2024
ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA NHƯ THẾ NÀO ?
24.1Thánh Phanxicô đệ Salê, Gmtsht
2 Sm 7:4-17; Tv 89:4-5,27-28,29-30; Mc 4:1-20
ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA NHƯ THẾ NÀO ?
Thánh Phanxicô ra đời tại biệt thự Sales danh tiếng vùng Savoie nước Pháp ngày 21/8/1567. Thân phụ Ngài là ông Phanxicô Nouvelles, một lãnh chúa và thân mẫu ngài là bà Phanxicô Sion, miền Sales. Cả hai là những tín hữu khôn ngoan, nhân đức, hết lòng chăm sóc cho con và giáo dục chúng nên người. Nhờ được sống trong bầu khí đạo đức đày tình yêu thương như thế mà cậu Phanxicô sớm tỏ ra là một thiếu niên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành. Phanxicô còn được thấm nhuần tinh thần Tin Mừng ngay từ nhỏ nên đã sớm trở nên một đứa trẻ đạo đức, thánh thiện và bác ái.
Hơn mười tuổi, Phanxicô chịu phép Thêm sức, xưng tội lần đầu. Và vừa 14 tuổi được cha mẹ cho đi tu. Mấy năm sau ngài chịu phép cắt tóc.
Năm 1580 Phanxicô được gửi đến Paris theo học khóa tu từ và triết lý, dưới quyền giám hộ của linh mục thánh thiện Morac Deâge. Dù sống giữa đô thị lớn, ngập lụt những xa hoa trần tục, thầy Phanxicô không để mình xao xuyến, hay bị lôi cuốn. Chàng vẫn giữ tấm hồn trong sạch, trung thành với lý tưởng tận hiến. Đó là kết quả lòng tin tưởng thầm kín vào Chúa như lời ngài thường nói: “Thiên Chúa là Thầy dạy duy nhất của tôi về mọi khoa nên thánh. Và tôi hoàn toàn tín nhiệm vào Ngài”. Tại Paris ngài xin gia nhập Hiệp hội Thánh Mẫu sinh viên do các cha dòng Tên khởi xướng lập nên.
Qua sáu năm học tại Paris, Phanxicô trở về Savoie rồi sang Ý theo học tại trường Đại học Padoua. Tại đây ngài chuyên về luật khoa và thần học. Hai năm sau ngài nhận mũ tiến sĩ do Đức Giám mục thành Padoua trao tặng. Phanxicô từ giã kinh thành văn hóa, đi hành hương Rôma, Loretto, và về Savoie.
Với tấm bằng tiến sĩ Luật, Ngài Ngài nắm trong tay một tương lai sáng lạn, huy hoàng. Gia đình Ngài mong ước cho Ngài được nhận tước quận công miền Villaroget, giữ ghế luật sư tại Savoie, và sau cùng kết hôn với ái nữ của lãnh chúa trong vùng.
Thế nhưng họ đã thất vọng. Cha của Ngài đã phẫn nộ vô ích trước lòng cương quyết và từ tốn của thánh nhân. Dù cuộc đời Ngài có dễ dàng thăng quan, tiến chức, có chỗ vững chắc trong xã hội, nhưng thánh nhân quyết tâm từ bỏ tất cả, để đi theo Chúa Giêsu.
Thánh nhân được thụ phong linh mục năm 1595. Thánh nhân được Ðức Giám mục Granier tin tưởng, tín nhiệm đề cử làm nhà hộ giáo, giảng thuyết chính thức chống lại bè rối Calvin ở Challais. Với một tâm hồn lạc quan, vui tươi, tin tưởng và phó thác cho Chúa: “Chúa là nguồn vui của Con”, thánh Phanxicô đã đưa trở lại với Giáo Hội 72 ngàn người lạc giáo.
Và vào năm 1602 ngay sau khi Ðức Cha Granier từ trần Chúa yêu thương, cất nhắc Ngài, đặt Ngài làm giám mục thay thế Ðức Cha vừa qua đời. Thánh Phanxicô Salêsiô đã lập Dòng Chị Em Con Ðức Mẹ, sau này được đổi thành Dòng Thăm Viếng.
Ngài sống một đời sống hiền lành và khiêm nhường cố gắng làm việc cho tới phút cuối cùng. Ngài được Chúa gọi về trong một chuyến công tác tại Lyon. Hôm ấy nhằm ngày 27-12-1622. Theo lời ngài trối lại, người ta đưa xác ngài về dòng Thăm viếng tại Annecy. Đến ngày 19-4-1685, Đức Giáo Hoàng Alêxanđria VII phong người lên bậc hiển thánh, và tới năm 1877 dưới thời Đức Thánh Cha Piô IX, thánh Giám mục Phanxicô được tặng phong là một thánh tiến sĩ của Giáo Hội.
Khi nói đến những vấn đề trừu tượng khó hiểu như Nước trời chẳng hạn, Đức Giêsu hay dùng dụ ngôn để diễn tả những ý tưởng đó. Dụ ngôn người gieo giống trong đoạn Tin mừng này cho chúng ta thấy những thái độ và hiệu quả của việc đón nhận Lời Chúa khác nhau. Cũng vậy, Tin mừng được gieo vào lòng chúng ta, thế nhưng mảnh đất tâm hồn chúng ta thế nào ? Mảnh đất của chúng ta có điều kiện để hạt giống Tin mừng được sinh hoa kết quả; hay là mảnh đất khô cằn, chai cứng ?
Để dễ hiểu đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cần lưu ý: cách gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu khác với cách gieo giống của ta ngày hôm nay:
Vì còn lạc hậu nên đất chia ra làm nhiều mảnh vụn. Ranh giới giữa các mảnh ruộng thường dùng làm đường đi nên khi gieo có nhiều hạt vương trên bờ.
Vì vùng đất hoang khô cằn, nên mảnh ruộng có nhiều sỏi đá, và cây gai vì thế khi gieo có những hạt rơi trên sỏi đá và hạt chen vào bụi gai.
Ngoài ra, cũng có những vùng đất tốt được phân làm nhiều loại và năng suất của mỗi loại đất cũng khác nhau.Thực ra, các môn đệ cũng chưa hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn này, nên lúc còn một mình Chúa với các môn đệ, Ngài giải thích thêm cho các ông: người đi gieo là kẻ giảng lời Chúa. Hạt rơi bên đường chỉ người nghe rồi bị ma quỉ cướp mất. Hạt rơi trên sỏi đá chỉ kẻ nghe thì vui nhận, nhưng vì thiếu kiên nhẫn khi bị gian nan thử thách thì bỏ qua. Hạt rơi trong gai góc là hạng người nghe lời giảng thì vâng giữ, nhưng vì ham mê danh vọng của cải thế gian nên Lời Chúa cũng bị chết nghẹt. Hạt rơi trên đất tốt là những người nghe lời Chúa, suy niệm trong lòng rồi chịu khó đưa ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nên sinh bông trái là phần rỗi linh hồn.
Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai. Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thâm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
Tuy thế, lòng người dù có sỏi đá, vệ đường, bụi gai, nhưng vẫn có thể được cày xới chăm bón để biến đổi thành đất tốt. Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống không nằm yên thụ động mà còn có sức cải tạo được. Chẳng hạn các vị thánh như Phaolô, Augustinô, Phanxicô Xaviê đã được biến đổi thành “đất tốt” nhờ đã được đón nhận Lời Chúa gieo vào tâm hồn cách nhẫn nại và hào phóng. Thiên Chúa đang cần chúng ta có sự nhẫn nại và hào phóng đó để Nước trời được mùa gặt bội thu.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng: từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Đấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
2024
Trở lại
25.1Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại
2 Sm 7:18-19,24-29; Tv 132:1-2,3-5,11,12,13-14; Mc 4:21-25
Khi chọn ai, Chúa không theo những tiêu chuẩn thường tình của con người nhưng theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc…
Đọc lịch sử Giáo hội, tuy chúng ta thấy không có một vị thánh nào khả dĩ so sánh được với thánh Phaolô. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính Giáo hội, mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một điạ vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các Kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hàng ngày trong Thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích dẫn trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự.
Thế nhưng hầu như không bao giờ Ngài tỏ ra có vẻ hơn người. Nếu có nói, có khoe thì chỉ là nói và khoe những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không để nhờ đó mà thấy rõ hơn tình yêu thương của Chúa đã dành cho mình
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại. Bây giờ tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dạy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1Tm 2,7). Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người Kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mê-si-a bị xử tử như một tử tội.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisêu đạo đức, đã biến đổi ngài trở thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gl 1,11-16).
Lễ thánh Phao-lô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Ga-li-en, từ thế kỷ thứ 8
Trong sách Công vụ, chính Phaolô đã tự thuật về ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy bắt đầu từ một biến cố trên đường ông đi Đamát. Câu chuyện này được tường thuật tới 3 lần: 9,3-7; 22,3-16 và 26,13-15. Bài sách thánh chúng ta vừa nghe là đoạn tường thuật thứ hai.
Có một chi tiết nổi bật trong câu chuyện này. Đó là sự mù lòa và sự sáng mắt của Phaolô. Sự kiện này có thể phân ra thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn trước khi Phaolô gặp Chúa Giêsu: ông là một người nhiệt thành. Nhưng chính sự nhiệt thành ấy đã làm ông thành mù quáng khiến ông chống lại Giáo Hội của Ngài (cũng giống như những người biệt phái).
Giai đoạn 2: Sau khi ông gặp được Chúa Giêsu: hoạt động mù quáng chống phá Giáo Hội đã ngưng lại, nhưng ông vẫn còn mù (“Ánh sáng chói lòa kia làm cho tôi không trông thấy nữa”). Sự mù này một phần vì Phaolô chưa thích ứng nổi với ánh sáng quá rực rỡ của Chúa Giêsu, một phần vì ông chưa được chỉ dẫn về đường lối của Ngài
Giai đoạn 3: Khi gặp được Khanania, thì Phaolô được sáng mắt, vì đã được chỉ dẫn (“Thiên Chúa đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Ngài và được thấy Đấng Công Chính… Anh sẽ làm chứng nhân… về các điều anh đã thấy và đã nghe”).
Nói đến Phaolô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phaolô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phaolô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Kitô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Saolô. Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Saolô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các người Kitô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Saolô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.
Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Saolô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phaolô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Kitô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giêsu Kitô. Phaolô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Saolô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các dân ngoại.
Rõ ràng là ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Saolô bằng Tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Khanania, và Phaolô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Saolô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đamat, biến Saolô thành chứng nhân vĩ đại là Phaolô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Và từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
2024
Thứ Tư Tuần III – Mùa Thường Niên
Thứ Tư Tuần III – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 95,1.6
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !
Trước Thiên Nhan, đầy uy phong dũng mãnh,
trong thánh điện, toàn cảnh sắc huy hoàng.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin hướng dẫn chúng con biết hành động theo thánh ý Chúa, để nhờ kết hợp với con Một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, chúng con đem lại hoa quả dồi dào là việc lành phúc đức. Chúng con cầu xin..
Bài đọc
Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.
4 Đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Na-than rằng :
5 “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít : Đức Chúa phán thế này : Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ? 6 Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Ít-ra-en lên từ Ai-cập cho tới ngày hôm nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một cái lều và trong một nhà tạm. 7 Trong suốt thời gian rày đây mai đó với toàn thể con cái Ít-ra-en, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một trong các thủ lãnh Ít-ra-en mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta là Ít-ra-en : ‘Sao các ngươi không xây cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương ?’ 8 Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Đa-vít như sau : Đức Chúa các đạo binh phán thế này : Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 9 Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi ; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. 10 Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, 11 kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. 12 Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 13 Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. 14 Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. 15 Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. 16 Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời.”
17 Ông Na-than đã nói lại với vua Đa-vít, đúng y như tất cả những lời ấy và tất cả thị kiến ấy.
Đáp ca
Tv 88,4-5.27-28.29-30 (Đ. c.29a)
Đ.Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở.
4Xưa Chúa phán : “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,
đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta,5rằng : dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.”
Đ.Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở.
27Người sẽ thưa với Ta : “Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !”28Phần Ta, Ta sẽ đặt Người làm trưởng tử,
cao cả hơn vua chúa trần gian.
Đ.Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở.
29Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở
và thành tín giữ giao ước với Người.30Ta cho dòng dõi Người muôn năm tồn tại,
cho ngai vàng trường cửu tựa trời xanh.
Đ.Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở.
Tung hô Tin Mừng
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Hạt giống là lời Thiên Chúa,
người gieo giống là Đức Ki-tô.
Ai tuân giữ lời Người
sẽ muôn đời tồn tại.
Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 4,1-20
Người gieo giống đi ra gieo giống.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
1 Khi ấy, Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống ngồi trên thuyền đang đậu dưới biển, còn tất cả dân chúng thì ở trên bờ. 2 Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong lúc giảng dạy, Người nói với họ :
3 “Các người nghe đây ! Người gieo giống đi ra gieo giống. 4 Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5 Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất ; nó mọc ngay, vì đất không sâu ; 6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. 7 Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. 8 Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả : hạt được ba chục, hạt được sáu chục, hạt được một trăm.” 9 Rồi Người nói : “Ai có tai để nghe thì hãy nghe !”
10 Khi còn một mình Đức Giê-su, những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn. 11 Người nói với các ông : “Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em ; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, 12 để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ.”
13 Người còn nói với các ông : “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn ? 14 Người gieo giống đây là người gieo Lời. 15 Những kẻ ở bên vệ đường, nơi Lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xa-tan liền đến lấy đi Lời đã gieo nơi họ. 16 Còn những kẻ được gieo trên nơi sỏi đá là những kẻ khi nghe Lời thì liền vui vẻ đón nhận, 17 nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời ; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, họ vấp ngã ngay. 18 Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai : đó là những kẻ đã nghe Lời, 19 nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. 20 Còn có những người được gieo trên đất tốt : đó là những kẻ nghe Lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ được ba chục, kẻ được sáu chục, kẻ được một trăm.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận của lễ chúng con dâng, và lấy quyền năng Thánh Thần mà thánh hoá, để nhờ của lễ này, chúng con được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Người đã thực hiện một công trình kỳ diệu này/ là kêu gọi chúng con bỏ đàng tội lỗi, thoát ách sự chết, tới ánh vinh quang. Nhờ đó, giờ đây chúng con được gọi là giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để chúng con loan truyền khắp nơi quyền năng Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con từ chốn tối tăm tới nơi sáng láng diệu kỳ của Chúa.
Vì thế, cùng với Thiên thần và tổng lãnh Thiên Thần, các Bệ Thần và Quản Thần, cùng toàn thể đạo Binh Thiên Quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng.
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 33,6
Hãy đến gần Chúa, bạn sẽ được sáng soi
và không bao giờ phải bẽ mặt hổ ngươi.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã rộng ban cho chúng con Mình và Máu Thánh Ðức Kitô, con một Chúa là nguồn mạch sự sống dồi dào; xin cho chúng con được luôn luôn hoan hỷ vì ân huệ Chúa ban. Chúng con cầu xin…
2024
Ai là người thân cận của Chúa
23.1Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mùa Quanh Năm
2 Sm 6:12-15,17-19; Tv 24:7,8,9,10; Mc 3:31-35
Ai là người thân cận của Chúa
Tương quan thân thuộc dựa trên việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa làm nên Gia Đình mới mà Chúa Giêsu rao giảng, xây dựng và trao ban chính sự sống của mình để nuôi dưỡng và làm cho hoàn tất, được mở ra cho tất cả mọi người. Dấu chỉ cho việc mở rộng đến vô hạn là chữ “chị” được Chúa Giêsu thêm vào, khi nói về Gia Đình mới: “Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Trình thuật Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu một cách tế nhị và khéo léo đã tôn vinh Đức Maria Mẹ người. Vì hơn ai hết, Mẹ đã vâng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa: “Tôi đây là nữ tì của Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần truyền” (Lc 1, 38) Và qua tiếng xin vâng của Mẹ, chương trình cứu độ của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện qua việc nhập thể của Ngôi Hai con Chúa – Người là trưởng tử của một đàn em đông đúc; Người đã làm người cho chúng ta được nhờ Người được làm con Chúa. Vì vậy, Chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, làm người nhà của Chúa khi chúng ta thi hành ý muốn của Người.
Đức Giêsu đang giảng cho đám đông, thì có người chạy vào báo : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”. Chúng ta có thể hình dung ra đám đông đứng chung quanh Chúa Giêsu đông đến độ, Mẹ và anh em của Ngài không thể đến gần được. Như Tin Mừng kể lại, Ngài không tạm ngưng việc giảng dạy để ra gặp Mẹ và người thân; và Chúa Giêsu không chỉ không ra gặp, nhưng còn nói những lời như muốn từ chối mẹ và anh em của mình: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”
Qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người toàn thân theo ý Chúa, Mẹ đã hiểu rõ xứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi ý Chúa. Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở lên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được kết hợp với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, chị em ruột thịt.
Chúng ta hãy đi vào tâm hồn của Đức Maria: Mẹ muốn nói gì với Chúa Giêsu khi đến; và khi sau khi nghe lời của Ngài, Mẹ hiểu và cảm như thế nào? Chúng ta chỉ biết rằng, các Tin Mừng không còn nhắc đến Đức Maria nữa, cho đến khi Chúa Giêsu đi vào con đường Thập Giá (Ga 19, 25-27; và một cách gián tiếp trong Lc 23,27). Chắc chắn Mẹ đã ghi nhớ lời này của Chúa Giêsu, suy đi nghĩ lại trong lòng và đã hiểu, nên Mẹ đã đi theo Chúa Giêsu cách khiêm tốn như một người môn đệ trong tương quan mới và trong Gia Đình mới của Người, và cũng là Gia Đình mới của Mẹ nữa, vì Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu “cách duy nhất” đến độ, Mẹ cũng là Mẹ của mọi người môn đệ Chúa Giêsu, trong đó có chúng ta.
Chúa Giêsu không có từ chối Mẹ, ngược lại còn tôn vinh Mẹ, bởi vì trong gia đình mới mà Chúa Giêsu đang gầy dựng, Đức Maria có một vị trí duy nhất : Đức Maria vừa là mẹ sinh ra Chúa Giêsu, vừa là mẹ Chúa Giêsu, vì đã lắng nghe và sống Lời Chúa, không chỉ một lần nhưng suốt đời. Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu hai lần: ơn huệ này là duy nhất, chỉ một mình Mẹ có mà thôi, được làm Mẹ của Chúa Giêsu hai lần.
Người ta chỉ làm theo ý muốn của ai đó, khi người ta công nhận quyền của người ấy, khi người ta kính sợ, nể phục, tin tưởng vào người ấy, hoặc khi đó là người mà người ta yêu mến; nhưng cũng có khi người ta thực hiện ý muốn của người khác là do sợ hãi, bị lừa, bị ép… Cũng thế, sự vâng nghe, thi hành ý muốn của Thiên Chúa một cách hoàn toàn tự nguyện chỉ diễn ra khi người ta yêu mến, tin tưởng và tín thác vào Người.
Giáo xứ và nhất là cộng đoàn tu trì, hay rất cụ thể, tất cả chúng ta đang hiện diện nơi đây, chính là hình ảnh gia đình mới của Đức Giê-su : chúng ta không phải là ruột thịt, nhưng bởi việc lắng nghe và sống Lời Chúa, qua đó chúng ta đón nhận Ngôi-Lời vào trong cuộc đời của chúng ta (bởi vì Lời Chúa và Ngôi Vị của Chúa là một), như Đức Maria, chúng ta trở thành anh chị em của Chúa Giêsu, và như thế trở thành con của cùng một Mẹ, là Mẹ Maria. Sự qui tụ đang lớn dần ở trong Giáo Hội và nhất là trong mỗi xứ đạo hay trong Hội Dòng của chúng ta là một hình ảnh rất đẹp và cụ thể, nói lên gia đình mới của Đức Giê-su.
Vậy, nếu chúng ta xây dựng gia đình mới, xây dựng nhóm, cộng đoàn của chúng ta trên một điều gì khác với Lời Chúa, thì có thể nói, chúng ta đang xây nhà trên cát (Mt 7, 24-27).
Thánh ý Chúa được tỏ lộ trong mặc khải Kinh thánh, qua các giới răn của Người, cách đặc biệt giới răn yêu thương trong Tin mừng qua lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô; thánh ý Chúa còn được tỏ lộ qua tiếng nói của lương tâm nhắc nhở làm lành lánh dữ; qua những giáo huấn của Hội Thánh; qua những biến cố cuộc đời. Người Ki-tô hữu yêu mến và sống niềm tin vào Thiên Chúa sẽ giữ đạo, giữ luật Chúa một cách hết sức nhẹ nhàng tự nhiên như một người con hiếu thảo thực hành ý muốn của Cha mình trong ý hướng muốn làm đẹp lòng Cha vì tin tưởng, biết Cha luôn muốn điều tốt lành cho mình, như Đức Giêsu Kitô: “Lương thực ta dùng là thi hành ý muốn của Cha ta.” (x. Ga 4, 34) Vì vậy mà Ngài là “Con rất yêu dấu của Cha, đẹp lòng Cha mọi đàng” (x. Mt 3,17; Mc 1, 11). Nếu không yêu mến và tin kính Chúa, Người Ki-tô hữu sẽ dễ dàng rơi vào tình tràng giữ đạo hình thức, nệ luật, né luật hoặc giữ luật vì sợ hãi (sợ tội, sợ Chúa phạt, sợ dư luận cộng đồng…)
Thiên Chúa là cha yêu thương, Người đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh của Người để chúng ta được hiệp thông trong sự sống tình yêu của Người hầu được hạnh phúc. Khi sống yêu thương là chúng ta thi hành ý muốn của Thiên Chúa; khi chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi thử thách và hy sinh để xây dựng và làm cho cuộc sống tốt đẹp là chúng ta đang làm theo thánh ý của Người.
Ai không muốn làm người nhà của Thiên Chúa; Ai lại không muốn làm người thân thuộc của Người. Chúng ta phải biết sống tâm tình cảm tạ, tri ân và mau mắn làm theo ý Chúa để đáp trả hồng ân lớn lao Chúa ban tặng cho chúng ta và mời gọi chúng ta lãnh nhận là được làm con Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp nước trời Chúa dành cho những ai thực hiện ý muốn của Người. Đồng thời mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm và bổn phận giúp cho tha nhân cũng được trở nên người nhà của Thiên Chúa qua việc nhận biết và thi hành thánh ý của Người.
Nghe và sống Lời Chúa không chỉ là điều kiện, nhưng còn có nguồn sự sống làm cho chúng ta tái sinh, bởi vì Lời Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, vẫn đang tạo dựng chúng ta và sẽ tái tạo dựng chúng ta để chúng ta trở thành tạo vật mới trong Gia Đình mới của Thiên Chúa.
Lời Chúa, Mình và Máu của Chúa, những ơn huệ và nhất là ơn tha thứ của Chúa, tái sinh chúng ta, tái tạo con tim chúng ta và làm cho chúng ta trở thành con người mới trong Gia Đình mới của Chúa. Những ơn huệ này Chúa vẫn ban cho chúng ta cách quảng đại nơi Thánh Lễ, để tái sinh chúng ta mỗi ngày cho Chúa và cho những người thân yêu của Chúa, trong đó Đức Maria, Mẹ của chúng ta.