2021
Chọn lựa
28 19 Đ Thứ Hai Tuần XIII Thường Niên.
Thánh I-rê-nê, Giám mục, Tử đạo, lễ nhớ.
St 18,16-33; Mt 8,18-22.
(Đ) Chiều: Lễ Vọng THÁNH PHÊ-RÔ VÀ THÁNH PHAO-LÔ, TÔNG ĐỒ, lễ trọng.
Ban chiều, không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
Cv 3,1-10; Gl 1,11-20; Ga 21,15-19.
CHỌN LỰA
28/06 – Thứ Tư tuần 12 thường niên – Thánh Irênê, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
“Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng”.
* Chào đời khoảng năm 130, lớn lên học ở Miếc-na, Irênê trở thành môn đệ của thánh Pô-ly-cáp, giám mục thành này. Năm 177, người chịu chức linh mục tại Ly-ông (Pháp). Sau đó một thời gian ngắn, người làm giám mục giáo phận này. Trong nhiệm vụ mục tử, người lo loan báo Tin Mừng cho các dân xứ Gô-lơ, nhưng người cũng lo bảo vệ đức tin tinh tuyền, chống lại những sai lầm của phái ngộ đạo. Các tác phẩm của người cho ta có được cái nhìn sâu sắc về kế hoạch của Thiên Chúa, về ơn gọi của con người và mầu nhiệm Hội Thánh. Người lãnh nhận triều thiên tử đạo khoảng năm 200.
Tin Mừng hôm nay nằm trong phần III của Tin Mừng Matthêu với chủ đề ; Rao giảng Nước Trời. Phần này gồm những lời trình thuật về các hoạt động của Chúa Giêsu khi Ngài loan báo Tin Mừng. Ngài đã dùng chính quyền năng và tình thương của Ngài mà làm chứng rằng: Nước Trời đã đến và đang hiện diện giữa trần thế này.
Với một loạt hành vi chữa lành bệnh tật, Mt 8. 18-22 nẵm giữa chương như một lời nhắc nhở các môn đệ trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng là : Người môn đệ phải bỏ mọi sự.
“Thấy xung quanh có đám đông, Chúa Giêsu ra lệnh sang bớ bên kia” (c. 18). Vì sao đang khi mọi người kéo đến, Chúa Giêsu lại ra lệnh “ Rút quân?”Theo thói đời, một người trổ tài đánh giá là thành công vì do càng ngày càng có nhiều người đến tham dự. Có thể là do tính hiếu kỳ mà đám đông tụ tập, nhưng sau đó người ta sẽ tin theo? Chúa Giêsu như đoán trước hậu quả của việc “tôn vinh” của người đời, Ngài đã ra lệnh các môn đệ sang bờ bên kia “ sang bờ bên kia” nghĩa là rút mình ra khỏi những vinh hoa phú quí, những lời ca ngợi tán dương với ảo tưởng “ ta làm được”, mà hãy nhận ra mình chỉ là sứ giả là dụng cụ loan báo Nước Thiên Chúa mà thôi.
Câu 19-20 miêu tả một ơn gọi, nói đúng hơn một việc tự nguyện làm tông đồ, sứ giả cho Tin Mừng không biết được lý do nào thúc đẩy mà ông kinh sư này lại tuyên bố một câu “ chắc nịch” ; “ Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Lần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu không trả lời theo kiểu Ngài đã trả lời cho anh em nhà Giêbêđê khi các ông đòi quyền lợi “ ngồi bên hữu, bên tả” trong vinh quang “ Các ngươi có uống nổi chén Ta sắp uống…” ( Mt 20,22). Nhưng Ngài trả lời rằng loài vật còn có một nơi nương náu, một cõi đi về như : hang , tổ…còn Con Người không có chỗ tựa đầu. Phải, Ngài đã xuống trần sinh trong chuồng bò Belem nghèo hèn :
Khi Mẹ đặt nằm xuống nắm rơm
Máng cỏ làm nôi cũng chẳng buồn….
( Thánh thi Mùa Giáng Sinh)
Ngài chấp nhận thân phận của một người nghèo nhất trong thế giới này. Trong câu 20, Chúa Giêsu muốn nói: người môn đệ cần thoát ly mọi vấn vương của thế tục : vinh quang, danh dự, thành công… Ngay cả nơi chốn để cư ngụ cũng không đòi hỏi, không màng tới.
Từ câu 21-22, Chúa Giêsu lại vạch ra một cách từ bỏ cao hơn, có lẽ theo quan niệm Đông phương, chúng ta thường chú trọng và đề cao sự thiêng liêng cao quý của gia đình, đề cao tính hiếu thảo của người con đối với cha mẹ. Người ta thường nói: Nghĩa tử là nghĩa tận. Chôn cất cha mẹ khi các Ngài qua đời là báo hiếu. Nhưng Chúa Giêsu lại bảo : “Hãy theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”. Lời dạy của Chúa Giêsu như “ tiếng xét đánh ngang tai” đối với những ai có lòng hiếu thảo. Xem như Ngài đang đi ngược lại truyền thống cha ông, làm đảo lộn luân lý xã hội. Nhưng thực ra, Ngài muốn đặt lại bậc thang giá trị: Thiên Chúa trên hết và nhấn mạnh tính khẩn cấp của việc loan báo Tin Mừng: không thể chậm trễ, không thể trì hoãn kéo dài.
Với trang Tin Mừng này, nhiều người trong chúng ta cho rằng: đó là lời Chúa Giêsu răn dạy các Đức Giám Mục, linh mục hay ít ra là dành cho những người tu trì, bậc sống thánh hiến, vì họ là những người đi rao giảng Tin Mừng.
Thật ra, Tin Mừng này dành cho mỗi người chúng ta, những người Kitô hữu, những người thuộc về Đức Kitô và trở thành môn đệ của Ngài qua việc lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Là những môn đệ của Chúa chúng ta cần siêu thoát với của cải chóng qua này. Dám nói “ không” với những lợi lộc trần gian, trước mãnh lực của đồng tiền cám dỗ mà lỗi đức bác ái. Dám nói “ không” khi sống theo lương tâm nơi công sở, trường học, chợ búa. Dám chọn Chúa trên hết nếu có bị áp lực của gia đình mà làm những việc trái với lương tâm người công giáo.
Chúa Giêsu cho chúng ta biết, để trở thành môn đệ của Người, cần phải có hai điều kiện căn bản sau đây:
Trước tiên là chấp nhận đời sống nghèo, không bị ràng buộc vào những giá trị thuộc về trần gian. Kế đến là ưu tiên chọn Chúa và sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Trường hợp, một khi rơi vào tình thế phải chọn lựa giữa đạo làm người và đạo làm con Chúa; nhất là giữa việc của Chúa và việc của con người; giữa ý Chúa và ý con người, thì chúng ta phải ưu tiên chọn lựa là chính Chúa. Việc loan báo Tin Mừng là đem niềm vui Tin Mừng cứu độ đến cho con người, nên là việc cấp bách và ưu tiên hàng đầu.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết chọn lựa và ưu tiên đặt Chúa làm trọng tâm trong cuộc đời mình, để chúng ta gắn kết đời mình cho những giá trị của Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta mới có thể can đảm và trung tín sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu.
2021
TIN VÀO CHÚA
26 17 X Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Thánh Đa-minh Minh (Dominicus Henarés), Giám mục (U1838); và Thánh Phan-xi-cô Đỗ Văn Chiểu, Thầy giảng (U1838), Tử đạo.
St 18,1-15; Mt 8,5-17.
TIN VÀO CHÚA
Cuộc đời Chúa Giêsu là biểu tượng của tình yêu và lòng thương xót, từ hành động đến lời nói, đều thể hiện lòng thương yêu, xót thương thế giới nhân loại tội lỗi.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ mình trở nên con người hèn mọn để gánh lấy những đớn đau, khổ cực của họ. Người không chỉ chữa lành cho những người như người đầy tớ của viên đại đội trưởng người La Mã, bà mẹ vợ ông Phêrô hay tất cả người người bị quỷ ám, bệnh tật được mang đến mà hơn thế nữa, Người đã chịu chết một cách tủi nhục trên thập tự giá để gánh lấy mọi tội lỗi, đau thương của nhân loại. Con người thật sự không thể tưởng tượng được Đấng Chí Thánh lại làm thế vì họ, nhưng Người đã làm như thế.
Chúa Giêsu mới chữa cho một người phong bằng một tiếp xúc gần, nay Ngài lại chữa lành cho một người bị đau liệt ở xa. Người được khỏi chính là đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng. Con người sống gắn bó với nhau bằng những mối dây. Viên đại đội trưởng là chủ, nhưng ông cảm được nỗi đau của anh đầy tớ: “Đầy tớ của tôi bị liệt nằm ở nhà, đau đớn kinh khủng” (c. 6). Người đầy tớ được khỏi là nhờ tình thương của chủ đối với anh, chính ông đã đi gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho anh đầy tớ (c. 5). Và chính lòng tin của ông đối với Đức Giêsu đã khiến anh được khỏi (c. 10).
Những điều tốt lành của Thiên Chúa vẫn đến với ta qua người khác. Khi Chúa Giêsu nghe lời kêu xin, thì Ngài sẵn sàng lên đường ngay (c. 7), dù biết rằng nhà của viên đại đội trưởng là nhà dân ngoại, bị coi là ô uế. Có thể vì sợ Ngài bị ô uế mà ông ta đã can ngăn bằng câu nói nổi tiếng: “Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời, đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh” (c. 8). Ông ý thức về sự bất xứng của mình, của căn nhà mình ở. Và ông xác tín vào sức mạnh của việc “Ngài chỉ nói một lời.” Viên đại đội trưởng nhận mình là người có quyền. Uy quyền của ông nằm trong lời ông ra lệnh cho cấp dưới (c. 9). Ông tin lời của Chúa Giêsu cũng có uy quyền như vậy.
Chỉ một lời ra lệnh của Ngài cũng đủ đẩy lui bệnh tật và thần dữ. Đức Giêsu ngây ngất trước lòng tin của viên sĩ quan dân ngoại, một lòng tin vừa mạnh mẽ, vừa khiêm tốn. Một lòng tin như thế, Ngài chưa từng gặp nơi dân Ítraen (c. 10). Chúa Giêsu nghĩ đến ngày cánh chung, quanh bàn tiệc Nước Trời, có bao người đến từ muôn phương, những kẻ không phải là người Do thái. Họ làm nên một cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài. Họ vui sướng được ngồi bên các tổ phụ và những người Ítraen chân chính.
Chúa Giêsu cho thấy dòng lịch sử đang đi vào ngã rẽ quan trọng. Ơn cứu độ phổ quát do Ngài đem lại được mở ra cho mọi người. Chỉ ai cố tình chối từ Tin Mừng Nước Trời mới bị loại (c. 12). Chúa Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời bằng lời. Ngài còn chứng minh Nước Trời đã đến bằng bao việc tốt lành, kỳ diệu. Lời Ngài giảng cũng là lời chữa cho người phong, cho tên đầy tớ. “Ngài nói một lời là trừ được các thần dữ” (c. 16). Lời uy quyền khi giảng cũng là lời uy quyền khi chữa bệnh. Nhưng Chúa Giêsu cũng đụng chạm đến nỗi đau của con người. Ngài đụng đến người phong, và đụng đến bàn tay mẹ vợ ông Phêrô (c. 15).
Hôm nay ta có cơ hội để chúng ta nhìn lại đức tin của mình trong đời sống hằng ngày. Đôi khi chúng ta tự hào về đức tin của mình, của cộng đoàn, bằng những cuộc lễ rước long trọng, sôi động và đông đảo, và tốn kém. Thế nhưng chúng ta lại không thương xót anh em bị bỏ rơi bệnh tật, không dấn thân phục vụ công tác tông đồ, và không quảng đại với những người đang đói kém. Vì thế trong năm thánh Đức Tin này, người kitô hữu hãy chứng thực mình có đức tin tốt qua chính cái tâm tôt của mình trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã thể hiện rõ nét đời sống yêu thương, sự thương cảm nỗi đau khổ, vất vả của con người trước bệnh hoạn, tật nguyền. Chúa thông cảm với viên đại đội trưởng và ông Phêrô với nỗi khổ, về bệnh tật của người thân. Chính niềm tin của họ đã được Chúa chập nhận, và cứu chữa cho người thân của họ được khỏi bệnh.
Thế giới ngày nay vẫn còn nhiều người gặp phải đau khổ, bất hạnh, gian truân, sóng gió về cuộc sống. Người ta cảm thấy mình bất lực, yếu đuối, muốn buông xuôi trước lối sống đầy bon chen, cạm bẫy, tham lam của người đời, khi chỉ biết đề cao cái tôi cá nhân, thờ ơ, lãnh đạm, chểnh mảng lòng yêu thương, thương xót dành cho nhau. người ta tìm mọi cách lừa dối người khác, để thu vén, trục lợi riêng, hạ bệ uy tín, nhân phẩm của nhau chỉ vì cái lợi trước mắt dành cho mình. Đó là những thứ bệnh làm dơ bẩn tâm hồn cần được chữa lành.
Vì thế, Chúa muốn mỗi người thể hiện niềm tin, với tâm hồn khiêm nhường, tin tưởng, phó thác cuộc đời mình vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài sẽ giúp chúng ta thoát khỏi bệnh tật của đời sống ích kỷ, thiếu lòng bác ái, bao dung, quảng đại với anh em. Từ đó, chúng ta sẽ được lành sạch với tâm hồn đạo đức, thánh thiện, biết hy sinh, chia sẻ lòng thương xót, tình thương của mình dành cho tha nhân qua những anh chị em đang nghèo khồ, bất hạnh, đói khát về tình thương trong xứ đạo và xã hội với một tình yêu vô vị lợi như Chúa đã yêu thương mỗi người.
2021
Chữa người phong cùi
25 16 X Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên.
St 17,1.9-10.15-22; Mt 8,1-4.
Chữa người phong cùi
Bệnh phong là một những thứ bệnh khủng khiếp nhất mà loài người chúng ta mắc phải: da thịt người mắc bệnh lở loét; khi bị nặng, vết thương sẽ lõm vào da thịt; tình trạng mất cảm giác sẽ xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể; sau đó các bắp thịt tiêu đi; nếu ở giai đoạn bị nặng, các ngón tay và ngón chân sẽ rụng dần.
Chúng ta hãy cảm thông và cầu nguyện cho những người bệnh phong, và nếu có thể, chúng ta hãy giúp đỡ san sẻ. Bởi vì chính chúng ta là những người được nâng đỡ trước tiên, khi chúng ta nghĩ tới những người cùng khổ. Thật vậy, khi liên đối với người cùng khổ, chúng ta sẽ tương đối hóa những nỗi khổ của chúng ta, chúng ta thấy nhẹ nhàng hơn, chúng ta có thể ra khỏi mình để hướng về những người bất hạnh hơn; và năng động này sẽ làm cho chúng ta tự do hơn, thanh thoát hơn, bình an hơn.
Chúng ta vừa nói đến sự đau đớn tột cùng trong thân xác ; nhưng người bệnh phong còn chịu một sự đau khổ còn lớn hơn nữa là bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường, khỏi nhà của mình, khỏi những người thân yêu, và có khi còn bị bỏ rơi luôn, không được ai nhìn nhận nữa, như Lề Luật trong sách Lê-vi truyền lệnh: “Người mắc bệnh phong phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13, 46). Như thế, người bị bệnh vừa đau khổ trong thân xác và vừa đau khổ về tinh thần, vì thiếu tình thương và sự liên đới.
Với bài tường thuật Chúa Giêsu chữa người phong hủi. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Anh ta gán cho ý muốn của Chúa Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Chúa Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Chúa Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật may mắn vì đã gặp được Đấng đang tìm anh để chạnh lòng thương anh. Thật vậy, khi gặp người phong cùi này, Chúa Giêsu đã không tránh xa, mà ngược lại, Ngài đã đến gần và chạm vào anh để anh được sạch. Không những thế, Ngài còn phục hồi nhân phẩm cho anh khi truyền cho anh đi báo với Tư Tế để được hòa nhập với cộng đồng. Xem thấy Chúa làm, chúng ta cũng được mời gọi noi gương bắt chước Chúa Giêsu hãy ra tay đón nhận và cứu giúp những ai đang lầm than khốn khổ.
Theo đó, tình thương của chúng ta không chỉ là một chút rung động trong tâm hồn nhưng phải được cụ thể hóa nơi chính đôi tay của mình. Muốn được như vậy, chúng ta hãy xin với Chúa cho đôi chân biết đi tới, đôi tay biết vươn xa, và nhất là trái tim biết rộng mở, để đón nhận những anh chị em đau khổ, bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác, hầu xoa dịu những đau khổ mà anh chị em chúng ta đang phải gánh chịu. Chỉ có thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Thầy Giêsu.
Ta thấy Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người.
Sứ điệp ấy của Chúa Giêsu, trải qua các thế hệ, đã có biết bao nhiêu người chuyển đạt và thực thi cho những người phong cùi trên khắp thế giới. Những bàn tay săn sóc, những lời nói an ủi, và nhất là sự hiện diện chia sẻ bên cạnh các người phong cùi. Tất cả những cử chỉ ấy là để khẳng định với những người phong cùi rằng Thiên Chúa yêu thương họ.
Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được rằng những đau đớn thân xác không xâu xé và đè bẹp con người cho bằng nỗi cô đơn và bị bỏ rơi. Bệnh phong cùi là tột điểm của nỗi cô đơn mà con người có thể rơi vào. Tựu trung, cô đơn cũng đồng nghĩa với vắng bóng tình yêu.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta ngừng đặt câu hỏi: tại sao lại bệnh tật, tại sao lại đủ mọi khổ đau, phải chăng là hình phạt? Bởi vì, càng đặt câu hỏi, chúng ta sẽ càng bị dồn vào ngõ bí và tự làm khổ mình. Nhưng, Lời Chúa mời gọi chúng ta thả mình vào tình thương và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô. Thật vậy, Ngài chạnh lòng thương người bệnh phong và chữa anh lành bệnh, một cách vô điều kiện; anh chỉ cần bày tỏ lòng ước ao thôi: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Phép lạ chữa bệnh này mang lại cho chúng ta niềm hi vọng thật bao la cho loài người và từng người tật nguyền chúng ta. Thật vậy, trước khi nói lời chữa lành: “tôi muốn, anh hãy được sạch”, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào anh. Thế mà, đụng vào người cùi, theo luật là bị ô uế cả trong thân xác lẫn tâm hồn.
Và đó chính là cách Chúa Giêsu chạnh lòng thương và chữa lành chúng ta. Đó là bày tỏ sự cảm thông và tình thương của Thiên Chúa đối với loài người đau khổ của chúng ta, với nỗi đau khổ của mỗi người chúng ta, nhưng không phải bằng cách lấy đi đau khổ, nhưng là mang vào mình đau khổ của con người (x. Mt 8, 7 và Rm 8, 3 ; 2Cr 5, 21 ; Gl 3, 12).
Trước khi đáp lời loài người đau khổ, Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, nhận lấy đau khổ của con người làm của mình. Mầu nhiệm Nhập Thể là như thế, Con Thiên Chúa mang lấy thân phận con người, một thân phận ở mức độ thấp nhất, cùng khổ nhất, cùng tận nhất về mọi phương diện.
Mỗi người trong chúng ta có thể không bị phong cùi thể xác, nhưng rất có thể chúng ta đang bị phong cùi trong tâm hồn, chúng ta hãy noi gương người phong cùi, mạnh dạn đến với Chúa, hãy mở rộng tâm hồn cho Đấng đầy yêu thương đụng chạm tới mình, để Ngài chữa lành tâm hồn phong hủi của chúng ta với đầy những thói hư tật xấu, những tội lỗi, những khô khan nguội lạnh, những thờ ơ với Chúa và vô cảm với anh chị em.
2021
VỊ NGÔN SỨ VĨ ĐẠI NHƯNG KHIÊM NHƯỜNG
24 15 Tr Thứ Năm Tuần XII Thường Niên.
SINH NHẬT THÁNH GIOAN BAO-TI-XI-TA, lễ trọng.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D3), trừ lễ an táng.
Is 49,1-6; Cv 13,22-26; Lc 1,57-66.80.
VỊ NGÔN SỨ VĨ ĐẠI NHƯNG KHIÊM NHƯỜNG
Giáo Hội thường mừng lễ các thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên Chúa, ngày sinh nhật trên thiên quốc. Đối với thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo hội mừng kính cả ngày ngài sinh ra và cả ngày ngài tử đạo. Ngày qua đời mừng ở bậc lễ nhớ. Ngày sinh nhật với bậc lễ trọng.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12); Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6). Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu, ơn gọi huyền nhiệm và được trao sứ vụ cao trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Qua sinh nhật và ơn gọi huyền nhiệm của Gioan,Thiên Chúa đã đặt ngài làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Đây là một lễ rất lâu đời xét về mặt thời gian. Nếu như câu hỏi mà những người đương thời để bụng suy nghĩ “con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? ” Thì ngày nay người ta vẫn không ngừng đặt ra những câu hỏi, chẳng hạn như : Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6 ? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể như thế ?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6 ?
Lý do lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends (ngày mùng ), ides (ngày 15) và nones (ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh hạ của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Isave chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Thánh Augustinô nói : “ Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong dạ mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ sinh nhật của ngài ”.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương, bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than, Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân. Qua mọi thời, những Ngôn sứ chân chính luôn thao thức với vận mạng Dân tộc. Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy Hêrôđiađê là vợ của anh trai mình. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay. Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu từ trong ngục. Đụng chạm đến những hôn quân bạo chúa thì chỉ chuốc lấy họa vào thân. Thế nhưng, lương tâm ngay chính, Gioan đã khẳng khái nói lên những lời cần phải nói cho dù phải trả giá bằng chính mạng sống.
Sứ mạng Ngôn sứ thời nào cũng phải trả giá khi dám nói sự thật, khi dám đấu tranh cho công lý và dân chủ. Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành, bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả” (Lc 7,28).
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người hãy nghĩ về ngày sinh nhật của mình. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất cuộc đời.
Ngày ấy, cha mẹ, anh chị em hân hoan, bà con lối xóm đến chúc mừng. Ai cũng muốn nhìn con trẻ, mỉm cười muốn bồng ẵm và tự hỏi: trẻ này rồi sẽ nên như thế nào, ai cũng chúc phúc và đặt niềm hy vọng. Con trẻ được cha mẹ đặt tên. Ngày được Thanh tẩy, con trẻ có một tên Thánh. Chọn một vị Thánh làm bổn mạng cho con, cha mẹ xin vị Thánh Quan thầy cầu bầu che chở con và mong con noi gương bắt chước vị Thánh ấy trên đường nhân đức.
Thánh Gioan được sinh ra trong niềm vui của cha mẹ và mọi người. Ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình. Thánh nhân để lại một mẫu gương khiêm nhường, thánh thiện cho muôn đời. Mỗi người được sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ và sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi cuộc đời là một huyền nhiệm trong tình thương Thiên Chúa. Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người chúng ta nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.
Gioan đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa, vì ngài đã trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sau thời gian sống ẩn dật trong rừng vắng, Gioan đã ra đi và thi hành sứ vụ. Ngài đã trở thành tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi hố sâu phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, đường quanh co phải uốn cho ngay… (x. Lc 3, 4-6).
Như vậy, Gioan nắm một vai trò trực tiếp có một không hai là dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, khi ông công khai xuất hiện trước toàn dân và làm phép rửa, dân chúng đã tưởng là Đấng Cứu Thế! Lúc đó, nhiều người đã đến để thăm dò, chất vấn xem ông có phải là Đấng Kitô mà bao ngôn sứ đã loan báo, nay xuất hiện hay không? Khi đặt vấn đề ấy với ông, ông hoàn toàn phủ nhận và không những thế, Gioan còn đề cao Đấng Cứu Thế khi nói: “Có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dép cho Ngài” (x. Lc 3, 16). Ngài cũng nói rõ vai trò của mình là người dọn đường, vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến thì: “Ngài phải lớn lên còn tôi, tôi phải nhỏ đi” (x. Ga 3, 30). Khi uy tín của ông lên đến đỉnh điểm, có nhiều môn đệ đi theo, lẽ ra, lúc này, ông phải tự hào và hãnh diện cũng như củng cố uy tín…! Không! Khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông sẵn sàng chỉ về phía Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của mình, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29).
Quả thật, Gioan là một người khiêm tốn. Điều này được chứng minh qua thân thế của ông như sau: sinh ra trong một gia đình có truyền thống Tư Tế, thượng lưu, Gioan có quyền được hưởng một cuộc sống sung túc và trưởng giả. Thế nhưng, cuộc đời của ông lại âm thầm và gắn liền với sa mạc. Thức ăn của ông là châu chấu và uống mật ong rừng. Ông sống nghèo đến độ lấy da thú làm áo che thân.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã ân thưởng cho Gioan xứng với vai trò của ông, nên Ngài đã khen ngợi, công nhận Gioan là người vĩ đại khi nói: “Anh em vào sa mạc để xem gì? Một cây lau phất phơ trước gió ư?… Anh em xem thấy gì? Một vị ngôn sứ? Đúng thế, tôi nói cho anh em biết, trong con cái của người phụ nữ, không ai lớn hơn Gioan” (x. Lc 7, 28).
Thánh Gioan Tẩy giả đã nêu gương khiêm tốn và làm chứng cho Chúa. Làm chứng trong cuộc sống hôm nay chính là: Tự làm mình lu mờ đi bằng việc ít nói về mình, không khoe khoang thành tích của mình, để Chúa được lớn lên nơi tha nhân. Làm chứng cho Chúa hôm nay cũng là: sống điều độ chừng mực, tránh thói tiêu xài xa hoa lãng phí và sự chè chén say sưa. Làm chứng cho Chúa hôm nay còn là chỉ đường giúp nhiều người nhận biết và theo làm môn đệ của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết sống đơn sơ khó nghèo, can đảm làm chứng cho sự thật và không bao giờ chịu lùi bước trước những khó khăn trở ngại gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.