2024
BÀN TIỆC NƯỚC TRỜI
5.11 Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Pl 2:5-11; Tv 22:26-27,28-30,31-32; Lc 14:15-24
BÀN TIỆC NƯỚC TRỜI
Một trong những hình ảnh Kinh Thánh dùng để nói về Nước Thiên Chúa, đó
là bữa tiệc. Sách Cách Ngôn đã mô tả bữa tiệc của Ðấng Khôn Ngoan như một giá
trị cứu rỗi. Ngôn sứ Isaia nói đến một bữa tiệc Thiên Chúa dọn ra cho dân khi thời
Cứu thế đến, tất cả mọi người đều được mời đến dụ, không phân biệt ai. Ðó cũng
là bữa tiệc mà Chúa Giêsu dùng để nói về Vương Quốc của Ngài.
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được
mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc
rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi
thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước Trời cũng đã chuẩn bị một bữa
tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống
trong tâm tình chờ đợi. Nếu có các sách Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có
các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi
giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì kháck được mời lại từ chối.
Đầy tớ nói: “Thưa ông lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. Ông chủ
bảo người đầy tớ: Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy
nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai
sẽ được dự tiệc của tôi.” (Lc. 14, 22-24)
Một người đồng bàn nghe Đức Giêsu nói về ngày sống lại của những người
công chính liền bình luận: “Phúc thay cho ai được dự tiệc trong nước Thiên Chúa”.
Kẻ ấy chắc chắn được cứu độ và được hưởng hạnh phúc. Để lay chuyển quan niệm
sai lầm về định mệnh vững chắc của họ, như thường lệ, Đức Giêsu dùng một câu
chuyện tiếp tục liên quan đến một bữa tiệc lớn để đem áp dụng vào tiệc nước trời.
Bàn tiệc Nước Trời vẫn được dọn ra và khách được mời hôm nay không ai
khác hơn là mỗi người chúng ta. Bí tích Rửa tội là tấm thiệp cho phép chúng ta
tham dự bàn tiệc này. Nhưng khi giờ đã đến, chúng ta lại để mình bị lôi cuốn bởi
của cải vật chất, bởi thú vui trần thế, mà bỏ qua lời mời gọi đến tham dự bàn tiệc
thánh.
Thiên Chúa vẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta. Ước gì chúng ta hiểu đúng giá
trị của bữa tiệc Ngài dọn sẵn cho chúng ta mỗi ngày, để với tất cả lòng yêu mến
biết ơn, chúng ta tham dự, ngõ hầu chúng ta được mạnh sức tiến tới bàn tiệc vĩnh
cửu trên Thiên quốc.
Quý khách đã được giấy mời dự đại tiệc và chủ biết ai sẽ đến. Trước bữa
tiệc, như thường lệ, chủ sai đầy tớ đi mời lần nữa: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”.
Quý khách đã nhận lời trước, đến phút chót lại từ chối, làm chủ nhục nhã ế mặt
quá. Những lời từ chối cho chủ thấy rõ: Họ quan tâm đến công việc của họ hơn đến
dự tiệc với chủ mời. Xin kiếu vì mới mua thửa đất, mới tậu bò, mới cưới vợ.
Tất cả mọi người Ít-ra-en đều được Thiên Chúa mời dự tiệc nước trời. Bây
giờ, Đức Giêsu đến mời lần chót. Cần phải ăn năn sám hối trở về vì đây là ngày
cứu độ. Biệt phái từ chối lời mời của Người vì họ lo việc riêng của họ, quay mặt đi
chỗ khác không lưu tâm đến Thiên Chúa. Họ phỉ báng và kiêu ngạo từ chối quà
tặng vinh quang của Thiên Chúa.
Ông chủ lúc đó sai đi mời vào dự đại tiệc tất cả mọi người đã bị cộng đồng
dân thánh Ít-ra-en loại bỏ. Vẫn còn nhiều chỗ trống trong đại tiệc, đầy tớ lại đi mời
tất cả mọi dân tộc dân ngoại một cách tha thiết, khẩn khoản dù họ luôn luôn bị coi
là thứ ô uế như cộng đồng Ít-ra-en khinh bỉ họ. Họ được thuyết phục để họ thấy
mình thật sự được mời dự đại tiệc.
Trước sự chai đá của biệt phái đã từ chối tin vào Đức Giêsu, Người muốn
nhấn mạnh để họ suy nghĩ rằng: Họ đã tự ý tách khỏi nước trời, trong khi Thiên
Chúa vô cùng thương yêu đã kêu gọi những người nghèo khó và tội lỗi, dù họ cảm
thấy họ là kẻ bất xứng nhất.
Ngày nay, sự dửng dưng vô cảm với bàn tiệc Nước Trời vẫn còn đó nơi
người Kitô hữu chúng ta. Vì thế, không lạ gì khi vẫn có những người thích ăn chơi,
nhậu nhẹt, chè chén say xưa; hay vẫn tin vào những chuyện mê tín dị đoan; hoặc
những chân lý nửa vời nên không màng chi đến chuyện đạo đức, lễ lạy…, nên
người ta dễ bỏ qua những việc bác ái, đạo đức thường ngày… Chúng ta nhiều khi
sẵn sàng đặt để vai trò của Chúa xuống hàng thứ yếu, nhưng khi được hỏi thì vẫn
nói là mến Chúa trên hết mọi sự! Ôi thật là một sự giả hình!
Tin Mừng hôm nay cho thấy, chủ tiệc đã dọn sẵn cỗ bàn để đãi khách. Thiệp
mời cũng đã được gửi đi, nhưng niềm vui chỉ có được khi khách đến hiện diện nơi
bàn tiệc mà thôi.
Thật thế, những người được mời đâu đoái hoài gì đến thiện ý của Chủ tiệc,
nên đã đặt những chuyện cá nhân lên trên và viện cớ: nào là đi tậu đất, thăm trại,
mua bò và mới cưới…
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy có lòng nhân từ như Thiên
Chúa là Đấng yêu thương hết thảy mọi người, không phân biệt họ là ai… đồng thời
cũng dạy cho chúng ta bài học về sự mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa và thi
hành những điều Chúa dạy để được sống đời đời. Niềm vui sẽ nên trọn khi chúng
ta để cho tình yêu của Thiên Chúa phủ lấp trên mình và chi phối nơi cuộc sống của
chúng ta.
2024
BÁC ÁI VÔ VỊ LỢI VÀ KHIÊM NHƯỜNG
BÁC ÁI VÔ VỊ LỢI VÀ KHIÊM NHƯỜNG
(Lc 14, 12-14)
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người tự cao tự đại, kiêu
ngạo, giả hình, háo danh, đề cao quyền lực và lợi nhuận, say mê thống trị và chiếm
đoạt, bè phái và chia rẽ, ăn miếng trả miếng và mưu cầu tư lợi. Lòng quảng đại, sự
dịu dàng, hiền lành đang dần vắng bóng, thay vào đó là sự cộc cằn, thô lỗ, hay
nóng giận và thù hằn. Lòng khiêm nhường lại càng hiếm hoi, khi người ta sống
theo chủ nghĩa khoe khoang, thích thể hiện, tự phụ, cậy vào tài năng của mình và
đề cao cái tôi. Lịch sử nhân loại đã không có ít bậc vĩ nhân vì chán ghét cảnh tranh
chấp quan trường mà cáo quan về ở ẩn. Họ luôn giữ cho lòng mình trong sáng, tinh
thần khiêm tốn và thanh cao. Chỉ ai thực thi bác ái, sống vị tha mới có khả năng
yêu thương thực sự.
Bằng dụ ngôn khách được mời tới dự tiệc cưới, Chúa Giê-su dạy chúng ta
hãy khiêm nhường dành chỗ nhất, chỗ trọng cho người khác: “Đừng tìm kiếm chỗ
nhất “. Chúa biết chúng ta thường thích chỗ nhất ở nơi công cộng, trong nhà cũng
như ngoài phố, nơi hội họp cũng như bàn ăn… Người biết ý định của chúng ta, nên
Người khuyên chúng ta: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ
nhất” (Lc 14,8).
Qua bữa tiệc hôm qua, Đức Giê-su đã dạy thực khách bài học về khiêm
nhường (Lc 14,7-11), hôm nay Ngài lại dạy thêm bài học về việc chia sẻ, biết cho
đi. Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại: “bánh ít cho đi, bánh
quy cho lại”, hay Tây phương cũng có câu: “Do ut des”: tôi cho anh để anh cho
lại. Cho đi mà không được lại thì tinh thần dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ
đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình. Đàng này, Đức Giê-su lại dạy: thi ân
cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho người không có khả năng đền đáp,
cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Chúng ta đã chọn lối sống nào của
người đời hay của Đức Giê-su?
Thật sự mà nói, thường thì mọi người chúng ta làm cái gì cho nhau cũng
muốn có qua có lại, thậm chí tham lam theo kiểu “thả con tép bắt con tôm”, “thả
con săn sắt bắt con cá rô”, hoặc “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tự bản chất
chúng ta cho thấy có một sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, khi
dọn tiệc, chúng ta vẫn ưu tiên mời người giàu, và nếu đang lúc dùng bữa, gặp
người giàu chúng ta vẫn dễ dàng mời họ hơn thấy một người ăn mày đi qua…
Nói tóm lại, chúng ta bỏ ra thì muốn thu lại, thậm chí muốn thu lại hơn gấp
nhiều lần, chứ ít ai trong chúng ta có được một lòng quảng đại chia sẻ cho những
người nghèo khó. Chúng ta vẫn lấy tiêu chuẩn “công bằng kiểu làm ăn kinh tế” để
đối xử với nhau, thì điều này chúng ta là Ki-tô hữu cũng chẳng hơn gì, vì người
ngoại họ cũng làm được hơn cả chúng ta, bởi làm việc lành mà được đáp lại, nghĩa
là được thưởng công rồi, nên chẳng còn công phúc gì trước mặt Thiên Chúa cả
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Đức Giê-su.
Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc
nhập thể. Đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì
khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Đức Giê-su đã xuống
ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yêu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật,
nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Đức Giê-su không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ
nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng
có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ
mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những
người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất
cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ân huệ của Thiên
Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý
thức rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên
Chúa chờ mong nơi họ
Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cao cả, Người ấp ủ
trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm
nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, “lấy lòng khiêm nhường mà coi
người khác hơn mình” (Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là
phần thưởng của họ: “Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người
nghèo; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh“. Anh có thể có bác ái
trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng
làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của
Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Đức Giê-su là tấm gương sáng chói về tinh thần cho đi cách quảng đại. Ngài
đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” để đến với con người, sống như con
người, hiến dâng mạng sống cho con người, mà không đòi hỏi bất kỳ sự trả ơn,
đền đáp nào.
Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên
trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước
Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó
những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu.
Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc
nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì
khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống
ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật,
nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có qua có lại. Ngài đi tìm
kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình
chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có
họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những
người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất
cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên
Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý
thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên
Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài
đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta
cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài
đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và
xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
2024
Niềm Hy Vọng Vào Sự Sống Đời Đời
Niềm Hy Vọng Vào Sự Sống Đời Đời
Niềm hy vọng vào sự sống đời đời là một trong những chân lý cốt lõi của đức tin Kitô giáo, mang đến cho các tín hữu niềm an ủi và định hướng trong cuộc sống. Trong hành trình đức tin, con người không chỉ sống cho hiện tại, mà còn hướng về tương lai vĩnh cửu trong Thiên Chúa, nơi mà sự sống đời này chỉ là bước khởi đầu cho một cuộc sống vĩnh hằng. Niềm tin vào sự sống đời đời không chỉ là một khái niệm lý thuyết, mà là động lực để con người sống đức tin một cách mạnh mẽ, vượt qua thử thách và đau khổ, với sự chắc chắn rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ một nơi trong Nước Trời.
Lễ cầu cho các linh hồn là dịp để nhắc nhở chúng ta về niềm hy vọng vào sự sống đời đời. Qua sự Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta tin rằng những người đã ra đi trước chúng ta sẽ được sống lại trong Thiên Chúa. Niềm hy vọng này an ủi chúng ta và giúp chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.
Hôm nay, chúng ta cùng nhau tụ họp trong Thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Đây không chỉ là dịp để tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta, mà còn là thời điểm nhắc nhở chúng ta về niềm hy vọng cao cả vào sự sống đời đời, vào lời hứa cứu độ của Chúa Kitô qua sự Phục Sinh.
Chúng ta tin rằng cái chết không phải là kết thúc, mà là một hành trình chuyển tiếp. Nhờ vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, cái chết đã không còn là điều đáng sợ, mà trở thành cửa ngõ dẫn đến sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã vượt qua cái chết để mở đường cho chúng ta, và Ngài hứa rằng ai tin vào Ngài thì sẽ không phải chết mãi mãi, nhưng sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa.
Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là nền tảng cho niềm tin và hy vọng của chúng ta vào sự sống đời đời. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, nhấn mạnh rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1 Cr 15,17). Nhưng Đức Kitô đã sống lại! Và nhờ vào sự sống lại của Ngài, chúng ta tin chắc rằng những ai đã qua đời trong đức tin sẽ được sống lại với Chúa.
Niềm hy vọng này không chỉ là một lý thuyết, mà là động lực sống. Đó là niềm an ủi giúp chúng ta đối diện với nỗi đau mất mát và sự chia lìa. Khi chúng ta nhớ đến những người thân yêu đã qua đời, chúng ta không chỉ nhớ về quá khứ, mà còn hướng về tương lai, về ngày mà chúng ta sẽ gặp lại họ trong sự sống vĩnh cửu.
Niềm hy vọng vào sự sống đời đời bắt nguồn từ chính lời hứa của Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc đời rao giảng, Ngài đã nhấn mạnh rằng Ngài đến để ban cho con người sự sống mới, không chỉ giới hạn trong cuộc đời ngắn ngủi trên trần gian, mà còn kéo dài đến vĩnh cửu. “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Đây không chỉ là lời an ủi mà còn là một cam kết của Chúa Giêsu về sự sống sau cái chết.
Thánh lễ cầu cho các linh hồn không chỉ là một hành động tưởng nhớ, mà còn là cơ hội để chúng ta bày tỏ lòng bác ái và tình yêu thương đối với các linh hồn. Giáo hội dạy rằng những linh hồn đang ở trong Luyện ngục cần lời cầu nguyện và sự trợ giúp của chúng ta. Họ đang được thanh tẩy, chuẩn bị để tiến vào sự sống vĩnh cửu với Chúa. Và qua lời cầu nguyện, đặc biệt là Thánh lễ, chúng ta có thể giúp họ sớm hoàn tất hành trình này.
Hành động cầu nguyện cho các linh hồn cũng là dấu chỉ của niềm tin vào sự liên đới giữa chúng ta – những người còn sống – với các linh hồn đã qua đời. Chúng ta thuộc về cùng một thân thể trong Chúa Kitô, và vì vậy, chúng ta có trách nhiệm nâng đỡ lẫn nhau trong hành trình đến với Thiên Chúa.
Chúng ta cầu nguyện không chỉ vì nghĩa vụ, mà còn vì niềm tin vào lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Lời hứa này không chỉ dành cho những người đã khuất, mà còn là lời hứa cho chính chúng ta. Chúng ta sống trong niềm hy vọng rằng khi đến thời điểm, chúng ta cũng sẽ được sống lại và gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước.
Ngày hôm nay, khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta hãy xin Chúa ban ơn bình an và niềm vui vĩnh cửu cho họ. Hãy tin tưởng rằng Chúa đang chờ đợi họ trong vinh quang Nước Trời, nơi không còn đau khổ, nước mắt, hay buồn phiền.
Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta cũng được nhắc nhở về cuộc sống hiện tại của chính mình. Sự chết là một phần không thể tránh khỏi của cuộc sống, nhưng cái chết không phải là dấu chấm hết. Cách chúng ta sống hôm nay sẽ ảnh hưởng đến sự sống đời đời của chúng ta. Chúng ta được mời gọi sống với lòng tin tưởng và yêu thương, để luôn sẵn sàng bước vào đời sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị.
Niềm hy vọng vào sự sống đời đời không chỉ là niềm tin cho tương lai mà còn ảnh hưởng đến cách con người sống hiện tại. Khi nhìn vào cuộc đời tạm bợ, đau khổ và bất trắc, con người có thể dễ dàng rơi vào sự lo âu và thất vọng. Nhưng nhờ niềm tin vào sự sống đời đời, họ có thể vượt qua mọi khó khăn với lòng tin tưởng rằng tất cả những nỗi khổ đau hiện tại chỉ là tạm thời. Thánh Phaolô từng chia sẻ: “Những đau khổ hiện nay chẳng đáng kể gì so với vinh quang sẽ được tỏ ra nơi chúng ta” (Rm 8,18). Điều này khuyến khích các tín hữu sống với sự kiên nhẫn và bình an, biết rằng cuộc sống này chỉ là một phần của hành trình dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Niềm hy vọng này cũng khơi dậy lòng khao khát sống thánh thiện và làm những việc lành phúc đức. Bởi vì, trong niềm tin Kitô giáo, mọi hành động yêu thương và bác ái sẽ góp phần giúp con người đạt được sự sống vĩnh hằng. Họ không sống cho chính mình mà là sống cho người khác và cho vinh quang của Thiên Chúa, vì họ tin rằng những gì họ làm hôm nay sẽ ảnh hưởng đến đời sống vĩnh cửu mai sau.
Cái chết luôn là một thực tại đau đớn và khó chấp nhận đối với con người, nhưng niềm hy vọng vào sự sống đời đời giúp người Kitô hữu đối diện với cái chết trong niềm an ủi và hy vọng. Khi người thân yêu ra đi, người còn sống không chỉ tưởng nhớ họ trong nỗi buồn mà còn trong sự tin tưởng rằng họ đang bước vào một cuộc sống mới với Thiên Chúa. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn, đặc biệt là ngày lễ các linh hồn vào 2 tháng 11, là dịp để người Kitô hữu nhớ về sự liên đới với những người đã qua đời và cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Niềm tin vào sự sống đời đời không chỉ an ủi khi phải chia lìa, mà còn giúp mỗi người chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết của chính mình. Sống với niềm tin này, người Kitô hữu được khuyến khích luôn sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa, và sống từng ngày trong tinh thần hòa bình và tin tưởng. Cái chết không còn là kết thúc, mà là một cuộc chuyển tiếp sang một đời sống trọn vẹn hơn, với Thiên Chúa, nơi không còn đau khổ, nước mắt hay bệnh tật.
Niềm hy vọng vào sự sống đời đời cũng là một lời mời gọi cho mọi Kitô hữu sống đức tin một cách mạnh mẽ và kiên định. Các thánh là những chứng nhân sống động cho niềm hy vọng này. Họ đã sống và hy sinh, không phải vì những phần thưởng ở đời này, mà vì họ tin vào phần thưởng vĩnh cửu nơi Thiên Đàng. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu từng nói: “Tôi không chết, tôi đi vào cuộc sống.” Đây là tâm tình của một người hoàn toàn tin tưởng vào sự sống đời đời và nhìn cái chết như một khởi đầu mới trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Người Kitô hữu được mời gọi sống đời sống của mình trong ánh sáng của niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu, để mỗi hành động, lời nói và quyết định đều phản ánh lòng tin tưởng vào Chúa và vào đời sống mai sau. Đây không phải là sự né tránh thực tại hay trốn tránh đau khổ, mà là sống thực sự cho điều gì có ý nghĩa nhất: mối tương quan với Thiên Chúa và sự cứu độ của linh hồn.
Lễ cầu nguyện cho các linh hồn là cơ hội để chúng ta sống tốt hơn mỗi ngày, trong niềm tin vào sự phục sinh, trong sự hiệp nhất với các linh hồn đã qua đời, và trong niềm hy vọng vào sự sống đời đời.
Hôm nay, khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện cho các linh hồn, hãy giữ vững niềm hy vọng vào sự sống đời đời mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta qua sự Phục Sinh của Ngài. Chúng ta không đơn độc trong cuộc hành trình này. Những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta đang chờ đợi trong vinh quang của Chúa, và chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng lời cầu nguyện chân thành. Niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu là niềm an ủi và động lực để chúng ta tiếp tục sống đức tin mạnh mẽ và yêu thương mỗi ngày.
Niềm hy vọng vào sự sống đời đời là cội nguồn của niềm vui và sức mạnh cho mỗi người Kitô hữu. Đó là động lực giúp họ sống cuộc đời đầy ý nghĩa và vượt qua mọi thử thách, đau khổ với lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa. Sự sống đời đời không chỉ là một viễn cảnh xa xôi, mà là một thực tại mà mỗi người được mời gọi hướng đến, chuẩn bị cho, và sống vì. Trong niềm tin này, con người sẽ tìm thấy sự an ủi, bình an và hy vọng, ngay cả giữa những thăng trầm của cuộc sống.
2024
Tất Cả Mọi Người Đều Được Mời Gọi Để Trở Nên Thánh Thiện
Tất Cả Mọi Người Đều Được Mời Gọi Để Trở Nên Thánh Thiện
Tất cả mọi người đều được mời gọi để trở nên thánh thiện, không chỉ các linh mục, tu sĩ, mà mọi tín hữu. Các thánh là những tấm gương về sự thánh thiện, qua đó chúng ta được mời gọi noi gương họ để sống cuộc đời trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã đưa ra một lời mời gọi vô cùng quan trọng và đầy thử thách: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đây là một trong những lời mời gọi cao cả nhất mà Chúa Giêsu đã gửi đến nhân loại, nhấn mạnh đến sự hoàn thiện và thánh thiện mà mọi tín hữu được kêu gọi đạt tới trong cuộc sống.
Khi nghe đến từ “hoàn thiện,” có lẽ chúng ta sẽ nghĩ đến sự không lỗi lầm, một trạng thái lý tưởng mà không ai có thể đạt được. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu ở đây không phải là sự hoàn hảo không có sai sót, mà là sự hoàn thiện trong tình yêu.
Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn thiện trong tình yêu và lòng thương xót. Ngài yêu thương tất cả mọi người mà không phân biệt, không loại trừ ai. Ngài mời gọi chúng ta bước vào con đường hoàn thiện, không phải bằng những thành tựu ngoại diện, mà bằng tình yêu trọn vẹn, không vụ lợi, một tình yêu phản ánh tình yêu của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống một đời sống yêu thương vượt trên mọi giới hạn. Trước đó, trong cùng bài giảng trên núi, Ngài dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Đây là một sự hoàn thiện vượt quá những gì tự nhiên của con người. Yêu thương những người yêu thương mình thì dễ, nhưng yêu kẻ thù và những người làm hại mình thì thực sự khó khăn.
Tuy nhiên, chính trong điều đó, chúng ta phản ánh tình yêu không điều kiện của Chúa Cha. Ngài yêu thương tất cả mọi người, kể cả những người tội lỗi. Ngài không ngừng ban ơn lành và mưa móc xuống trên người lành cũng như kẻ dữ. Ngài là nguồn mạch của lòng thương xót vô biên. Đó chính là lời mời gọi mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đáp lại — hãy yêu thương và tha thứ theo cách mà Chúa yêu thương và tha thứ.
Sự hoàn thiện không phải là một điều mà chúng ta có thể đạt được nhờ vào sức mạnh hay nỗ lực cá nhân. Đó là một hành trình cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Trong hành trình này, chúng ta được mời gọi khiêm nhường nhận ra những yếu đuối của bản thân và biết cầu nguyện, xin Chúa ban ơn để hoàn thiện mỗi ngày.
Khi cầu nguyện, chúng ta mở lòng ra để Thiên Chúa biến đổi. Chính qua việc cầu nguyện, Ngài giúp chúng ta vượt qua những giới hạn của bản thân, giúp chúng ta nhìn người khác bằng ánh mắt thương xót và sống một đời sống yêu thương đích thực.
Sự hoàn thiện mà Chúa mời gọi không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc đặc biệt hay trong các hành động lớn lao. Sự hoàn thiện nằm trong chính đời sống hằng ngày của chúng ta, trong cách chúng ta đối xử với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, và cả những người chúng ta không ưa thích.
Chúng ta có thể sống nên hoàn thiện qua những hành động nhỏ: chăm sóc người thân, tha thứ cho người làm tổn thương mình, giúp đỡ người khó khăn mà không cần đền đáp, và luôn đặt tình yêu Chúa làm trung tâm của mọi việc. Mỗi hành động yêu thương, dù nhỏ bé, đều là một bước tiến trên con đường nên hoàn thiện mà Chúa mời gọi.
Lời mời gọi “nên hoàn thiện” không phải là một mục tiêu mà chúng ta có thể đạt được ngay tức khắc. Đó là một hành trình suốt đời, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, không ngừng cải thiện bản thân và không ngừng cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa.
Dù có những lúc thất bại, dù có những lúc chúng ta cảm thấy mình không xứng đáng, nhưng hãy nhớ rằng Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải trở nên hoàn hảo theo nghĩa không tỳ vết, mà Ngài mong muốn chúng ta biết yêu thương nhiều hơn, tha thứ nhiều hơn, và sống tốt hơn mỗi ngày.
Trong đời sống đức tin của người Kitô hữu: sự thánh thiện là lời mời gọi khẩn thiết. Lời mời gọi trở nên thánh thiện không phải chỉ dành riêng cho các linh mục, tu sĩ, mà cho tất cả mọi tín hữu. Đây là một chân lý cốt lõi của Kitô giáo, được nhấn mạnh qua Lời Chúa và qua gương sống của các thánh.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đây là một lời mời gọi dành cho mọi người, không phân biệt giới tính, tuổi tác, hay địa vị xã hội. Sự thánh thiện không phải là điều gì xa vời hay chỉ dành cho một nhóm người đặc biệt. Thay vào đó, đó là một hành trình mà mọi tín hữu được kêu gọi thực hiện trong cuộc sống hằng ngày của mình.
Chúng ta không cần phải là những nhà thần học xuất sắc, hay làm những điều vĩ đại để trở nên thánh thiện. Sự thánh thiện được thể hiện qua những hành động yêu thương nhỏ bé, sự tha thứ, lòng kiên nhẫn và sự hy sinh vì tha nhân.
Các thánh là những chứng nhân sống động cho sự thánh thiện. Mỗi vị thánh có những hoàn cảnh, câu chuyện và hành trình riêng. Có những thánh sống đời sống tu trì, nhưng cũng có những vị thánh là những người mẹ, người cha, hay những người lao động bình thường.
Ví dụ, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu – một cô gái trẻ đã trở thành vị thánh bằng cách sống một cuộc sống đầy khiêm nhường và yêu thương trong dòng kín. Ngài không làm những việc phi thường, nhưng từng hành động nhỏ của Ngài đều được thực hiện với tình yêu cao cả. Chính điều đó đã giúp Ngài đạt tới sự thánh thiện.
Chúng ta cũng có thể nhìn vào gương của các thánh tử đạo Việt Nam – những con người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin. Họ là minh chứng cho sự kiên định trong tình yêu Thiên Chúa, bất chấp những đau khổ và thử thách.
Sự thánh thiện không phải là một điều trừu tượng. Đó là điều mà chúng ta có thể sống trong từng giây phút của cuộc đời. Khi chúng ta yêu thương gia đình, chăm sóc người bệnh, giúp đỡ những người nghèo khó, hay đơn giản là dành thời gian cầu nguyện với Chúa – tất cả những hành động này đều là những bước tiến tới sự thánh thiện.
Thánh thiện không phải là một đích đến, mà là một hành trình. Hằng ngày, chúng ta được mời gọi sống gần gũi với Chúa hơn qua các hành động yêu thương, hy sinh, và tha thứ.
Sự thánh thiện không chỉ là việc giữ những điều luật tôn giáo hay thực hiện các nghi thức một cách máy móc. Sự thánh thiện là sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, làm mọi việc vì tình yêu đối với Ngài. Điều này có nghĩa là chúng ta sống một cuộc đời cầu nguyện, kết nối với Chúa qua các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể, và để cho tình yêu của Chúa dẫn dắt mọi hành động của chúng ta.
Khi chúng ta nhìn vào cuộc đời các thánh, chúng ta thấy rằng sự thánh thiện không chỉ được thể hiện qua những điều lớn lao, mà chính trong những hành động nhỏ bé, âm thầm, nhưng đầy tình yêu và lòng kính sợ Chúa. Chúng ta được mời gọi để sống cuộc đời này bằng sự kết hợp với Chúa và mang tình yêu Ngài đến với mọi người.
Cuộc sống của chúng ta, dù có những lúc thăng trầm và khó khăn, luôn có thể trở thành một hành trình thánh thiện nếu chúng ta để cho Thiên Chúa dẫn dắt. Lời mời gọi trở nên thánh thiện dành cho tất cả chúng ta, không phân biệt ai. Các thánh là những tấm gương sống động nhắc nhở chúng ta rằng, dù hoàn cảnh có thế nào, chúng ta đều có thể đạt được sự thánh thiện nếu chúng ta sống với tình yêu và lòng tin vào Thiên Chúa.
Lời mời gọi “hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” là một lời mời gọi đầy yêu thương và hy vọng. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi, mà Ngài còn ban ơn và đồng hành với chúng ta trên hành trình này. Hãy để tình yêu và lòng thương xót của Chúa trở thành ánh sáng dẫn đường cho mỗi người trong cuộc sống hằng ngày, để mỗi ngày chúng ta có thể trở nên giống Chúa hơn, qua tình yêu, sự tha thứ và lòng thương xót.