2024
HÃY LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG
1.2 Thứ Năm trong tuần thứ Tư Mùa Quanh Năm
1 V 2:1-4,10-12; 1 Sb 29:10,11,11-12,12; Mc 6:7-13
HÃY LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Tin Mừng hôm nay chúng ta được nghe câu chuyện Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cùng tìm hiểu kinh nghiệm truyền giáo của Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu không sai các tông đồ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Bởi vì Người biết khả năng con người yếu kém, vì thế cần phải có tập thể nâng đỡ thì mới hoàn thành sứ vụ. Bên cạnh đó, kinh nghiệm cho thấy lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục người khác, mà cần phải có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể thì lời chứng đó mới thực sự đáng tin.
Tiếp theo, Chúa Giêsu sai các tông đồ đi loan báo Tin Mừng với một sứ vụ cụ thể. Ngài trao cho các tông đồ quyền giảng dạy Lời Chúa, quyền đặt tay chữa lành bệnh nhân, quyền trừ quỷ. Những hoạt động này là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ cứu độ của chính Chúa Giêsu.
Cuối cùng, khi lên đường truyền giáo, Chúa Giêsu dạy các tông đồ không được mang gì khi đi đường, cụ thể là: không mang lương thực, không bao bị, không tiền bạc, không mặc hai áo, ngoại trừ cây gậy để đi đường. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng thanh thoát thì càng dễ dàng thi hành sứ vụ và càng được tự do hơn. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng sự nhẹ nhàng thanh thoát này thật sự là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận đủ mọi bất trắc có thể xảy ra dọc đường, vì thế họ phải luôn đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu gọi nhóm Mười hai lại. Điều này diễn tả, Các Tông tồ trước khi được sai đi, phải ở với Chúa, chia sẻ nếp sống của Người, chia sẻ những thao thức cứu thế của Người, và nhất là để Người dạy dỗ, huấn luyện.
Nhóm Mười hai không gồm những người tài ba xuất chúng, hay những người có quyền cao chức trọng trong xã hội. Các ông thuộc lớp bình dân. Điều này khích lệ chúng ta, những Kitô hữu cũng được gọi làm tông đồ cho Chúa trong cánh đồng Hội Thánh ở trần gian.
Qua việc Chúa Giêsu gọi và sai mười hai Tông đồ đi truyền giáo, chúng ta nhận ra sự chia sẻ trách vụ cứu thế của Chúa Giêsu cho Các Tông tồ. Vậy người tông đồ cần cảm nghiệm vinh dự của mình được tham dự vào sứ vụ cứu thế của Chúa, và cũng được thi hành quyền của Chúa qua việc cử hành các bí tích, xức dầu thánh hay trừ quỷ… Muốn được vậy, người tông đồ trước khi đi thi hành sứ vụ, Hội Thánh vẫn có thói quen tách riêng ra để có thời gian và không gian ở với Chúa trong bầu khí tĩnh tâm, cầu nguyện và học tập.
Nội dung việc rao giảng và công việc của người tông đồ là giống công việc của Gioan Tẩy Giả: rao giảng về sự sám hối; nhưng Gioan chỉ tuyên bố là Nước Trời gần đến; còn Các Tông tồ phải thể hiện nước ấy cho người ta trông thấy qua cuộc sống và việc làm, trừ quỷ, chữa lành mọi thứ bệnh tật.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang kêu gọi và sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người chúng ta khi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta đều được kêu gọi và được sai đi loan báo Tin Mừng: có người bằng lời nói, thế nhưng tất cả đều bằng việc làm, nghĩa là bằng đời sống gương mẫu tốt lành của mình.
Quả thật, việc loan báo Tin Mừng bằng đời sống gương mẫu tốt lành tự nó có năng lực thuyết phục người ta chấp nhận chân lý mà không cần lời nói. Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”, nghĩa là lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng đời sống gương mẫu sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Phương ngôn Ả Rập có câu: “Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, thì anh hãy làm cái đèn trong nhà anh”. Quả thật, đa số chúng ta ở đây không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ truyền giáo như những nhà truyền giáo nổi tiếng trên thế giới, thế nhưng chúng ta đều có thể làm tông đồ truyền giáo bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Các con là đèn cháy sáng, sự sáng của các con phải chiếu tỏa trước người ta, để người ta thấy công việc của các con mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta làm tông đồ truyền giáo bằng gương sáng qua ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ tốt lành của mình v.v… Chắc chắn rằng đời sống gương mẫu tốt lành của chúng ta sẽ có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Người đi theo Chúa phải là người luôn luôn xây dựng và cổ võ sự hiệp nhất, sống tình huynh đệ và yêu thương, trở nên chứng nhân cho Lời Chúa bằng hành động.
2024
THÀNH KIẾN
Thứ tư tuần IV thường niên
2 Sm 24, 2. 9-17 Mc 6,1-6
THÀNH KIẾN
Cha ông ta vẫn thường nói “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nói cho vừa lòng nhau không phải để lấy lòng nhau hay lừa dối lòng mình. Nhưng là lựa lời để nói đừng làm tổn thương nhau. Nói để xây dựng con người. Nói để giúp họ thăng tiến. Đừng dùng lời nói để kết án hay hạ bệ anh em. Một lời nói có thể thay đổi cả đời người. Hãy trao tặng cho anh em những lời nói thật chân tình và đầy ắp yêu thương. Lời nói không mất tiền mua, không phải để chúng ta phung phí bừa bãi, nhưng biết quý trọng từng lời. Lời nói thể hiện nét đẹp văn hóa nơi con người. Hãy biết chắt lọc ngôn ngữ. Hãy làm cho lời nói của ta có giá trị bằng cách, biết dùng lời cho vừa lòng nhau.
Sau khi đi rao giảng Tin Mừng một thời gian ngắn, hôm nay Chúa Giê-su trở về Na-gia-rét quê hương của Người. Người vào giảng dạy trong hội đường. Ai nấy đều cảm phục vì bao phép lạ Người làm, vì giáo lý của Người rất cao siêu và giảng dạy rất khôn ngoan. Nhưng vì họ cứ nghĩ Người là một anh thợ mộc tầm thường trong làng, mà không nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nên không chịu tin Lời Người. Họ có thành kiến lớn lao đối với Người. Thế nên Người không làm phép lạ nào để cứu giúp họ, mà chỉ chữa vài người bệnh, vì Người không muốn tỏ quyền năng của Người cho những kẻ đóng kín tâm hồn.
Đức Giê-su trở về quê nhà, Người giảng dạy trong hội đường, mọi người đều sửng sốt về giáo lý của Người, nhưng sau cùng, họ lại vấp phạm vì Người. Theo lẽ thường, khi ngạc nhiên sửng sốt về những lời rao giảng và sự khôn ngoan của Đức Giê-su, họ sẽ tin tưởng và yêu mến Người hơn chứ! Nhưng đây dân thành Na-da-rét lại nghi ngờ, đố kỵ, cứng lòng và vấp phạm vì Đức Giê-su. Điều gì đã xảy ra vậy?
Đã có những mâu thuẫn nội tại trong tâm trí họ. Họ đã bị các ký ức và nhận thức về Đức Giê-su trong quá khứ điều khiển cảm xúc và nhận thức của họ về Đức Giê-su trong hiện tại. Tâm trí của họ quá ồn ào! Cho nên, họ không thể tin được, một “bác thợ mộc con bà Ma-ri-a”, lại có sự khôn ngoan như vậy! Họ đã vấp phạm vì chính những kinh nghiệm về Đức Giê-su trong quá khứ của họ. Họ đã vấp phạm vì không chịu thay đổi lối suy nghĩ của mình, không chịu loại trừ những định kiến trong quá khứ. Họ đã vấp phạm vì không thực sự lắng nghe.
Dân làng Na-gia-rét không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là Vị Cứu Tinh, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giê-su. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân làng Na-gia-rét, Chúa Giê-su chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay: ”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Na-gia-rét không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu Thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu Thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu Thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
Với mỗi người chúng ta hôm nay cũng thế! Nếu chúng ta không biết bỏ đi những định kiến, không biết thay đổi cách suy nghĩ, không biết trống rỗng chính mình, để có thể thực sự lắng nghe, chúng ta cũng sẽ vấp phạm vì Lời Chúa và ngăn cản những điều kỳ diệu Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta trong đời sống hằng ngày. Nếu không biết trống rỗng chính mình để lắng nghe và thấu hiểu, chúng ta sẽ trở nên cớ vấp phạm và ngăn cản sự hiệp thông với Chúa và với nhau.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế: một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ. Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường, không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét. Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa? Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống. Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
Thành kiến là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con người. Chính tật xấu này làm cho khả năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị giới hạn lại. Các Kitô hữu cần học lấy bài học của thánh Phaolô: “vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,6). Đấy là khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó xuất hiện, và sẵn sàng nêu lên.
2024
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA VÀ NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA
27.1Thứ Bảy
Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Quanh Năm
2 Sm 12:1-7,10-17; Tv 51:12-13,14-15,16-17; Mc 4:35-41
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA VÀ NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA
Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa… Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người trỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao ?” Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người ?
Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai ?” Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài ‘vắng mặt’ rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập”
Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng: trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn,” nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức, để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xảy ra.
Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm ? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tàu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta.
Lúc đó, những cô đơn như bị xoá nhoà, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Các môn đệ Chúa Giêsu đa số là những người sống nghề chài lưới, quanh năm lênh đênh trên biển cả, nhưng không phải vì thế mà họ không sợ sóng gió vì họ ý thức được chuyện: “Sinh nghề tử nghiệp”. Hơn thế nữa, con thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ trong đoạn Tin Mừng hôm nay còn gặp trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước khiến các môn đệ hoang mang như “chết đến nơi rồi”. Giữa lúc đó, Chúa Giêsu thì đang ở đằng lái, tựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Điều này khiến các môn đệ phải đánh thức Chúa với một giọng điệu có vẻ trách móc: “Chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức tin của các môn đệ quả còn non yếu, nên gặp chút trắc trở là quên mất người mà các ông bước theo là ai. Chúa Giêsu đã thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển lặng đi để giúp củng cố đức tin trong các môn đệ Người.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều lần phải đối diện với sóng gió trắc trở cuộc đời, và nhiều khi mình quên mất quyền năng của Chúa, quên rằng Chúa vẫn đang bên cạnh mình, quên rằng Chúa đang ở đằng lái. Chính Chúa mới là Đấng hướng dẫn con thuyền đời chúng ta về nẻo bình an khi chúng ta biết đặt tin tưởng nơi Người.
Thiên Chúa không chờ chúng ta có đủ lòng tin mới ra tay cứu giúp. Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm hướng về Ngài và xin Ngài trợ giúp. Chút thiện chí và khiêm tốn cầu xin cũng đủ để Thiên Chúa thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy kiểm điểm xem mình có thái độ nào, đã phản ứng ra sao trước những trận bão thử thách của cuộc đời? Chúng ta có khiêm tốn đến với Chúa hay là than trách hoặc từ bỏ đức tin?
2024
ĐÁP LẠI LỜI MỜI
26.1Thứ Sáu
Thánh Timôthêô và Titô, Gm
2 Sm 11:1-4,5-10,13-17; Tv 51:3-4,5-6,6-7,10-11; Mc 4:26-34
ĐÁP LẠI LỜI MỜI
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài.
Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: “Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô”.
Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng.
Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.
Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.