2021
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
03 24 Đ Thứ Bảy Tuần XIII Thường Niên.
THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh, Linh mục (U1853), Tử đạo.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Ep 2,19-22; Ga 20,24-29.
ĐỪNG CỨNG LÒNG NHƯNG HÃY TIN
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?”( Ga 11, 8 ). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê”( Ga 11, 7 ). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ :” Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”( Ga 11, 16 ).
Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế:” Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”( Ga 20, 25 ).
Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ).
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông:” Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”( Lc 9, 23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét:” Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi”( Mt 10, 17-22 ). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi khắp mọi nơi…”( Mt 28,19 ) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Ngày hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã làm tâm trạng các môn đệ thêm trĩu nặng, mất phương hướng, bao hy vọng tiêu tan chỉ còn lại nổi sầu đau ảm đạm, cộng thêm sự sợ hãi vì bắt bớ của những người Do Thái. Các môn đệ lần lượt rời Giê-ru-sa-lem, trong đó có cả Tô-ma, thành viên của nhóm tông đồ. Do vậy, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ, hiện ra với nhóm tông đồ, Tô-ma không có mặt. Ông đang buồn rầu, bi quan, chán nản đến độ không muốn gặp các thân hữu, ông đóng cửa ở nhà một mình. Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền… Thế là Tô-ma hụt mất cơ hội diện kiến Đấng Phục sinh.
Thế nhưng, khi gặp lại các thân hữu họ kể cho ông nghe “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” thì ông lại không tin. Bởi lẽ, ông là một người sống rất thực tiễn, luôn đòi hỏi sự minh xác bằng lý trí, sự kiểm chứng bằng giác quan. Ông muốn được tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” và đó là điều kiện ông cần để tin. Bởi trong suy nghĩ của ông, nếu Thầy đã Phục sinh chắc hẳn vẫn còn mang những vết thương nơi thân xác.
Một điều thật lạ là Đấng phục sinh ấy lại chiều theo ý của ông, bởi Ngài biết đầu óc ông thực tiễn và bằng tình yêu Ngài không muốn mất ông (x.Ga 17,12). Khi hiện ra lần nữa (tám ngày sau), sau lời chúc bình an, Chúa Giêsu đã gọi chính tên ông và nói: “Tô-ma hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Rõ ràng, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra lần này như thể cho chỉ một mình ông, và mời ông làm những điều mà ông đã đòi hỏi.
Chúng ta không rõ Tô-ma có dám làm những điều ông muốn xác minh hay không, nhưng chắc một điều là chính thái độ bao dùng và yêu thương của Thầy dành cho ông đã chinh phục tâm hồn ông. Cả con người ông thổn thức, run rẩy, xúc động và môi ông mấp máy rồi bật lên “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”, một lời tuyên xưng đức tin cao độ nhất, chân xác nhất và sống động nhất của Tin mừng. Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận, nó là tất cả những gì bản thể người của ông muốn nói. Ông không gọi là thầy, nhưng tuyên xưng là Chúa, điều mà trước đó không chưa hề nghĩ đến khi rong ruỗi theo Chúa Giêsu.
Chính lời xác quyết đó của Tô-ma, là cơ hội cho đức tin của mỗi chúng ta, những người tin vào Chúa mà không được minh xác đức tin của mình bằng giác quan. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Quả vậy, con người ngày nay chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm, luôn đòi hỏi tính minh xác qua giác quan, một nghĩa nào đó chúng ta là những Tô-ma thứ thiệt. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tô-ma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chắc rằng chuyện Chúa phục sinh không phải do một ảo giác tập thể.
“Phúc cho ai không thấy mà tin” còn là một đặc ân cho mỗi ki-tô hữu, vì mỗi chúng ta được thừa hưởng một mối phúc mà thánh Tô-ma không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (x.Ga 17, 20), trong đó có cả Tô-ma.
2021
Tiếng gọi ân tình
02 23 X Thứ Sáu Tuần XIII Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ Hà Nội.
Thứ Sáu đầu tháng. Ngày đền tạ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
St 23,1-4.19;24,1-8.62-67; Mt 9,9-13.
TIẾNG GỌI ÂN TÌNH
Tội lỗi có nhiều thứ loại, nhiều cấp độ và cũng nhiều cách thế để đối xử với tội nhân. Với kẻ này, người ta tránh né tiếp xúc, với người kia, họ bắt giam, cải tạo; có kẻ phải tù chung thân hay bị lên án tử vì y là tên phản dân hại nước, nguy hiểm cho xã hội, không đáng sống. Xem ra cách ly là biện pháp thông thường nhất.
Còn Chúa Giê-su với phương châm: “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi kẻ có tội,” Ngài gần gũi tiếp xúc với tội nhân. Trong khi những người khác khinh bỉ, Ngài và các môn đệ cùng ngồi ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế. Hơn thế nữa, Ngài đã kêu gọi làm môn đệ – rồi sau sẽ chọn làm tông đồ – một người thu thuế là Lê-vi, ngay lúc ông ta đang làm nghề thu thuế trước mắt mọi người.
Hãy tưởng tượng mỗi người chúng ta ở trong vị trí của Mátthêu hôm nay. Ta đã quá nhiều lần nghe những câu chuyện về Chúa Giêsu như thế này, một người làm phép lạ mà mọi người tin rằng Người có thể là Đấng Cứu Thế. Người mở mắt người mù, nói về sự tha thứ của Thiên Chúa và đối xử tử tế với những người nghèo và bị ruồng bỏ. Bây giờ, Người đang tiến về phía mỗi người chúng ta và lúc đầu, như thể Người sẽ đi thẳng ngang qua ta.
Thế rồi sau đó Chúa Giêsu dừng lại, nhìn thẳng vào ta và nói: “Hãy theo tôi”. Dĩ nhiên là ta mất cảnh giác, không kịp phản ứng: Tại sao Chúa Giêsu lại nói điều này với tôi? Tôi chưa bao giờ gặp Người trước đây.
Những câu hỏi khác bắt đầu tràn ngập tâm trí ta: Tại sao lại là tôi? Thế còn tất cả những tội lỗi và sự thất bại của tôi thì sao? Chắc chắn Đức Giêsu phải biết tôi là ai và tất cả những gì tôi đã làm. Nếu không có gì khác, Người hẳn đã biết tôi bởi công việc tôi đang làm.
Nhưng khi ta nhìn vào mắt Chúa Giêsu, ta bắt đầu cảm thấy bình an. Ta không chắc chắn chính xác nơi bình an đến, nhưng bạn nhận ra rằng ta không cần câu trả lời trước khi ta nói đồng ý với Chúa Giêsu. Có một cái gì đó về con người này, bạn chỉ cần tin tưởng nơi Người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tin Mừng thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới”. Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế”, Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Chúa Giêsu gọi Matthêu theo Ngài. Người thu thuế đứng dậy theo Chúa, không thắc mắc, chẳng tính toán, chẳng chần chừ. Và rồi, không biết Chúa có lên tiếng gọi hay không mà những người thuộc bọn thu thuế và quân tội lỗi đã đến đồng bàn với Ngài. Tiếng gọi của Chúa mạnh đủ để lôi kéo, thay đổi, và tái tạo trái tim nhân loại vốn đã quá đầy, quá nặng bởi đam mê, bạc tiền và quyền lực.
Xưa kia, Chúa Giêsu đã cất tiếng gọi. Ngài gọi các môn đệ, gọi anh mù, gọi các trẻ em, gọi người phụ nữ samari,… Tiếng gọi của Ngài đậm tình thân ái, tràn sự cảm thông, mênh mông nghĩa tình của Vị Thiên Chúa làm người đi giữa cuộc đời. Trên hành trình dương thế, Chúa Giêsu cảm thấu, hiểu sâu tất cả những bềnh bồng trôi nổi của kiếp nhân sinh cũng như sự trì kéo của phận người dòn mỏng. Ngài thương lắm những ai bị đẩy ra lề xã hội, bị loại trừ, bị xa tránh như thể những con chiên bị lạc đàn, bị đuổi khỏi bầy, bị bơ vơ trơ trọi giữa bầy. Ngài đặc biệt tìm kiếm những người như thế, Ngài cất lời gọi họ thật thiết tha da diết, Ngài đến với họ, ở với họ.
Ngày nay, Chúa vẫn cất tiếng gọi. Ngài gọi tôi, gọi bạn, gọi hàng hàng lớp lớp những người từ mọi nơi, mọi thời. Lời gọi được gởi đến tận cùng thế giới, đến mọi ngõ ngách cuộc đời, đến mọi khóc khuất của hồn người. Biết có mấy khi ta hỉ hả đáp lại tiếng Ngài, thanh thản bước về phía Ngài và an bình ở lại trong Ngài ?
- Thật thế, đến với Chúa, Matthêu tìm được ý nghĩa đời mình ; đến với Chúa, bọn thu thuế và tội lỗi tìm lại phầm giá của người con ; đến với Chúa, ta được sống dồi dào, sống trọn vẹn, sống đời đáng sống nhờ lãnh nhận thần lực Thánh Thể và Lời hằng sống, nhờ yêu bằng trái tim của Thiên Chúa Tình Yêu, nhờ đi trên lối nẻo của Đấng là Đường và Sự Thật. Nhưng, làm sao nghe được tiếng gọi ân tình của Chúa ? Làm sao ý chí ta đủ mạnh, tâm tư ta đủ sáng để dứt khoát đứng dậy, rời khỏi nơi ta đang ở để đến với Ngài ?
Hẳn sẽ rất cần nơi tôi, nơi bạn một tâm hồn khiêm tốn và thẳng thắn đủ để thấy rõ và chấp nhận thân phận tội lỗi của mình, để ý thức nhu cầu cần đến lòng xót thương hải hà của Chúa, để nhận ra sự thúc bách phải điều chỉnh lối sống, phải hoán cải, phải rời khỏi những gì ta đang bám víu mà, rất có thể đó là một suy nghĩ, một hành động, một chương trình sống, một mối tương quan, một thói quen, một cử chỉ hay thái độ nào đó. Ta cùng mở lòng đón đợi Lời Gọi Yêu Thương của Chúa trong giờ suy niệm này và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy nhận ra mình bất xứng để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Mặt khác, từ những gì đã cảm nghiệm, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta sẵn sàng cảm thông cho những yếu đuối của anh chị em mình, sống khiêm tốn và đón nhận Thánh giá trong hành trình môn đệ của mình như một hồng ân.
2021
Sống Niềm Tin
THÁNG BẨY – 2021
Tháng Năm (đ), Tháng Sáu (t) – Tân Sửu
Cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha
Ý chung: Tình huynh đệ trong xã hội.
Chúng ta hãy cầu nguyện, để trong mọi hoàn cảnh xã hội, kinh tế và chính trị mâu thuẫn, chúng ta trở thành các kiến trúc sư can đảm, say mê đối thoại và xây dựng tình huynh đệ.
01 22 X Thứ Năm Tuần XIII Thường Niên.
Thứ năm đầu tháng. Ngày các Linh mục.
St 22,1-19; Mt 9,1-8.
Sống Niềm Tin
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xày ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Maccô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Tin là điều kiện cần để con người đón nhận phúc lành của Thiên Chúa. Niềm tin giúp ta khao khát tìm gặp Người. Niềm tin cho ta hy vọng đủ lớn để vượt qua những cản trở bởi thế lực xấu xa, bởi mưu mô của Tên Dối Trá và bởi yếu đuối phận người. Niềm tin còn cho ta cơ hội hàn gắn những gì đã gãy đứt do tội lụy, như thể Adam tìm lại được thiên đàng, như thể đôi phu phụ nối lại mối tình xưa, như thể đứa con đi hoang tìm lại được mái ấm, … Quả vậy, khi bày tỏ niềm tin vào Thiên Chúa, là ta sẵn sàng để cho Người hợp lòng hai mối cầu yêu thương đang xa cách, cho Người nối hai đầu dây tình nghĩa đang đứt lìa. Khi đó, tâm linh chết dở của ta được cứu sống, xác thân tật bệnh của ta được chữa lành.
Anh bại liệt hôm nay được đón nhận cả hai: phúc lành và ơn tha thứ. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Gân cốt anh hết bị trói buộc bởi bệnh tật, tâm hồn anh thoát khỏi xích xiềng của tội lỗi. Anh nối lại tương quan nghĩa tình với cộng đồng và tái hiệp thông với sự sống của Thiên Chúa. Anh được hưởng trọn vẹn hoa trái của niềm tin và ơn tha thứ.
Thời nào cũng thế, rất cần những tâm hồn nhân loại biết đặt trọn niềm tin vào Tạo Hóa như trẻ thơ tin tưởng cha mẹ mình. Biết bao cuộc hành hương thành kính, biết bao phép lạ được thực hiện mà chẳng kể đến sự chữa lành thể xác, nhưng là sự hồi sinh tâm linh cách diệu kỳ. Hóa ra, lời tha thứ – cái lành lặn bên trong lại cần thiết hơn cả. Tiếc là không phải ai cũng nhận ra sự cần thiết này. Đám đông dân chúng bên anh bại liệt hôm nay được một phen kinh hãi vì nhận ra điều xưa nay chưa từng thấy: Thiên Chúa đã trao quyền tha tội cho loài người ngang qua Đức Giêsu. Còn những luật sĩ học rộng biết nhiều lại không thể biết cái biết của thường dân, họ không thể chấp nhận phép lạ trong phép lạ họ vừa chứng kiến: Quyền tha tội đã làm một hành trình dài từ thiên giới đến trần gian.
Lãnh nhận quyền xá giải từ Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn thi hành cách trung thành và quảng đại nơi con cái mình. Nhưng ở đâu và đời nào cũng vậy, năng quyền này ít nhiều bị chất vấn, bị nghi ngờ cách này cách nọ với muôn vàn lý lẽ lớn nhỏ khác nhau. Có thể nói những vấn nạn về năng quyền xá giải của Giáo hội đều phát xuất từ cái thiếu căn bản này: thiếu lòng tin. Chính vì thiếu lòng tin, nên ta để vuột mất những hoa trái đẹp đẽ do lòng tin mang lại như đã kể trên đây. Chính vì thiếu lòng tin, nên ta cứ trật trầy trong cõi u mê đời người với đủ thứ tật bệnh xác hồn. Chính vì thiếu lòng tin mà con đường gặp gỡ Giêsu của ta cứ mãi mịt mờ và tiếng gọi về đây bên Cha, ta nối lại tình xưa Chúa vẫn cứ nghìn trùng xa cách.
Trong lắng đọng, thành tâm và khiêm hạ, ta hãy để Lời Chúa hôm nay cật vấn và gọi mời ta rà soát lại xem ta tin Chúa thế nào và ở mức độ nào? Ta tin vào quyền tha tội của Giáo hội ra sao? Hãy để trái tim yêu khoan hậu và toàn năng của Chúa chạm vào đáy lòng ta, sáng soi mọi ngõ ngách của hồn ta, cho ta gặp được Người, để Người ban lời tha thứ và chữa lành xác hồn ta.
Ðời sống đức tin cũng không ra ngoài định luật cần được nuôi dưỡng và đỡ nâng. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho riêng một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự thánh thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa Giêsu đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên Chúa.
“Tin là chấp nhận những điều mình không thấy, và hoa trái của lòng tin là chúng ta sẽ thấy những gì chúng ta tin”, ước gì kinh nghiệm này của thánh Augustinô thêm vào với tiếng gọi của sứ điệp Lời Chúa hôm nay thúc bách ta tìm đến tòa giải tội, phơi bày trước Chúa tâm linh khuyết tật của ta, để Người chữa lành và ban ơn tha thứ kịp thời, cho ta được hồi sinh trong sự sống mới, được nối lại mối tình xưa nồng nàn thương mến giữa Chúa và ta.
2021
Đừng cao ngạo
30 21 X Thứ Tư Tuần XIII Thường Niên.
(Đ) Các Thánh Tử đạo tiên khởi của Hội Thánh Rô-ma.
Thánh Vi-xen-tê Đỗ Yến, Linh mục (U1838) Tử đạo.
St 21,5.8-20; Mt 8,28-34.
Đừng cao ngạo
Thiên Chúa có từ trước muôn thuở, muôn đời. Thời đại của Thiên Chúa tồn tại đến muôn đời.
Từ khi Luciphe phản nghịch cùng Thiên Chúa, nó đã bị Thiên Chúa trừng phạt. Từ đây, một thời đại tăm, tội lỗi xuất hiện. Nó khước từ thời đại của Thiên Chúa, và xâm nhập vào trần gian qua con đường tội lỗi, u mê của loài người. Sự kiêu căng của Lucife, làm cho nó u mê, tối tăm, không còn nhận biết Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên nó, ban cho nó quyền năng, sức mạnh, sự sáng như Thiên Chúa. Sự u mê đã che mờ lương tri của nó, làm cho nó quên Thiến Chúa, phản bội Chúa. Sự phản bội bởi u mê đã làm cho Lucife và đồng bọn mãi mãi không nhận ra Thiên Chúa, không nhận ra thời đại của Chúa đang tồn tại và đang đến trong thế gian.: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao? vvvv
Ma quỷ vốn từ loài Thiên thần thiêng liêng được Thiên Chúa dựng nên để chầu chực phụng sự Người. Nhưng vì tội kiêu ngạo nên đã bị phạt vào hỏa ngục. Tuy nhiên xưa nay Chúa vẫn rộng phép cho chúng được hoành hành trên mặt đất này cho tới ngày tận thế mà tôi luyện, thử thách con cái loài người. Vì vậy ma quỷ cũng có một sức mạnh đặc biệt, nếu không cậy nhờ vào ơn Chúa ta cũng không thể thắng nổi. Vì trong Tin Mừng có lần Chúa đã cảnh báo các môn đệ: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.” (Mc 9, 29).
Chúa Giêsu đã đến với con người. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người, hai cách thức Chúa đến với họ.
Mẫu người thứ nhất có thể thấy được nơi hai người bị quỉ ám. Họ là những con người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỉ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỉ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xẩy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Mẫu người thứ hai là dân cư miền Gađara. Những người này có đời sống vật chất đầy đủ và tiện nghi, nhưng dường như không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa đến với họ qua dấu lạ chữa lành hai người bị quỉ ám mà từ lâu họ đã chối từ, và sự kiện đàn heo bị quỉ nhập lao xuống biển chết chìm. Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ để kéo chú ý của người dân trong thành về việc Chúa đến, nhưng họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Bởi vì, như Tin Mừng kể lại, sau khi gặp Ngài, họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế vì sợ phải gánh chịu những thiệt hại vật chất do sự hiện diện của con người lạ lùng này. Những lợi lộc hay những thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa.
Một việc trừ quỷ thật ‘đắt đỏ’: để chữa lành cho hai người, mất toi cả đàn heo!
Phản ứng của dân thành cũng thật quyết liệt: xin Người rời khỏi vùng đất của họ, bởi vì biết đâu Người chẳng chữa thêm vài người bị quỷ ám nữa, và họ lại có thể phải mất thêm vài đàn heo khác! Bậc thang giá trị của họ thật rõ ràng: đàn heo quý hơn sinh mạng con người. Hình như nhiều lúc chúng mình cũng cư xử y như dân thành Gadara đó thôi! Coi trọng vật chất hơn con người, quyền lợi của mình hơn cả sự sống của người khác. Có thể không đến nỗi “đốt nhà hàng xóm chỉ để luộc chín một quả trứng” như phát biểu của một nhà văn, thế nhưng, chúng mình cũng thật ích kỷ khi chấp nhận tình trạng ai chết mặc ai, miễn là quyền lợi, tài sản tôi không xuy xuyển chút nào.
Tin Mừng cũng cho ta thấy vai trò của ma quỷ nơi trần gian này “Chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy”. Như giáo lý bao đồng xưa đã dạy là: “Chúng chỉ cám dỗ ta phạm tội và muốn làm hại ta mà thôi”. Sức mạnh linh thiêng của ma vương quỷ lực hôm nay phải chịu khuất phục trước uy quyền của Đấng Thiên Sai. Chỉ có Thiên Chúa mới thắng nổi ma vương thần lực ấy. Chúng đã phải kêu van, “nài xin Người rằng: nếu ông đuổi chúng tôi thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia”.
Rồi chúng đã phải biến mất với cái chết của mấy ngàn con heo, hầu bày tỏ uy quyền của Chúa Giêsu con Thiên Chúa. Để rồi “Cả thành ra đón Chúa Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ”. Họ ra đón Chúa vì họ mới thấy sức mạnh quyền năng của Người. Nhưng họ lại “xin Người rời khỏi vùng đất của họ”. Tại sao vậy? vì họ mới chỉ thấy sức mạnh phá đổ, hủy diệt mà sợ sệt xa rời Chúa. Họ như tiếc xót mấy ngàn con heo chứ chưa thấy được quyền phép yêu thương, ban ơn tha thứ của Thiên Chúa cứu độ họ.
Ma quỷ ngày nay vẫn đang hoành hành trên khắp thế gian. Chúng ẩn nấp trong những vỏ bọc vật chất, địa vị, thú vui xác thịt. Chúng lôi kéo ta đi vào con đường theo chúng là xa Chúa, bỏ Chúa. Hậu quả người theo chúng sẽ phải khổ sở bắt đầu ngay từ chốn trần gian này.
Tin Mừng nhắc nhớ cho mỗi người chúng ta, trong thời đại 4.0 còn có nhiều sức mạnh hơn cả việc quỷ nhập ngày xưa.
Mỗi đứa con khi vừa biết ăn, biết chơi thì đã có bên mình một chiếc điện thoại thông minh, hay một cái Ipad hiện đại để nghe nhạc, xem phim… Lớn thêm ít nữa thì chơi game… Thêm tuổi thì thêm những đam mê không thể rời xa cái điện thoại, cái Ipad đến nỗi, không còn nhận biết những sự việc xung quanh về con người, về cội, về nguồn. Thờ ơ lãnh đạm với mọi nhân đức, với lương tâm chính mình. Để rồi luôn làm những điều phản nghịch cùng Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Ngày nay, có mấy ai đã nhận ra Thời Đại của Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Đang hiện giữa chúng ta, để mà nói lên rằng: Lạy Chúa Giêsu Kito, Con Thiên Chúa hằng sống. Con yêu mến và tôn Thờ ngài. Phải chăng họ đang tôn thờ thế gian gian, lạc quan với sức mình mà không nhận ra mình đang tự lao xuống biển mà chết đuối. Xin Chúa thêm ơn để chúng ta đừng cao ngạo mà khiêm tốn tín thác vào Chúa