÁC
3.8 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Bảy Mùa Quanh Năm
Gr 26:11-16,24; Tv 69:15-16,30-31,33-34; Mt 14:1-12
ĐỪNG ĐỘC ÁC
Nghe danh tiếng của Đức Giê-su, nhất là về các phép lạ Người thực hiện, Vua Hê-rô-đê cho rằng Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết trỗi dậy. Đó là một sai lầm ; nhưng đối với chúng ta, sai lầm này lại mang nhiều ý nghĩa trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và đã loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua rồi. Thật vậy :
Vua Hê-rô-đê loại trừ một Gioan Tẩy Giả, thì lại có một Gioan Tẩy Giả khác xuất hiện. Như thế, Sự Thiện, Ánh Sáng và Chân Lý không thể bị loại trừ bởi bạo lực, nghĩa là bởi Sự dữ, Bóng Tối và Dối Trá.
Vua Hê-rô-đê làm điều dữ và ông bị dày vò bởi điều dữ, cái nhìn của ông bị chi phối tất yếu bởi điều dữ ông đã làm. Như thế, không phải Sự Thiện dùng phương tiện của Sự Dữ chống lại Sự Dữ, nhưng Sự Dữ sẽ tự hủy diệt Sự Dữ, như lời Thánh Vịnh loan báo : « Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây, thì được thoát khỏi » (Tv 141, 10).
Đức Giê-su không phải là Gioan Tẩy Giả sống lại, nhưng Ngài là Đấng ông loan báo, Ngài là niềm hi vọng của ông, là sự sống lại của ông. Thật vậy, nơi mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ bị giết chết cách bất công như Gioan, nhưng Ngài mạnh hơn sự chết, Ngài sẽ phục sinh và làm cho mọi người phục sinh, trong đó có Gioan.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy xuất hiện 4 nhân vật, mỗi nhân vật mang một nét đặc trưng riêng cả về nhân thân và lối sống. Các nhân vật đó là: Gioan Tẩy Giả; vua Hêrôđê; bà Hêrôđia; và, con gái bà Hêrôđia. 4 nhân vật đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Thứ nhất là Gioan Tẩy giả:
Gioan Tẩy giả là ngôn sứ vĩ đại, đến để loan báo về Đấng Cứu Thế và chuẩn bị lòng dân đón nhận Ngài. Vì thế, ông đã biểu lộ vai trò ngôn sứ bằng một thái độ sống hết sức khiêm tốn, hy sinh, can đảm, mạnh mẽ và bất khuất trước bạo lực, cho dù phải chịu tù đày và chết tróc.
Thứ hai là vua Hêrôđê:
Ông được biết đến như một kẻ ác nhân. Ông đã lộng hành khi dùng quyền. Coi thường đạo lý và buông theo sắc dục mà bất chấp đúng – sai. Ông đã làm trái với lương tâm khi truyền lấy đầu ông Gioan để thỏa mãn điều thề hứa bất chính của mình.
Thứ ba là Bà Hêrôdia:
Vì ưa thích điều bất chính, nên đã không chấp nhận sự thật mà Gioan loan báo. Vì thế, lòng thù ghét nổi lên như nước thủy triều. Thay vì dạy dỗ con mình làm điều tốt, bà lại xúi con mình làm điều bất chính khi xin vua lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Sự ác tâm này là con đẻ của hận thù và ghen ghét vì mối lợi trước mắt.
Thứ tư là con gái bà Hêrôdia:
Cô gái trẻ này được biết đến như một nhân vật có tài mà không có đức. Vì thế, thay vì sử dụng tài của mình để làm việc thiện, cô ta đã dùng nó như là một thứ mua vui thuần túy và phá hoại. Tệ hơn nữa là cô không hề áy náy khi biết rõ rằng việc mình làm chỉ là để thỏa nãm sắc dục của vua quan và phục vụ sự hận thù của mẹ cô với Gioan Tẩy giả.
Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu gì những hình ảnh của Hêrôđê đang hiện ra qua những hành động của những người chỉ thích ham mê sắc dục, bất chấp sự thật để làm những điều lỗi lầm ghê tởm.
Cũng vẫn còn đó nơi ta hình ảnh của bà Hêrôdia. Nhiều lúc, thay vì dạy con làm điều tốt, thì lại chỉ vẽ cho trẻ những điều sai trái, miễn sao đạt được điều bất chính nơi ta mà thôi. Và cũng không thiếu những sự ngộ nhận nơi ta như con gái bà Hêrôdia…
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang trong mình hình ảnh và đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Luôn tìm mọi cách để Lời Chúa được loan báo mọi nơi, mọi lúc. Sẵn sàng chấp nhận hy sinh và ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự thật về Ngài.
“Các con sẽ làm chứng về Thầy”, đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”.
Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.