2021
Lạy Đức Mẹ MARIA, Xin Cầu Cho Các Linh Hồn Bị Bỏ Rơi nơi Luyện Ngục
Lạy Đức Mẹ MARIA, Xin Cầu Cho Các Linh Hồn Bị Bỏ Rơi nơi Luyện Ngục
Năm 1884, Đức Ông Paul-Joseph Buguet (1843-1918) thành lập Hội Phạt Tạ tại Chappelle-Montligeon, miền Trung nước Pháp. Hội Phạt Tạ có mục đích đền tội và cầu nguyện cho các Linh Hồn bị bỏ rơi, các Linh Hồn mồ côi, được mau giải thoát ra khỏi Lửa Luyện Ngục. Một thời gian sau ngày thành lập, Hội Phạt Tạ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903) nâng lên hàng Tổng Hội.
Rất nhanh sau đó, Hội Phạt Tạ được truyền bá khắp thế giới. Không một quốc gia nào lại không biết đến Hội, và mỗi quốc gia đều có hàng ngàn thành viên. Báo chí, tác phẩm của Hội viết bằng tiếng Pháp, được chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau. Hội có các thành viên nhiệt thành ở khắp các nước Âu Châu, Phi Châu, Úc Châu, trong toàn Châu Mỹ và ngay cả miền Cận Đông nữa.
Hội Phạt Tạ có trụ sở tại đền thánh Đức Mẹ Montligeon. Đền Thánh được cung hiến ngày 28-8-1928 với tước hiệu ”Đức Mẹ Giải Thoát Các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Hình”. Bức tượng được tôn kính trong Đền Thánh, có hình Đức Mẹ MARIA bồng Đức Chúa GIÊSU. Đức Chúa GIÊSU đang cúi xuống đội triều thiên cho Linh Hồn của một tín hữu vừa được giải thoát khỏi Luyện Ngục đang quỳ dưới chân Đức Mẹ MARIA, về phía bên phải. Tín hữu này đôi tay chắp trước ngực và ngước mắt nhìn Đức Mẹ MARIA. Dưới chân Đức Mẹ MARIA về phía bên trái, là hình Linh Hồn của một tín hữu còn bị giam cầm, đang ngồi, hai tay xếp lại trên đầu gối và bị mang còng. Tín hữu này ngước mặt van lơn nhìn Đức Mẹ MARIA.
Bức tượng Đức Mẹ MARIA và Đức Chúa GIÊSU này được đội triều thiên ngày 19-9-1935, thể theo ý muốn của Đức Thánh Cha Pio XI (1922-1939). Hai năm sau, ngày 12-7-1937, Đức Hồng Y Eugenio Pacelli, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh – sau này lên ngôi Giáo Hoàng với tên Pio XII – đến Montligeon, quỳ gối cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Giải Thoát các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Tội. Khi được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Pio XII (1939-1958) chấp nhận tước hiệu ”Người Bảo Trợ Hội Phạt Tạ”. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963), ghi tên gia nhập Hội Phạt Tạ từ năm 1929. Còn Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978) thì ban Phép Lành Tòa Thánh cho Hội Phạt Tạ và cho tất cả những thành viên của Hội.
Ngày 20-5-1908, Đức Thánh Giáo Hoàng Pio X (1903-1914), ban 100 ngày ân xá cho mỗi thành viên Hội Phạt Tạ, mỗi khi đọc lời nguyện sau đây, để cầu cho Các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, dâng lên Đức Mẹ Montligeon (Đức Mẹ Giải Thoát các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Hình):
Kính lạy Đức Trinh Nữ MARIA Vinh Hiển, xin Mẹ hãy thương xót đoái nhìn đến những Linh Hồn thánh thiện, còn đang bị cầm giữ một thời gian thanh luyện, cách xa Chúa và xa Mẹ, Người Mẹ rất từ bi nhân hậu của các ngài. Xin Mẹ hãy bẻ gãy xích xiềng và mau giải thoát các ngài khỏi vực thẳm, nơi các ngài đang than khóc, hướng vọng về thiên quốc và mong mau đến ngày được hạnh phúc kết hiệp vĩnh viễn cùng Chúa, Đấng mà lòng các ngài hằng ước ao khao khát. Xin Mẹ để ý cách riêng đến những Linh Hồn bị bỏ rơi nhất. Chúng con đặc biệt khẩn cầu cùng Mẹ đoái thương đến các ngài. Ôi lạy Mẹ nhân ái, xin Mẹ hãy chấp nhận lời chúng con nài van. Chúng con dâng lời tha thiết kêu van Mẹ, lạy Mẹ MARIA, xin Mẹ hãy quy tụ tất cả chúng con về Trời, bên cạnh Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng con, Người Con Đáng Kính Đáng Tôn của Mẹ, là Đấng Hằng Sống, Hằng Trị, cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần, đến muôn thưở muôn đời chẳng cùng. Amen.
Lạy Đức Mẹ MARIA Montligeon, xin cầu cho các Linh Hồn bị bỏ rơi nơi Luyện Ngục.
… ”Lạy THIÊN CHÚA, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy THIÊN CHÚA, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Thánh Vịnh 51(50) 3-14).
(Maria Simma, ”Les Âmes du Purgatoire m’ont dit”, Editions du Parvis, 1990, trang 120)
2021
Lòng sùng kính Đức Mẹ tại Bulgaria
Bulgaria đã sống dưới nhiều sự thống trị khác nhau và đã giữ được đức tin cũng nhờ vào lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria; tâm tình này vẫn còn nguyên vẹn ngay cả trong những năm đen tối dưới thời cộng sản.
Lòng sùng kính Đức Mẹ lan rộng khắp Bulgaria kể từ khi nước này bắt đầu theo Kitô giáo và lan rộng mạnh mẽ, mặc dù không có nhiều nhà thờ và đan viện kính Đức Mẹ từ thời kỳ đó. Tuy nhiên, vấn đề không nằm ở các đan viện nhưng nằm trong cội nguồn của một quốc gia đã trở lại Kitô giáo vào năm 865, và tạo nên một bản sắc dân tộc sâu đậm đến nỗi sự thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ và sự lan rộng của Hồi giáo cũng không làm cho nó bị phôi phai.
Đối thoại giữa các tôn giáo
Bulgaria trở thành một ví dụ về đối thoại giữa các tín ngưỡng, trong đó, người Do Thái, Kitô giáo và Hồi giáo biết cách chung sống với nhau. Làm chứng cho điều này chính là “Tứ giác” ở thủ đô Sofia, nơi chỉ trong vài mét vuông, ở các góc của một hình vuông lý tưởng, có nhà thờ Công giáo, Chính Thống giáo, đền thờ Hồi giáo và hội đường Do Thái.
Hai đền thánh chính
Đền thánh chính ở Bulgaria là đền thánh ở Rila, được ẩn sĩ Giovanni Rilski, vị thánh bảo trợ của quốc gia, thành lập vào đầu những năm 1900. Một đền thánh quan trọng khác kính Đức Mẹ được xây dựng vào thế kỷ XI, là đền thánh ở Backovo, được xây dựng trong hai thế kỷ thống trị của đế quốc Byzantine (1018 – 1185).
Vua Kalojan trị vì từ năm 1196 đến năm 1207, và lòng sùng kính Đức Mẹ đã phát triển mạnh mẽ dưới thời ông trị vì. Trong số các di tích quan trọng nhất, có nhà thờ của Tòa Thượng phụ Ocrida, ngày nay thuộc lãnh thổ Bắc Macedonia. Ở đó, trong nhà thờ dâng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, có lưu giữ thánh tích của thánh Clement Ocrida, một môn đệ của hai thánh Xyrilô và Metôđiô. Trong những năm đó, các thánh đường kính Đức Mẹ ở Varna, Plovdiv và Tirnovo cũng được xây dựng. Ở Tirnovo cũng có một nhà thờ khác kính Đức Mẹ , đó là nhà thờ Bụi gai bốc lửa.
Dưới thời Thổ Nhĩ Kỳ cai trị
Từ năm 1393 đến năm 1878, quốc gia này nằm dưới sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ. Năm thế kỷ Thổ Nhĩ Kỳ thống trị không ảnh hưởng đến Kitô giáo, bởi vì lòng sùng kính các thánh và Đức Trinh Nữ Maria được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và bảo tồn đức tin. Lòng sùng kính Đức Mẹ rất quan trọng: trong nhiều thế kỷ bị Thổ Nhĩ Kỳ thống trị, có những ví dụ về lòng sùng kính phi thường đối với ảnh Đức Mẹ thành Troy.
Phục hồi tiếng Bulgaria
Việc sử dụng tiếng Bulgari cũng gần như bị biến mất. Chính tại các đền thánh của Troy và Rila mà nền văn hóa dân tộc được duy trì và chính các trường học của các đan viện đó đã giúp khôi phục vai trò của tiếng Bungaria.
Lưu giữ bản sắc dân tộc
Đâu là lịch sử của các đền thánh đã lưu giữ bản sắc dân tộc Bulgaria? Đền thánh Mẹ Thiên Chúa Bảo Vệ ở Rila, nằm trên núi cao. Vào năm 1960, cộng sản đã đuổi các đan sĩ, nhưng sau, do các cuộc biểu tình dữ dội của dân chúng, họ phải gọi các đan sĩ trở lại.
Đan viện Đức Mẹ Lên Trời ở Backovo được xây dựng vào thời kỳ đế quốc Byzantine cai trị Bulgaria, vào năm 1086, bởi Gregorio Bakouriani. Dưới sự thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ, vào thế kỷ XVII, Đền thờ Đức Mẹ Lên Trời ở thành Troy đã phát triển. Ở đó, có hình Đức Mẹ với ba bàn tay, một hình ảnh đặc trưng của truyền thống Byzantine, đã được một đan sĩ Rumani đi ngang qua và lưu lại như một món quà.
2021
Về việc sử dụng bài hát “Chúa chăn nuôi tôi” của nhạc sĩ Phanxicô làm Thánh vịnh đáp ca
Nhiều lần, khi tham dự các thánh lễ an táng, hay cầu cho người qua đời, chúng tôi nhận thấy ở khá nhiều nơi, người ta sử dụng bài hát Chúa chăn nuôi tôi của nhạc sĩ Phanxicô trong phần Thánh vịnh đáp ca. Bài hát có giai điệu khá hay, nhưng lời bài hát chỉ lấy một số ý từ Tv 23 (22), chứ không phải chính bản văn Lời Chúa, nên không thể sử dụng làm Thánh vịnh đáp ca. Khi có dịp thuận tiện, chúng tôi thường nhắc nhở những người chọn bài hát, các chủng sinh và nữ tu, về việc này. Tuy nhiên, chúng tôi thấy cần phải trình bày vấn đề này ở phạm vi rộng rãi hơn để tránh những sai sót không đáng có trong các cuộc cử hành phụng vụ.
Một số những qui định phụng vụ
Bài Thánh vịnh đáp ca được xác định là một thành phần trong phụng vụ Lời Chúa. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma, ở số 57, đưa ra hướng dẫn như sau:
“Trong các bài đọc, bàn tiệc lời Chúa được dọn ra cho các tín hữu và các kho tàng Thánh Kinh được mở ra cho họ. Bởi thế, nên giữ thứ tự các bài đọc Thánh Kinh để cho người ta thấy rõ sự thống nhất của cả hai giao ước và lịch sử cứu độ, cũng không được phép thay thế các bài đọc và thánh vịnh đáp ca vốn chứa đựng lời Chúa, bằng các bản văn khác ngoài Thánh Kinh.”
Sau đó, cũng Quy chế trên đây hướng dẫn cụ thể hơn về Thánh vịnh đáp ca, ở số 61:
“Sau bài đọc thứ nhất là thánh vịnh đáp ca, bài ca này là thành phần trọn vẹn của phụng vụ lời Chúa và rất quan trọng về mặt phụng vụ và mục vụ, vì giúp suy niệm lời Chúa. Thánh vịnh đáp ca phải thích hợp với mỗi bài đọc và thường phải lấy từ Sách Bài đọc.”
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm được thắc mắc của Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà về vấn đề này, với tư cách là Giám mục phụ trách Uỷ ban thánh nhạc toàn quốc, gửi cho Bộ Phụng tự và Kỉ luật bí tích ngày 10-11-2008. Câu trả lời liên quan đến lời văn Thánh vịnh đáp ca trong thư của Bộ nêu trên, ngày 3-2-2010, như sau:
“Về bản văn của các Thánh vịnh Đáp ca bằng tiếng Việt, Ngài có trình bày những khó khăn trong việc soạn các âm điệu vì tiếng Việt có tới sáu dấu, bởi vậy việc cho các dấu của ngôn ngữ hòa hợp với các nốt nhạc qủa rất khó. Bộ hiểu nỗi khó khăn này, nhưng đồng thời, Bộ cũng tin tưởng rằng Ủy ban Thánh Nhạc thuộc Hội đồng Giám mục sẽ tìm ra những giải đáp thỏa đáng để có được những âm điệu hay và xứng hợp cho các bản văn này (xin xem Huấn dụ De Liturgia Romana et Inculturatione [Về Phụng vụ Roma và việc Hội nhập văn hóa], 25 /01/ 2004, số 40).
Nếu mỗi âm điệu đều đòi hỏi phải sửa đổi đôi chút bản văn, cho dù là những lời rất đơn giản, thì tình trạng của các bản văn phụng vụ chính thức này cuối cùng sẽ ra sao? Bản văn phụng vụ chắc chắn sẽ lộn xộn. Các nhạc sĩ công giáo Việt Nam khi được các Đức Giám mục yêu cầu sáng tác các âm điệu cho các bản văn phụng vụ, thì cũng được yêu cầu chấp nhận hy sinh cần thiết trong việc soạn các âm điệu theo các chuẩn mực của Giáo Hội liên quan đến vấn đề.”[1]
Như vậy, những qui tắc phụng vụ đều nhấn mạnh rằng Thánh vịnh đáp ca là một phần của phụng vụ Lời Chúa và nếu có dệt nhạc, bản văn phải được lấy từ Sách Bài Đọc.
Đối chiếu lời bài hát Chúa chăn nuôi tôi của nhạc sĩ Phanxicô
Ở đây, chúng tôi sẽ không tiến hành công việc đối chiếu theo kiểu hàn lâm, tức là so sánh lời bài hát với các bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hípri hay tiếng Latinh. Chúng tôi sẽ đặt lời bài hát Chúa chăn nuôi tôi của nhạc sĩ Phanxicô bên cạnh bản dịch Sách Bài Đọc được ấn hành năm 1973 và bản dịch Kinh Thánh của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV) để độc giả tiện so sánh.
THÁNH VỊNH 23 (22)
Bản dịch 1973[2] | Bản dịch CGKPV[3] | Lời bài hát[4] |
Tv 22,1-3a.3b-4.5.6
Xướng 1: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguốn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Đáp (1): Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Hoặc đọc (4a): Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. 2: Người dẫn tôi qua những con đường đoan-chánh, sở dĩ vì uy danh Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi, cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng tôi. 3: Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đâu tôi thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa. 4: Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống: và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. |
1Thánh vịnh. Của vua Đa-vít.
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. 2Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành 3và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. 4Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. 5Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. 6Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên. |
ĐK: Chúa chăn nuôi tôi, Chúa chăn nuôi tôi, Chúa đưa tôi đi qua mọi nẻo đường. Người đưa tôi đi lên núi cao say sưa gió biển, vui uống suối miền Nam, vững tâm qua rừng mịt mù.
TK1: Người đưa tôi đi lên vườn trái ngát xanh trên đồi. Người dẫn tôi về tựa trùng khơi buông gió dìu mây trời. Người sắp cho tôi yến tiệc thơm hương hoa, Người rót cho tôi ly rượu thắm chan hòa. Đầu tôi người xức dầu thơm nồng nàn. TK2 : Lòng không lo âu tuy vào giữa núi vây quân thù. Lòng vẫn êm đềm dù trời đêm thung lũng đầy sương mù. Cùng Chúa tôi đi suốt đời luôn hiên ngang. Nhờ Chúa tôi vui bao ngày tháng huy hoàng. Trần gian tươi thắm mùa xuân địa đàng. TK3: Đời tôi trăm năm trong cuộc sống biết bao thăng trầm. Nghìn cõi xa gần vòng thời gian đưa mãi nhịp xoay vần. Này áo với cơm, đây bài thơ ươm mơ. Này xác với thân mang nặng tấm linh hồn. Đời tôi ôi Chúa hiểu sâu ngọn nguồn. TK4: Dù bao chông gai tin vào Chúa vẫn luôn an bài. Lòng chẳng u hoài chờ bình minh lên giã từ đêm dài. Hạnh phúc cho tôi giữa đời không đơn côi. Vạn lý xa xôi có Người dẫn đưa về. Đời tôi mây trắng nhẹ trôi về trời. |
Một vài nhận xét
Trước hết, khi đối chiếu các bản văn trên đây, độc giả có thể dễ dàng nhận ra rằng bản văn Sách Bài Đọc năm 1973 và bản văn CGKPV quả thực là hai bản dịch khác nhau của Tv 23, trong khi lời bài hát Chúa chăn nuôi tôi của nhạc sĩ Phanxicô rõ ràng không phải là bản dịch, mà chỉ được gợi hứng từ Thánh vịnh này. Nhạc sĩ đã lấy ra một số cách diễn tả và hình ảnh từ Tv 23 để dệt thành lời bài hát.
Theo những qui định đã được ghi nhận ở phần trên, nhận xét này khiến chúng tôi đi đến nhận xét thứ hai: Bài hát Chúa chăn nuôi tôi của nhạc sĩ Phanxicô không thể được dùng làm Thánh vịnh đáp ca, vì lời bài hát không phải bản văn Lời Chúa. Thiết tưởng việc dùng một bản văn của con người, dù bản văn đó được gợi hứng từ Lời Chúa, để thay thế Lời Chúa là một việc làm khó có thể biện minh và không thế chấp nhận được trong truyền thống phụng vụ của Hội Thánh công giáo.
Chúng tôi cũng ghi nhận rằng những người chọn bài hát có lẽ không chú ý đến những qui tắc phụng vụ, cũng không mấy quan tâm đến việc lời bài hát có phải là bản văn Lời Chúa hay không. Bài hát này được chọn làm Thánh vịnh đáp ca đơn giản vì người ta vẫn thường chọn những bài hát Chúa chăn nuôi tôi cho phần này trong thánh lễ. Hơn nữa, giai điệu bài hát của nhạc sĩ Phanxicô lại khá hay, những lời ca mượt mà hấp dẫn.
Do vậy, bài viết của chúng tôi chỉ muốn là một lời nhắc nhở để những ai có trách nhiệm chọn bài hát trong phụng vụ lưu ý, nhằm tránh những sai sót không đáng và không nên có. Tóm lại, bài hát Chúa chăn nuôi tôi của nhạc sĩ Phanxicô có thể được dùng vào những thời điểm khác trong phụng vụ, nhưng không thể dùng bài hát này làm Thánh vịnh đáp ca trong thánh lễ.
[1] Trích từ trang điện tử simonhoadalat.com, truy cập ngày 15-10-2021.
[2] Sách bài đọc trong Thánh lễ ngoại lịch, (Sài Gòn 1973), trang 236.
[3] Kinh Thánh ấn bản 2011, (Hà Nội 2011), trang 1145.
[4] Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn, Tuyển tập thánh ca Laudato Si, (Thành phố Hồ Chí Minh 2018), trang 176-177.
2021
SỐNG NGAY CHÍNH VÀ ĐỪNG SỢ
15 10 Tr Thứ Sáu Tuần XXVIII Thường Niên.
Thánh Tê-rê-sa Giê-su (thành Avila), Trinh nữ, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Rm 4,1-8; Lc 12,1-7.
SỐNG NGAY CHÍNH VÀ ĐỪNG SỢ
Thánh Têrêsa Avila sống trong thời kỳ nhiều khai phá cũng như nhiều biến động chính trị, xã hội và tôn giáo. Ðó là thế kỷ 16, thời của hỗn loạn và cải tổ. Cuộc đời của thánh nữ bắt đầu với sự cực thịnh của phong trào cải cách Tin Lành, và chấm dứt sau Công Ðồng Triđentinô ít lâu.
Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Têrêsa mà qua đó ngài trở nên thánh thiện, để lại gương sáng cho Giáo Hội và hậu thế gồm có ba điểm: Ngài là một phụ nữ; ngài là người chiêm niệm; ngài là người tích cực sửa đổi.
Là một phụ nữ, nhưng Têrêsa giữ vững lập trường của mình trong một thế giới “trọng nam khinh nữ” vào thời đó. Ngài là người cương quyết, gia nhập dòng Camêlô bất kể sự chống đối kịch liệt của cha mình. Ngài không phải là một con người chìm trong sự thinh lặng cũng như sự huyền bí. Ðẹp, có tài, giỏi giao tế, dễ thích ứng, trìu mến, can đảm, hăng say, ngài thực sự là một con người. Cũng như Ðức Giêsu, ngài có những mâu thuẫn lạ lùng: khôn ngoan, nhưng thực tế; thông minh, nhưng đi đôi với kinh nghiệm; huyền bí, nhưng là người quyết liệt cải cách. Một phụ nữ thánh thiện, nhưng cũng đầy nữ tính.
Têrêsa là một phụ nữ “vì Chúa”, một phụ nữ của cầu nguyện, kỷ luật và giàu lòng thương. Tâm hồn ngài thuộc về Chúa. Sự hoán cải của ngài không chỉ là một công việc tức thời, nhưng đó là một tranh đấu gian khổ suốt cả đời, bao gồm sự trường kỳ thanh luyện và đau đớn. Ngài bị hiểu lầm, bị đánh giá sai, bị chống đối khi ngài nỗ lực cải cách.
Tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục, vẫn can đảm và trung tín; ngài chống trả với chính bản thân, với bệnh tật. Và trong cuộc chiến đấu ấy, ngài luôn bám víu lấy Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Những văn bản của ngài về sự cầu nguyện và chiêm niệm là chính những kinh nghiệm bản thân của ngài: thật mạnh mẽ, thật thiết thực và thanh cao. Một phụ nữ của cầu nguyện, một phụ nữ vì Chúa.
Têrêsa cũng là một phụ nữ “vì tha nhân.” Qua sự chiêm niệm, ngài dành nhiều thời giờ và sức lực để tìm cách thay đổi chính ngài và các nữ tu Camêlô, để đưa họ trở về với những quy tắc ban đầu của nhà dòng. Ngài sáng lập trên sáu tu viện mới. Ngài đi đây đó, viết lách, chiến đấu — luôn luôn để canh tân, để cải tổ. Trong chính bản thân ngài, trong lời cầu nguyện, trong đời sống, trong nỗ lực cải tổ, trong tất cả mọi người ngài gặp, ngài là người phụ nữ vì tha nhân, người phụ nữ làm phấn khởi cuộc đời.
Vào năm 1970, Giáo Hội ban cho ngài một danh hiệu mà người đời đã nghĩ đến từ lâu: Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ đầu tiên được vinh dự này.
Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại nhiều xáo trộn, thời đại cải tổ và thời đại giải phóng. Các phụ nữ thời đại có thể nhìn đến Thánh Têrêsa như một thách đố. Thúc giục canh tân, thúc giục cầu nguyện, tất cả đều có trong con người Thánh Têrêsa là người đáng khâm phục và noi gương.
Thánh Têrêsa hiểu rõ giá trị của sự đau khổ liên tục (bệnh tật thể xác, không muốn cải tổ, khó khăn cầu nguyện), nhưng ngài đã luyện tập để có thể chịu đau khổ, ngay cả khao khát đau khổ: “Lạy Chúa, hoặc là đau khổ hoặc là chết.” Cho đến gần cuối đời, ngài đã kêu lên: “Ôi lạy Chúa! Thật đúng là bất cứ ai làm việc cho Ngài đều được trả bằng những khó khăn! Và đó thật đáng giá cho những ai yêu mến Ngài nếu chúng con hiểu được giá trị của nó.”
Đức Ki-tô là người anh trưởng luôn quan tâm dạy dỗ chúng ta. Hôm nay người dạy chúng ta tránh những men xấu trà trộn trong cuộc sống. Người cũng tỏ cho chúng ta thấy, Chúa sẽ quan phòng bảo vệ chúng ta, đừng sợ! Trong phần suy niệm hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu với nhau xem chúng ta phải tránh những men xấu nào? Chúng ta phải sống ngay thẳng trong sự thật và đừng sợ ai ? Sau cùng là giá trị con người chúng ta cao quí như thế nào?.
Các tông đồ đồng hành với Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng của Ngài. Ngài luôn tìm giờ để tâm sự, an ủi, chỉ vẽ cho các ông phải sống thế nào để Tin Mừng được loan báo. Hôm nay, Chúa căn dặn các ông phải coi chừng các khuynh hướng xấu của nhóm Pharisêu và Hêrôđê. Thái độ cũa họ gây phản loạn chống lại Chúa Giêsu. Bộ mặt giả hình,Ý tưởng xấu xa ẩn dấu trong lòng họ sẽ bị lộ ra trước mặt mọi người.
Ngày nay, xã hội chúng ta đang bị thác loạn vì khủng bố, hận thù gây chiến tranh, nạn đói kém xảy ra trên thế giới mỗi ngày thêm trầm trọng, những chiêu bài giả dối lường gạt con người. Môi trường thiên nhiên bị tàn phá, mẹ trái đất mang thân phận mong manh, phập phồng, có thể bị nổ bung bất chợt vì bầu khí quyển bị con người làm ô nhiễm đang nóng dần mỗi ngày. Vô tình, con người đang phá hủy sinh thái. Lòng người đang khủng hoảng giữa chân lý và thực tại. Điểm quan trọng là con người ngày nay đang tìm cách chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Thiên Chúa là sự sống, chối bỏ sự sống là chối bỏ Thiên Chúa.
Tất cả những gì chống lại sự sống như giết người, diệt chủng, phá thai, làm chết êm dịu, tự tử. Tất cả những gì xúc phạm đến toàn thể con người như cưa cắt phần thân thể, những cuộc tra tấn thể xác hay tinh thần, tìm cách cưỡng bách tâm lý, giam tù, lưu đày biệt xứ, bắt làm nô lệ, cảnh mãi dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em. Tất cả những điều làm hạ phẩm giá con người, biến công nhân ngang bằng với sản phẩm để thu lợi. Tất cả chúng đã làm cho nền văn minh đồi bại. Những ai thi hành những điều ấy là xúc phạm đến vinh quang Đấng Tạo Dựng. Chúng ta những Kitô hữu phải tỉnh thức và tránh xa những loại men độc hại ấy. Hãy lắng nghe Giáo huấn của Giáo Hội để sống đúng vai trò của người Kitô hữu trong thế giới hôm nay.
Là con người, ai ai cũng muốn sống trong sự tự do đích thật, nhưng không phải chuyện dễ, nhiều tình huống làm con người không dám can đảm nhận lãnh sự thật, trốn tránh sự thật, họ đã tìm cách áp đặt sai sự thật lên người khác. Chính Đức Kitô là nạn nhân trong hoàn cảnh này. Người là sự thật nhưng đã bị chối từ. Người đã trả lời Tổng trấn Philatô: “Tôi sinh ra để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật thì nghe tôi” Tất cả những ai muốn tham dự vào cuộc sống trong Vương Quốc đều phải đón nhận sự thật đã được tỏ bày nơi Đức Kitô. “Phần Đức Kitô qua việc nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã kết hợp chính mình với bất kỳ người nào muốn đón nhận Người”
Đây là vinh dự của mỗi người chúng ta được thông chia với Người trong công cuộc cứu chuộc thế giới. Đón nhận Đức Kitô là đón nhận sự thật. Sự thật là nền tảng của đạo đức, là nơi chỉ dẫn chúng ta trong cuộc sống. Sự thật làm cho con người được tự do. Đức Kitô mời gọi chúng ta làm chứng cho sự thật.
Đừng sợ, dù có phải chết cho sự thật như Thầy Chí Thánh của chúng ta, thì “chúng ta hãy xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới là tầm vóc mẫu mực cho con người và chúng ta phải biết rằng chính nơi Người chúng ta tìm được sức mạnh cần thiết để đương đầu với mọi thử thách. Tôi mong muốn loan báo với các bạn: Chúa Giêsu với tư cách là Đường là sự Thật và là sự Sống. Nơi Người tất cả chúng ta sẽ tìm thấy sự tự do trọn vẹn, thấy được ánh sáng để hiểu biết được thực tại từ trong sâu thẳm và biến đổi thực tại thế giới này bằng sức mạnh đổi mới của tình yêu.”
Ngay trong bài giảng khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô ngày Chúa nhật 22-10-1978, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới“Đừng sợ”:
“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.
“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).Thái độ “không sợ” được Đức Gioan Phaolô II nói đến vượt trên ý nghĩa thông thường là sự bất khuất, không nao núng trước bạo lực, bạo quyền. Không sợ là thái độ vượt thắng sự thủ thế, co về mình, không dám mở ra đón lấy sự cao cả, siêu việt, linh thánh của Tin Mừng Cứu độ và cũng không đủ nghị lực và sự kiên trì đưa Tin Mừng trở thành hiện thực nơi trần gian, xây dựng Nước Chúa ngay trong thực tại trần thế.
Hãy can đảm nhận lãnh sứ mệnh Thiên Chúa đã sai chúng ta trên trần gian, dầu khi chúng ta phải bắt bớ, tù đày hay bị giết chết, chúng ta cũng đừng sợ, vì họ chỉ giết chết được phần xác mà không làm gì được phần linh hồn. Vậy chúng ta phải sợ ai ? Phải sợ một mình Thiên Chúa, Đấng đã giết chúng ta lại có quyền ném chúng ta vào hỏa ngục. Đấng thấu suốt tâm can chúng ta sẽ thưởng phạt chúng ta theo việc chúng ta làm.