2021
NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
08 29 X Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên.
St 44,18-21.23b-29;45,1-5; Mt 10,7-15.
NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN
Nhiều bậc tôn sư như Đức Khổng, Đức Phật có thói quen dẫn môn sinh rảo khắp thôn làng thành thị giảng dạy giáo thuyết của mình. Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ đi lưu động trong “các thành hay làng mạc.” Nhưng việc rao giảng thì không phải đợi đến một nơi nào, mà đã phải thực hiện ngay khi còn đi đường. Chính nội dung của lời rao giảng “Nước Trời đã đến gần” cho thấy tính cấp bách khẩn thiết của sứ mạng: không được có thái độ tự mãn hoặc thụ động ngồi chờ người ta đến nhưng trái lại phải nhanh nhẹn tích cực lên đường đến với tha nhân, trở thành sứ giả đem Tin Mừng bình an đến mọi nhà mọi người, ngay cả khi bị xua đuổi, từ chối.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng: Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỉ. Vì là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
Liên hệ đến tâm thức và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào thăm và chúc lành cho nhà đó.
“Nước Trời đã đến gần” (c.7) là sứ điệp quan trọng Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Nước Trời còn được biểu hiện nơi chính con người Đức Giêsu, vì Ngài là hiện thân của Chúa Cha, đến trần gian để minh chứng tình yêu Cha dành cho nhân loại. Vâng, sứ điệp ấy đã được Chúa Giêsu thông truyền lại cho các môn đệ, để các ngài tiếp nối công trình cứu độ của Ngài nơi trần gian qua Giáo hội. Khi được chuyển trao sứ điệp quan trọng này, các môn đệ cũng được Chúa Giêsu ban cho những năng quyền để khắc phục sự dữ (x.c.8), đồng thời Ngài cũng đòi hỏi người môn đệ phải thật nghèo khó, thanh thoát (x.c. 9-11), để hết mình phục vụ Nước Trời (x.c.12-13). “Nước Trời đã đến gần” còn là sứ điệp quan trọng cho con người thời đại hôm nay không?
Khi mà trong thực tế, nhiều người như cảm thấy Thiên Chúa rất xa lạ, mơ hồ đối với họ, vì những cảm thức duy thực dụng đã lún sâu trong tâm khảm của họ. Đứng trước thảm trạng đau buồn ấy, người môn đệ Chúa Giêsu phải làm gì để “Nước Trời” thực sự được hiện diện giữa trần gian hôm nay! Phải chăng đây là sứ mệnh quan trọng và cấp bách, đang hối thúc mỗi chúng ta hãy can đảm mạnh dạn lên đường, để tung gieo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người. Dẫu có những khó khăn và thử thách đang chờ đón phía trước, nhưng chúng ta hãy vững tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Ngài luôn đồng hành bên chúng ta để thi thố những việc kỳ diệu cho vinh danh Ngài.
Điều quan trọng là mỗi chúng ta hãy ý thức “chúng ta đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c.8b). Con người hôm nay đang dần giàu lên về nhiều mặt: vật chất, sự hiểu biết, sự hưởng thụ, danh vọng . . . nhưng lại vô cùng nghèo về tình yêu, sự thật và công lý. Thế nên, từ sâu thẳm nội tâm, con người vẫn thật sự khao khát một chiều kích tâm linh đích thực, có thể lấp đầy sự trống vắng của cõi lòng họ. Thế nhưng, người môn đệ Đức Kitô không chỉ giới thiệu về Nước Trời bằng những chân lý mặc khải, nhưng chính một nếp sống đơn sơ, nghèo khó, thanh thoát của người môn đệ sẽ có sức thuyết phục rất mạnh mẽ, vì con người hôm nay “cần chứng nhân hơn thầy dạy”.
Chúa Giêsu chính là hiện thân của tình yêu thương, lòng bao dung tha thứ, lòng xót thương trên những nỗi khổ đau của con người về thể lý và tinh thần. Chính Ngài đã thi thố quyền năng trên bệnh tật, sự chết, ma quỷ khi Ngài chữa lành cho con người khỏi áp lực của sự dữ. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu cũng ban cho các ông năng quyền trên sự dữ, nhờ đó các tông đồ có thể chữa lành bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại và khu trừ ma quỷ (x.c.8a). Lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu phải luôn là hành trang cho người môn đệ: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy” (c.8b).
Chúa Giêsu còn đi xa hơn khi đòi hỏi người môn đệ phải có một tâm hồn thanh thoát với của cải, danh vọng và tình cảm con người: “Đừng sắm vàng bạc hay tiền, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo… hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi…” (c. 9-11). Sự thanh thoát với nếp sống giản dị của người môn đệ là dấu chứng thuyết phục nhất cho lời rao giảng cùng với những năng quyền Chúa đã ân ban. Sứ điệp đầu tiên mà người môn đệ mang đến cho mọi người chính là sự bình an: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (c.12). Đây chính là khát vọng sâu xa nhất mà con người hằng mong đợi: sự an bình và hạnh phúc.
Chúa Giêsu là hiện thân của Nước Trời, là nội dung sứ điệp truyền giáo. Vì thế, khi thi hành sứ vụ, người môn đệ luôn phải đặt Chúa làm trọng tâm mọi hoạt động của mình. Tất cả những gì người tông đồ có được đều là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, người tông đồ cần luôn ý thức sâu xa hồng ân mình được nhận lãnh cách nhưng không, để không tự hào, hay khoe mình về những thành công đạt được trong khi thi hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
Ngày hôm nay, con người cần chứng nhân hơn thầy dạy. Thế nên, người môn đệ của Chúa phải truyền giảng Tin Mừng trước tiên bằng một cuộc sống tràn đầy tình yêu thương, với một nếp sống đơn sơ giản dị, thanh thoát với mọi sự vật trần thế, để chỉ lo tìm vinh danh Chúa và mưu ích cho các tâm hồn. Giữa một xã hội đang đầy dẫy những phức tạp muôn mặt, con người khó tìm kiếm được sự bình an đích thực. Đây chính là nhiệm vụ của người môn đệ, đem bình an của Chúa đến cho mọi nhà và từng tâm hồn, để tất cả đều cảm nghiệm niềm hạnh phúc sâu xa với sự bình an tràn trào, vì Chúa đang ở cùng con người.
2021
CHỌN LỰA CỦA CHÚA
07 28 X Thứ Tư Tuần XIV Thường Niên.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
St 41,55-57;42,5-7a.17-24a; Mt 10,1-7.
CHỌN LỰA CỦA CHÚA
Tin mừng hôm nay kể về việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ. Họ không có của cải, không có học thức cao, không có địa vị trong xã hội. Họ được chọn từ trong dân gian, những người chỉ làm việc thường, không được giáo dục đặc biệt, không có lợi thế xã hội. Người ta nói Chúa Giêsu không tìm kiếm những người phi thường, Ngài tìm những người tầm thường để làm việc một cách rất phi thường. Sứ điệp của việc chọn gọi ở chỗ. Chúa Giêsu nhìn mỗi người, không phải chỉ để thấy họ thế nào, nhưng để thấy Ngài có thể khiến họ trở nên như thế nào. Không ai nên nghĩ rằng mình không có gì để dâng cho Chúa. Chúa Giêsu có thể lấy điều một con người tầm thường hơn hết dâng lên để sử dụng trong việc trọng đại.
Con người thường hay chọn những người cùng một sở thích hay tính tình giống nhau. Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ có tính tình khác nhau, nhiều khi đến chỗ xung khắc: Matthêu người thu thuế. Tất cả mọi người đều coi Matthêu là người phản quốc (làm việc cho ngoại bang), như một người làm tay sai cho những chủ nhân chiếm xứ mình để cầu lợi.
Trái ngược với Matthêu, một người ái quốc thương dân là Simon (người nhiệt thành). Nếu Simon người cuồng tín đó gặp Matthêu tại một nơi nào khác ngoài tập thể của Chúa Giêsu, thì chắc chắn giữa hai ông sẽ xảy ra án mạng. Rồi một Phêrô nhanh nhẩu nói năng phải ở với Gioan thâm trầm, ít nói. Và một Thomas từ chối không tin tất cả lời chứng Chúa đã sống lại và hiện ra của tất cả Tông-đồ khác. Thế mà Thiên Chúa có thể làm cho các ông dẹp khác biệt cá nhân, để sống chung và cùng nhau thi hành sứ vụ Ngài trao. Tại dây có một chân lý trọng đại là những người thù ghét lẫn nhau lại có thể thương yêu nhau, khi cả hai đều mang sứ điệp Tin Mừng. Trái lại trong bài đọc một gia đình tổ phụ Giacob chúng ta thấy: Anh em trong nhà lại ám hại nhau.
Chúa Giêsu không chọn những người tài cao và học rộng, giàu sang và quí phái, chức vụ và uy quyền trong xã hội, nhưng Ngài đã chọn người có tấm lòng và thiện chí. Chỉ cần hai điều này thôi, còn mọi điều khác Chúa sẽ lo liệu.
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các tông đồ như sau: sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành quăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài không chọn được một ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được một ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài.
Các tông đồ được chọn không phải vì các ngài có tấm lòng và thiện chí như tiêu chuẩn của Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương họ trước cả khi họ biết Chúa. Các tông đồ được Chúa chọn cũng không phải vì các ông có quả tim tinh tuyền như Chúa đòi hỏi, nhưng vì lòng nhân từ của Ngài mà Ngài hy vọng sẽ hướng dẫn, dạy dỗ họ, để họ đổi mới mà thành những chứng nhân tông đồ cho muôn dân.
Với thánh sử Mác-cô và Luca chỉ nêu danh sách 12 tông đồ khi Chúa gọi các ngài; còn Matthêu thì nhắc đến nhóm 12, khi Chúa sai các ông đi rao giảng. Như vậy, Matthêu đã nhấn mạnh đến sứ mạng của nhóm 12 hơn là việc kêu gọi các ngài, và đề cao mối liên lạc mật thiết giữa tông đồ đoàn và sứ mạng truyền giáo. Họ là những chứng nhân tiêu biểu, đã được Chúa Giêsu huấn luyện, trao quyền hành và nhiệm vụ truyền giáo, như chính Người đã được Chúa Cha sai đi.
Dù các ông có tính tình, hoàn cảnh, trình độ, khuynh hướng khác nhau, thậm chí đối chọi nhau; Chúa vẫn muốn họ làm chứng bằng chính đời sống và cảm nghiệm:
Họ phải làm chứng về tình thương của Chúa đối với họ: dù họ hèn kém, bất xứng, đầy khuyết điểm… nhưng họ đã được Chúa thương và tuyển chọn.
Họ phải làm chứng về sức đổi mới của Chúa: tuy là con người xác thịt, với thời gian và nhờ sống bên Chúa Giêsu, họ đang thay đổi cách sống, cách nghĩ và thấm nhiễm tinh thần của Nước Trời.
Họ phải làm chứng về sự hiệp nhất, về sự keo sơn giữa nhiều con người đầy khác biệt và mâu thuẫn nhau.
Họ phải làm chứng về quyền năng và về vai trò chủ động của Thiên Chúa: họ chỉ là đầy tớ vô dụng làm không được bao nhiêu, chính Thiên Chúa làm tất cả nơi họ trong công trình cứu độ.
Sự chọn gọi các môn đệ của Chúa Giêsu là có chủ đích: Đó là để sai đi, công bố Tin Mừng Nước Trời, cùng với sứ mạng, các môn đệ được trao cho quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đây là dấu chỉ của thời đại Nước Trời đã đến, Tin Mừng thắng được sự dữ, Tin Mừng đến để phục vụ, để cứu chữa. Lệnh sai đi của Chúa Giêsu năm xưa vẫn còn hiệu lực cho Giáo Hội hôm nay, người kitô hữu có bổn phận đến với muôn dân, mang Tin Mừng của Chúa đến bằng sự phục vụ, yêu thương và cứu chữa. Như trong bài đọc một. Giuse nhận ra kẻ thù là anh em, sẵn sàng chia sẻ khi anh em gặp khốn khó, cấp dưỡng khi anh em bị bỏ rơi.
Lời mời gọi các tông đồ ra đi truyền giáo năm xưa của Chúa Giêsu vẫn luôn là lời mời gọi cho mỗi người trong mọi thời đại. Giữa một thế giới mà niềm tin vào Chúa Giêsu còn quá ít ỏi, Kitô hữu chúng ta cần phải ý thức hơn rằng, việc loan báo Tin Mừng lại là một vấn đề ưu tiên hơn bao giờ hết.
2021
TIN MỪNG NƯỚC TRỜI
06 27 X Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên.
(Đ) Thánh Ma-ri-a Go-ret-ti, trinh nữ, tử đạo.
St 32,22-32 (hoặc Hr 32,23-33); Mt 9,32-38.
TIN MỪNG NƯỚC TRỜI
Têrêsa Maria Goretti sinh ngày 16/10/1890 tai Corina, một làng nhỏ thuộc nước Ý. Goretti được sinh ra trong một gia đình Công giáo đạo đức, thanh cao. Ông Luygi cha của Goretti, một người cha cần cù, biết nhìn xa trông rộng mọi cảnh huống trong gia đình. Bà Axunta, một người mẹ hiền hậu, bao giờ cũng tỏ ra thương chồng và yêu các con.
Năm lên 9 tuổi, Goretti theo cha mẹ sang Phêri để sinh sống cho cuộc sống đỡ chật vật hơn. Nhưng không may, mới ở Phêri được một năm thì cha em đã qua đời vì bệnh tật. Cái chết đau thương của người cha thân yêu đã ghi sâu trong tâm trí em kể từ ngày ấy và luôn luôn cô cầu nguyện cho cha mình. Thời gian lặng lẽ trôi, anh trai, Goretti và các em sống trong tình cảnh mồ côi cha, luôn túng bấn và thiếu gạo ăn. Hằng ngày mẹ và anh phải ra đồng, còn Goretti ở nhà trông các em và cơm nước. Em thay mẹ lo mọi việc trong nhà, nên chỉ mới 12 tuôi đầu mà em đã rất đảm đang và quán xuyến. Ai nhìn em cũng phải khen em thật là xinh, khuôn mặt trái xoan, mũi cao, trán cao, tóc đen và dài, em có đôi môi đỏ và thân hình đang tuổi dậy thì.
Vì hoàn cảnh túng thiếu, nghèo khó nên từ nhỏ em đã không được đến trường học. Em không biết viết cũng không biết đọc, chỉ thuộc những kinh nguyện do mẹ dạy vào những buổi chiều hay buổi tối trước khi đi ngủ.
Mãi tới năm 12 tuổi, Goretti mới được Rước lễ lần đầu tại nhà thờ Netturo cách làng Phêri 12km. Sung sướng và hạnh phúc biết bao đã từ lâu lắm em mong ước có ngày này, được rước Chúa vào lòng. Em đã thầm cầu nguyện, xin ơn cho người cha đã qua đời, xin cho mẹ đỡ vất vả để nuôi dạy các con nên người, và nhất là em đã xin Chúa cho em có một tâm hồn trong trắng, chăm chỉ làm việc, sống đạo đức và ngoan ngoãn.
Ngay bên cạnh nhà Goretti gia đình ông Xeren, ông Xeren có cậu con trai 17 tuổi là Alexander. Mồ côi mẹ từ khi mới vừa sinh ra nên Alexander đã sống thiếu tình mẹ xa tình cha: Tâm hồn anh trống rỗng, lầm lì, thiếu văn hóa. Ông bà Luygi rất nhiều lần không nén lòng nổi kêu trách về Alexander thì ông Xeren cũng chẳng quan tâm mà dạy bảo gì. Điều đó làm cho ông bà Luygi muốn sớm đưa gia đình mình về lại Corina sống để tránh cho các con học đòi theo những thói hư của Alexander.
Rồi một chiều thứ bảy, sau khi đọc kinh xong, Goretti đang lúi húi sửa lại những bông hoa cắm trong bình và thay những cây nến mới. Alexander sang bên nhà muốn nhờ Goretti khâu lại khuy của chiếc áo sơ mi, Goretti nhận lời Alexander sang sửa giúp chiếc áo vì lòng bác ái. Anh đứng nhìn Goretti khâu áo, thì lúc này trong tâm trí anh nhận thấy Goretti là một thiếu nữ xinh đẹp hơn là thánh thiện. Anh muốn yêu cô và ước mong được sống gần cô. Không thể kiềm chế nổi mình, ngay khi Goretti vừa cất kim chỉ đi thì anh đã chạy lại ôm lấy cô và cố hôn lên đôi má bầu bĩnh của cô. Goretti thấy cử chỉ sàm sỡ của Alexander liền chống cự và đẩy anh ra. Thấy mình bị Goretti chống cự anh bỏ ra và hăm dọa nếu cô nói với ai biết chuyện này thì cô sẽ bị mất mạng.
Goretti hoảng sợ vội chạy ra vườn, trong lòng em buồn sầu và bối rối. Em mong được đi xưng tội ngay.
Mấy tháng êm đêm trôi qua, mùa hè đến. Chiều hôm đó trời như sắp có giông, bà Axunta giục con trai và cậu Alexander nhanh chóng thu lúa đang phơi ngoài bãi vào kho. Goretti ở lại cho em bé út ngủ và chuẩn bị cơm chiều. Alexander còn nấn ná muốn trò chuyện với Goretti và lại nhờ Goretti vá lại chiếc áo vừa bị rách, anh chạy về phòng lấy để đưa cho Goretti làm rồi anh ra sân. Một lúc sau anh nghĩ, chỉ có mình Goretti ở nhà và đây là dịp tốt để gần cô, anh nhờ bà Axunta coi bò giúp để anh về nhà. Anh vào nhà thì thấy Goretti vẫn đang lúi húi khâu vá. Với tay cầm con dao cắt hoa quả để trên bàn, anh chỉ định dùng để dọa nếu lần này Goretti lại kháng cự. Anh gọi Goretti sang phòng anh, nhưng Goretti lưỡng lự không sang, anh liền tới nắm lấy tay cô và kéo sang. Goretti sợ hãi kêu cứu, liền đó anh đưa dao lên kề vào cổ cô mà dọa. Alexander vẫn chờ đợi sự ưng thuận của Goretti, còn Goretti một mực chống cự lại, trong lúc tức giận không kiềm chế nổi hành vi của mình anh đã đâm liên tiếp tám nhát dao vào ngực Goretti. Goretti quị xuống cố lết ra ngoài cửa, Alxender đuổi theo đâm tiếp bốn nhát dao nữa trên người Goretti rồi thất thần ném con dao đi rồi gục xuống bên Goretti.
Đúng lúc đó ông Xeren đi vào nhà chợt nhìn thấy Goretti nằm trên vũng máu liền kêu lớn tiếng để mọi người tới giúp. Tiếng Goretti rên rỉ trong đau đớn:
– Chính… chính Alexander, Lạy Chúa… con chết mất!
Mọi người chạy đi gọi bác sĩ và cảnh sát, Alexander thì bị giữ lại nhốt vào phòng chờ cảnh sát đến.
Bác sĩ đến và sơ cứu vết thương rồi vội đưa em vào bệnh viện ngay để giải phẫu. Các bác sĩ đều thất vọng vì nhiều vết thương quá sâu và máu bị chảy ra quá nhiều, khó lòng em có thể sống qua được đến ngày mai.
Sáng sớm hôm sau, cha Tuyên úy đến làm các phép cho em, em nhận ra cha, nét mặt tươi vui:
– Cha của con!
– Con yêu dấu! Con bớt đau chưa? Con ạ, đau đớn là hạnh phúc cho con, nếu con vui nhận vì Chúa.
– Vâng, thưa Cha.
Ba giờ chiều cùng ngày, đôi môi em vẫn mấp máy câu nguyện rồi bỗng nhiên em uốn người kêu lớn tiếng:
– Alexander! Không được làm thế! Sa hỏa ngục đó.
Người em lịm dần, em ngừng thở nhưng nét mặt vẫn xinh tươi như bông hoa vừa được ngắt đi.
Đúng sáng ngày 8.7.1902 thánh lễ an táng Goretti được cử hành trọng thể. Rất đông người dân trong thành kéo nhau về tham dự. Mọi người đều rất thương nhớ và cảm kích lòng dũng cảm của em.
Trên bia mộ của em được ghi hàng chữ:
MARIA GORETTI
THIẾU NỮ 12 XUÂN XANH
Sinh ngày 16.10.1890
đã tạ thế ngày 6.7.1902
Vì bảo toàn bông huệ khiết trinh
Ngày 24/4/1947 tại Đền thờ thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Piô đã phong Chân phúc cho Maria Goretti.
Ngày 24.6.1950 Chân phước Maria Goretti được vinh quang hiển thánh, thánh Trinh nữ Tử đạo.
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu hôm nay, cùng với việc giảng dạy để loan báo Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su còn “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”; không chỉ bệnh hoạn tật nguyện gây ra do thân phận của con người, nhưng còn do bởi ma quỉ, vốn luôn phá hoại tương quan tin tưởng và tình yêu giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Bởi vì, con người không chỉ sống bằng sức khỏe thể lí, nhưng còn bằng tương quan nữa, tương quan với mình, với người khác và với Chúa; con người không thể sống bình an và hạnh phúc, nếu những tương quan này bị tổn thương.
Ngoài ra, để cho sự sống này có ý nghĩa, con người còn cần có hướng đi và niềm hi vọng hướng tới cùng đích đáng ước ao và mong chờ; chính vì thế, Đức Giê-su còn quan tâm đến sứ mạng chăn dắt đối với con người nữa, vì dưới mắt Ngài, loài người chúng ta “lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”.
Như thế, Tin Mừng Nước Trời gắn liền với dấu chỉ phục vụ cho sự sống: ở đâu có Nước Trời, ở đó có sự phục vụ cho sự sống; và ở đâu có sự phục vụ cho sự sống, ở đó Nước Trời hiện diện. Đức Ki-tô đã phục vụ cho sự sống của loài người và từng người chúng ta “cho đến cùng”, nghĩa là trở thành “Bánh” nuôi dưỡng chúng ta, trở thành hiện thân của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho chúng ta; và Ngài mời gọi mỗi chúng ta đích thân đón nhận sự phục vụ của Ngài, để có thể phục vụ như Ngài. Đó chính là cách thức Đức Ki-tô loan báo Tin Mừng và làm cho Nước của Thiên Chúa Cha trị đến.
Chúng ta xin Chúa sai thợ ra gặt lúa về, chúng ta cũng được mời gọi đồng cảm với Chúa, cùng chạnh lòng thương không chỉ đối với đám đông xa xôi, nhưng đối với những anh chị em bên cạnh chúng ta. Và nhất là, chúng ta cũng tình nguyện trở thành thợ gặt của Chúa, để Chúa sai chính chúng ta đi. Và vì là mùa gặt và được sai đi gặt, chứ không phải đi xếp loại, phân loại, phân cấp, xét đoán hay lên án, chúng ta đi trong niềm vui và hi vọng.
06 27 X Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên.
(Đ) Thánh Ma-ri-a Go-ret-ti, trinh nữ, tử đạo.
St 32,22-32 (hoặc Hr 32,23-33); Mt 9,32-38.
TIN MỪNG NƯỚC TRỜI
Têrêsa Maria Goretti sinh ngày 16/10/1890 tai Corina, một làng nhỏ thuộc nước Ý. Goretti được sinh ra trong một gia đình Công giáo đạo đức, thanh cao. Ông Luygi cha của Goretti, một người cha cần cù, biết nhìn xa trông rộng mọi cảnh huống trong gia đình. Bà Axunta, một người mẹ hiền hậu, bao giờ cũng tỏ ra thương chồng và yêu các con.
Năm lên 9 tuổi, Goretti theo cha mẹ sang Phêri để sinh sống cho cuộc sống đỡ chật vật hơn. Nhưng không may, mới ở Phêri được một năm thì cha em đã qua đời vì bệnh tật. Cái chết đau thương của người cha thân yêu đã ghi sâu trong tâm trí em kể từ ngày ấy và luôn luôn cô cầu nguyện cho cha mình. Thời gian lặng lẽ trôi, anh trai, Goretti và các em sống trong tình cảnh mồ côi cha, luôn túng bấn và thiếu gạo ăn. Hằng ngày mẹ và anh phải ra đồng, còn Goretti ở nhà trông các em và cơm nước. Em thay mẹ lo mọi việc trong nhà, nên chỉ mới 12 tuôi đầu mà em đã rất đảm đang và quán xuyến. Ai nhìn em cũng phải khen em thật là xinh, khuôn mặt trái xoan, mũi cao, trán cao, tóc đen và dài, em có đôi môi đỏ và thân hình đang tuổi dậy thì.
Vì hoàn cảnh túng thiếu, nghèo khó nên từ nhỏ em đã không được đến trường học. Em không biết viết cũng không biết đọc, chỉ thuộc những kinh nguyện do mẹ dạy vào những buổi chiều hay buổi tối trước khi đi ngủ.
Mãi tới năm 12 tuổi, Goretti mới được Rước lễ lần đầu tại nhà thờ Netturo cách làng Phêri 12km. Sung sướng và hạnh phúc biết bao đã từ lâu lắm em mong ước có ngày này, được rước Chúa vào lòng. Em đã thầm cầu nguyện, xin ơn cho người cha đã qua đời, xin cho mẹ đỡ vất vả để nuôi dạy các con nên người, và nhất là em đã xin Chúa cho em có một tâm hồn trong trắng, chăm chỉ làm việc, sống đạo đức và ngoan ngoãn.
Ngay bên cạnh nhà Goretti gia đình ông Xeren, ông Xeren có cậu con trai 17 tuổi là Alexander. Mồ côi mẹ từ khi mới vừa sinh ra nên Alexander đã sống thiếu tình mẹ xa tình cha: Tâm hồn anh trống rỗng, lầm lì, thiếu văn hóa. Ông bà Luygi rất nhiều lần không nén lòng nổi kêu trách về Alexander thì ông Xeren cũng chẳng quan tâm mà dạy bảo gì. Điều đó làm cho ông bà Luygi muốn sớm đưa gia đình mình về lại Corina sống để tránh cho các con học đòi theo những thói hư của Alexander.
Rồi một chiều thứ bảy, sau khi đọc kinh xong, Goretti đang lúi húi sửa lại những bông hoa cắm trong bình và thay những cây nến mới. Alexander sang bên nhà muốn nhờ Goretti khâu lại khuy của chiếc áo sơ mi, Goretti nhận lời Alexander sang sửa giúp chiếc áo vì lòng bác ái. Anh đứng nhìn Goretti khâu áo, thì lúc này trong tâm trí anh nhận thấy Goretti là một thiếu nữ xinh đẹp hơn là thánh thiện. Anh muốn yêu cô và ước mong được sống gần cô. Không thể kiềm chế nổi mình, ngay khi Goretti vừa cất kim chỉ đi thì anh đã chạy lại ôm lấy cô và cố hôn lên đôi má bầu bĩnh của cô. Goretti thấy cử chỉ sàm sỡ của Alexander liền chống cự và đẩy anh ra. Thấy mình bị Goretti chống cự anh bỏ ra và hăm dọa nếu cô nói với ai biết chuyện này thì cô sẽ bị mất mạng.
Goretti hoảng sợ vội chạy ra vườn, trong lòng em buồn sầu và bối rối. Em mong được đi xưng tội ngay.
Mấy tháng êm đêm trôi qua, mùa hè đến. Chiều hôm đó trời như sắp có giông, bà Axunta giục con trai và cậu Alexander nhanh chóng thu lúa đang phơi ngoài bãi vào kho. Goretti ở lại cho em bé út ngủ và chuẩn bị cơm chiều. Alexander còn nấn ná muốn trò chuyện với Goretti và lại nhờ Goretti vá lại chiếc áo vừa bị rách, anh chạy về phòng lấy để đưa cho Goretti làm rồi anh ra sân. Một lúc sau anh nghĩ, chỉ có mình Goretti ở nhà và đây là dịp tốt để gần cô, anh nhờ bà Axunta coi bò giúp để anh về nhà. Anh vào nhà thì thấy Goretti vẫn đang lúi húi khâu vá. Với tay cầm con dao cắt hoa quả để trên bàn, anh chỉ định dùng để dọa nếu lần này Goretti lại kháng cự. Anh gọi Goretti sang phòng anh, nhưng Goretti lưỡng lự không sang, anh liền tới nắm lấy tay cô và kéo sang. Goretti sợ hãi kêu cứu, liền đó anh đưa dao lên kề vào cổ cô mà dọa. Alexander vẫn chờ đợi sự ưng thuận của Goretti, còn Goretti một mực chống cự lại, trong lúc tức giận không kiềm chế nổi hành vi của mình anh đã đâm liên tiếp tám nhát dao vào ngực Goretti. Goretti quị xuống cố lết ra ngoài cửa, Alxender đuổi theo đâm tiếp bốn nhát dao nữa trên người Goretti rồi thất thần ném con dao đi rồi gục xuống bên Goretti.
Đúng lúc đó ông Xeren đi vào nhà chợt nhìn thấy Goretti nằm trên vũng máu liền kêu lớn tiếng để mọi người tới giúp. Tiếng Goretti rên rỉ trong đau đớn:
– Chính… chính Alexander, Lạy Chúa… con chết mất!
Mọi người chạy đi gọi bác sĩ và cảnh sát, Alexander thì bị giữ lại nhốt vào phòng chờ cảnh sát đến.
Bác sĩ đến và sơ cứu vết thương rồi vội đưa em vào bệnh viện ngay để giải phẫu. Các bác sĩ đều thất vọng vì nhiều vết thương quá sâu và máu bị chảy ra quá nhiều, khó lòng em có thể sống qua được đến ngày mai.
Sáng sớm hôm sau, cha Tuyên úy đến làm các phép cho em, em nhận ra cha, nét mặt tươi vui:
– Cha của con!
– Con yêu dấu! Con bớt đau chưa? Con ạ, đau đớn là hạnh phúc cho con, nếu con vui nhận vì Chúa.
– Vâng, thưa Cha.
Ba giờ chiều cùng ngày, đôi môi em vẫn mấp máy câu nguyện rồi bỗng nhiên em uốn người kêu lớn tiếng:
– Alexander! Không được làm thế! Sa hỏa ngục đó.
Người em lịm dần, em ngừng thở nhưng nét mặt vẫn xinh tươi như bông hoa vừa được ngắt đi.
Đúng sáng ngày 8.7.1902 thánh lễ an táng Goretti được cử hành trọng thể. Rất đông người dân trong thành kéo nhau về tham dự. Mọi người đều rất thương nhớ và cảm kích lòng dũng cảm của em.
Trên bia mộ của em được ghi hàng chữ:
MARIA GORETTI
THIẾU NỮ 12 XUÂN XANH
Sinh ngày 16.10.1890
đã tạ thế ngày 6.7.1902
Vì bảo toàn bông huệ khiết trinh
Ngày 24/4/1947 tại Đền thờ thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Piô đã phong Chân phúc cho Maria Goretti.
Ngày 24.6.1950 Chân phước Maria Goretti được vinh quang hiển thánh, thánh Trinh nữ Tử đạo.
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu hôm nay, cùng với việc giảng dạy để loan báo Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su còn “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”; không chỉ bệnh hoạn tật nguyện gây ra do thân phận của con người, nhưng còn do bởi ma quỉ, vốn luôn phá hoại tương quan tin tưởng và tình yêu giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Bởi vì, con người không chỉ sống bằng sức khỏe thể lí, nhưng còn bằng tương quan nữa, tương quan với mình, với người khác và với Chúa; con người không thể sống bình an và hạnh phúc, nếu những tương quan này bị tổn thương.
Ngoài ra, để cho sự sống này có ý nghĩa, con người còn cần có hướng đi và niềm hi vọng hướng tới cùng đích đáng ước ao và mong chờ; chính vì thế, Đức Giê-su còn quan tâm đến sứ mạng chăn dắt đối với con người nữa, vì dưới mắt Ngài, loài người chúng ta “lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”.
Như thế, Tin Mừng Nước Trời gắn liền với dấu chỉ phục vụ cho sự sống: ở đâu có Nước Trời, ở đó có sự phục vụ cho sự sống; và ở đâu có sự phục vụ cho sự sống, ở đó Nước Trời hiện diện. Đức Ki-tô đã phục vụ cho sự sống của loài người và từng người chúng ta “cho đến cùng”, nghĩa là trở thành “Bánh” nuôi dưỡng chúng ta, trở thành hiện thân của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho chúng ta; và Ngài mời gọi mỗi chúng ta đích thân đón nhận sự phục vụ của Ngài, để có thể phục vụ như Ngài. Đó chính là cách thức Đức Ki-tô loan báo Tin Mừng và làm cho Nước của Thiên Chúa Cha trị đến.
Chúng ta xin Chúa sai thợ ra gặt lúa về, chúng ta cũng được mời gọi đồng cảm với Chúa, cùng chạnh lòng thương không chỉ đối với đám đông xa xôi, nhưng đối với những anh chị em bên cạnh chúng ta. Và nhất là, chúng ta cũng tình nguyện trở thành thợ gặt của Chúa, để Chúa sai chính chúng ta đi. Và vì là mùa gặt và được sai đi gặt, chứ không phải đi xếp loại, phân loại, phân cấp, xét đoán hay lên án, chúng ta đi trong niềm vui và hi vọng.
2021
VỮNG TIN VÀO CHÚA
05 26 X Thứ Hai Tuần XIV Thường Niên.
(Tr) Thánh An-tôn Ma-ri-a Da-ca-ri-a.
St 28,10-22a; Mt 9,18-26.
VỮNG TIN VÀO CHÚA
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tâm hồn tan nát.” (ca nhập lễ các Thánh Mục Tử). Chúa đã tuyển chọn thánh Antôn Maria Zacaria lên chức linh mục. Thánh nhân đã sống hết mình theo lời của Chúa:”…Người ấy sẽ hành động theo lòng và ý muốn của Ta” (1Sm 2, 35).
Năm 1509, Antôn Maria Zacaria mở mắt chào đời trong một gia đình đạo đức, quyền quí tại Crémone. Thánh nhân ngay từ lúc còn nhỏ đã có lòng thanh sạch, đã yêu quí đức khiết tịnh một cách cương quyết, sâu xa. Ngài cảm nghiệm Lời Chúa trong tám mối phúc thật:” Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8).
Thánh nhân có tâm hồn trong trắng, luôn hướng về Chúa và yêu thương các kẻ nghèo hèn, bần cùng đúng như Lời Chúa dậy:” Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Thánh nhân có trí thông minh sáng suốt, con đường học vấn của Người bắt đầu và đang rực rỡ huy hoàng, nhưng Người lại tuân theo ý Chúa:”…Hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo khó và đi theo Ta”.
Chính vì ý thức sâu xa Lời Chúa và có tâm hồn hướng về Chúa, muốn tận hiến cuộc đời mình cho một mình Chúa, thánh nhân đã cố gắng trau dồi kiến thức thánh: triết học, thần học và tu đức học. Với ơn Chúa giúp, với sự cố gắng, phấn đấu không mệt mỏi, thánh Antôn Maria Zacaria đã được lãnh nhận sứ vụ linh mục.
Với thánh chức, thánh nhân đã cùng với Bartôlômêô Ferrariô và Giacôbê Morigia lập tu hội triều vào năm 1533 có tên là hội thánh Phaolô và nhóm nữ tu thiên thần vào năm 1535 để cùng nhau sống tinh thần huynh đệ Tin Mừng. Với tinh thần huynh đệ Phúc Âm, thánh nhân đã chu toàn bổn phận và rao giảng, loan truyền Lời Chúa chống ảnh hưởng tai hại của bè rối Luther. Thánh nhân có tinh thần phục vụ cao vời và có một lòng yêu mến Chúa sâu xa, yêu mến Bí Tích Thánh Thể và khuyến khích nhiều người sùng kính, tôn vinh Thánh Thể Chúa.
Ngày 5 tháng 7 năm 1539 thánh nhân đã ra đi về với Chúa an bình sau nhiều tháng năm nhiệt thành với sứ vụ tại Crémone, thọ 36 tuổi. Với tuổi đời còn trẻ, còn nhiều hăng say, Chúa đã cất Ngài về để chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa mãi mãi. Thánh nhân đã về với Chúa như Lời Chúa nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền” (Ga 15, 16). Đức Thánh Cha Lêô XIII đã cất nhắc Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1807 vì lòng nhiệt thành truyền giáo và tinh thần cầu nguyện vượt bậc của Ngài.
Một trình thuật phép lạ “hai trong một”: hai phép lạ, hai tình huống cùng bộc lộ một niềm tin, hai con người (một già, một trẻ) cùng hướng về Đức Giê-su. Với ý nghĩ đơn sơ: “Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu,” người phụ nữ bị băng huyết không những sờ được áo mà còn chạm đến lòng thương xót của Ngài. Lời kêu xin đầy xác tín của người cha: “Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống” cũng đủ để “hối thúc” Chúa Giêsu đứng dậy – đi vào – cầm tay nâng cô bé chỗi dậy. Chúa Giêsu là Đấng mang lại sự sống, Ngài loan báo rằng trong Nước Thiên Chúa, sự chết phải nhường chỗ cho sự sống. Để lãnh nhận sự sống ấy, điều kiện tiên quyết là tin vào Ngài.
Tin Mừng hôm nay nằm trong một loạt hành động của Chúa Giêsu về việc loan báo Nước Trời. Ngài chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền cho người cùng khổ, nghèo hèn. Hôm nay, Ngài đến với 2 giai cấp trong xã hội, tuy họ khác nhau về đẳng cấp chức vị : một người đàn bà bệnh tật và một cô gái nhỏ, con của vị thủ lãnh trong xã hội. Nhưng cả hai đều chung một thái độ. Đó là niềm tin vào quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu sẽ cứu chữa họ. Nhờ thế, mà họ được chữa lành.
Mở đầu Tin Mừng, Thánh sử giới thiệu con người đến van xin Chúa cứu chữa con gái của ông. Đó là vị thủ lãnh. Chúng ta chú ý đến thái độ của ông ta “ bái lạy” và thưa : “ Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng , xin Ngài đến đặt tay lên cháu là nó sẽ sống”. Ông khẳng định mạnh mẽ : Nó chết rồi, nhưng Ngài đặt tay, nó sẽ sống. Cùng với hành vi bái lạy và lời xác tín của ông cho chúng ta thấy đức tin của ông mạnh mẽ dường nào. Trước thái độ nài xin của ông, Chúa Giêsu không đòi hỏi niềm tin nào hơn nữa, thánh sử viết : Ngài đứng dậy đi theo ông.
Trên đường đến nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh băng huyết. Nghĩa là máu trong người bà đã bị mất rất nhiều sau 12 năm bệnh hoạn. Chắc hẳn nhìn vào con người gầy còm, xanh xao ấy mọi người đều biết bà bị mắc bệnh và bệnh này người Do thái coi là ô uế, đối với người nào vô tình chạm vào bà hoặc bà đã đụng đến họ.
Nhưng bất chấp mọi lời đàm tiếu, những cử chỉ khinh chê của người khác, bà đã tiến đến và chạm vào áo Chúa Giêsu, và bà nghĩ : “ chỉ cần sờ vào tua áo Chúa, là được cứu” ( c. 21). Niềm tin mạnh mẽ của bà này còn vượt lên niềm tin của vị thủ lãnh kia. Vì ông ta còn yêu cầu Chúa Giêsu đến dặt tay lên con ông, còn bà này , bà chỉ cần sờ đến tua áo Chúa. Bà tin, quyền năng và tình thương Chúa không chỉ trong con người Chúa Giêsu mà còn trong cả những vật mà Giêsu chạm tới. Một hành vi đơn giản, một suy luận đơn sơ nhưng mang đậm triết lý thần học : Đấng Thánh sẽ thánh hóa mọi vật mà Ngài chạm đến. Một đức tin đơn sơ của bà đã được Chúa Giêsu chính thức khen thưởng : “ Này con cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.22).
Hành vi “sờ tua áo” lén lút của bà được Chúa tuyên dương công khai trước mặt mọi người. Ngài nhấn mạnh : lòng tin của con. Như thế chính nhờ lòng tin của bà mà bà được khỏi bệnh. Máu là biểu tượng của sự sống. Sự sống đang lần lượt ra đi khỏi con người bà, nay dừng lại. Sự sống đã trở lại và sẽ hồi sinh trong bà chỉ vì một hành vi đức tin đơn sơ của bà. Thánh sử nói tiếp : Ngay giờ ấy, bà được cứu chữa. Đức tin của bà dẫn đến hành động của Chúa Giêsu ngay tức khắc. Ngay khi bà tuyên xưng niềm tin thì ơn cứu độ đã đến với bà. Bà được cứu cả thể xác lẫn tâm hồn.
Chúa Giêsu đến nhà viên thủ lãnh thấy quang cảnh nhà ông đã bao phủ màu tang chế. Kèn trống đang thổi inh ỏi… nhưng Ngài vẫn nói : “ Con bé không chết, nó ngủ thôi !”. Mọi người chế nhạo Chúa Giêsu. Vì cho là Người ngớ ngẩn : Đứa bé đã chết và gia đình em đã chuẩn bị cho cuộc tang lễ, bộ đầu óc ông để ở đâu mà lại phát ngôn một câu nghe không có tỉnh táo. Họ chế nhạo vì sao Chúa quá khờ dại, không nhận ra những dấu hiệu tang tóc, đau thương. Nhưng Chúa không muốn họ ở lại đó, Ngài ra lệnh họ lui ra ngoài và Chúa tiến vào : “cầm lấy tay em bé, nó liền chỗi dậy”. Câu trả lời của Chúa đối với đám đông là ở đây, là thái độ “ cầm tay em bé” . Một cử chỉ thông truyền sự sống. Và đúng thật Đấng ban sự sống đã đến cầm tay và ban truyền sự sống cho em. Đây là đỉnh cao của sứ vụ Đấng Mêsia- Đấng có quyền trên sự chết và sự sống của con người. Đấng ban sự sống cho con người cũng là Đấng sẽ chỗi dậy sau cái chết, để mọi người cũng được sống lại như Ngài.
Chỉ với 7 câu, Thánh sử Matthêu đã nêu bật sứ vụ của Đấng Mêsia. Đây là cuộc chữa lành không chỉ là bệnh tật mà còn là mạng sống của con người. Chúa Giêsu đã đến để kéo sự sống ra khỏi tay ác thần. Ngài ngăn chặn những tội ác xấu xa của ma quỷ đang thống trị trên thế giới, trong con người. Ngài tỏ lộ uy quyền của Đấng Mêsia- Đấng cứu độ đến từ quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu những ai đặt tin tưởng nơi Ngài, những ai dám giao phó mạng sống họ trong tay Ngài như bà bị loạn huyết và ông thủ lãnh này.
Thế giới ngày nay đang bị ác thần thống trị khắp nơi, nhưng con người không nhận ra hoặc thậm chí không cần nhận ra điều đó. Họ sẵn sằng làm nô lệ cho đồng tiền, danh dự, vinh quang, phú quý vinh hoa giả tạo. Lương tâm của họ bị che khuất. Cảm thức về tội lỗi bị chai lỳ, không còn sức hút nhạy cảm.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: niềm tin của chúng ta cần được rèn luyện, để sau những thử thách, đức tin càng được vững mạnh hơn. Điều quan trọng là trong mọi biến cố, chúng ta luôn vững tin và tín thác vào Chúa.