2021
Tốt – xấu
23 14 X Thứ Tư Tuần XII Thường Niên.
St 15,1-12.17-18 ; Mt 7,15-20.
(Tr) Chiều: Vọng Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Bao-ti-xi-ta, lễ trọng.
Gr 1,4-10; 1Pr 1,8-12; Lc 1,5-17.
Tốt – xấu
Tin Mừng hôm nay là một phần của bài giảng về đạo lý mà Thánh sử Mat-thêu đã thâu tóm, tổng hợp lại và đặt ngay sau bài giảng Trên Núi như là những hành vi đạo đức mà một người môn đệ của Chúa Giêsu phải có. “Cây nào trái ấy” là chủ đề của đoạn Tin Mừng này và cũng là lời Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ phải cẩn trọng và chú ý.
Câu 15 mở đầu với lời cảnh báo “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả…”. Chúa Giêsu báo động là có các ngôn sứ giả. Chúng ta biết trong Cựu ước, các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa sai đến để nói Lời Chúa với dân, chẳng hạn như ngôn sứ Isaia, Jeremia…Còn đây là những người mà Chúa Giêsu nói rõ: “Họ đội lốt chiên… bên trong là sói dữ tham mồi” (c.15b). Bề ngoài trông có vẻ họ hiền lành, ngoan ngoãn, đạo đức, thánh thiện, nhưng đó chỉ là cái vỏ mà Chúa Giêsu có lần tố cáo “là những mả tô vôi”; còn lòng dạ họ như những con sói chực vồ, nuốt lấy con mồi.
Đó là những kẻ nhân danh điều tốt, sự lành mà giảng dạy điều xấu, sự ác. Những ngôn sứ giả ấy ở ngay trong lòng Giáo Hội. Trước những con người như thế, người môn đệ cần biết phân biệt đâu là thật, đâu là giả. Người môn đệ ấy không để lòng mình xuôi theo những ngụy biện giả dối.
Bằng cách nào? Chúa Giêsu nói tiếp: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai”. Vậy tiêu chuẩn để phân định là xem hành động của họ, nhìn vào cuộc sống của họ có phục vụ cho Đức Ki-tô không? Đời sống của họ có chọn con đường Thập Giá của Đức Ki-tô hay theo ý riêng, sở thích của họ.
Chúa Giêsu khẳng định rõ hơn: “Ở bụi gai, không có nho mà hái? Trên cây găng không có vả mà bẻ?” (c.16). Và Ngài kết luận: “Cây tốt sinh trái tốt và ngược lại cây xấu sinh trái xấu” (c.17). Đây là định luật tất nhiên. Bởi thế nhà nông luôn vun xới, chăm bón cho cây mình xanh tươi để đạt kết quả tốt nhất. Còn những cây mọc nơi hoang địa thiếu nước, vắng người chăm bón… thì làm sao có hoa thơm trái ngọt được.
Và Chúa Giêsu nói thêm: “Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh trái tốt” (c.18). Đối với cây cối tự nhiên là thế. Xấu, tốt của hạt giống, cây trồng không thể thay đổi được. Nhưng đối với con người tính xấu, tốt không do bản tính vì ông cha ta có câu “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Ngay từ ban đầu Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, nhưng vì lạm dụng tự do, con người đã sa ngã và phạm tội chống lại ý Thiên Chúa. Vì thế, tốt xấu là tùy thuộc vào trách nhiệm của mỗi người và có thể đổi thay.
Câu 19 như một lời quyết định trong ngày chung thẩm, cũng là ngày mà mỗi người trình diện trước ngai tòa Thiên Chúa để trả lời về những hành vi của mình: “Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quẳng vào lửa” (c.19). Lời này tiên báo về cuộc sống mai hậu và cũng là lời cảnh tỉnh mỗi người chúng ta ý thức và có trách nhiệm về sự tự do của mình. Như một cây không sinh trái tốt sẽ bị bứng rễ và quẳng vào lửa, chúng ta sẽ phải trả lời về những “nén bạc” Chúa trao mà ta đã không làm sinh lợi và còn đem chôn vùi dưới đất.
Ở đây, Thánh sử Mat-thêu không có ý nhấn mạnh về ngày phán xét chung cuộc, nhưng chỉ là một lời cảnh tỉnh những người môn đệ biết phân biệt và nhận ra những con sói trong bầy chiên: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai?” (c.20). Ý tưởng này được lập lại lần thứ 2 như một lời tóm kết về ý chính của đoạn Tin Mừng. Để ngay sau đó, Thánh sử trình bày về tính cách của người môn đệ chân chính như một cách đối lập làm nổi bật vấn đề.
Ta thấy nhiều người trong chúng ta lại có quá nhiều “hoa, lá, cành”, mà “quả” thì không có, hay có nhưng lại bị “sâu”. Tức là hăng say làm việc chỉ vì ham danh, huênh hoang, tự phụ, ích kỷ nên không thể sinh ra “quả” tốt được. Những người đó họ làm mọi việc vì thực dụng cá nhân, không vì yêu mến Chúa và tha nhân, nên họ chẳng khác gì chiếc phèng la kêu inh ỏi, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thánh Phaolô cũng khuyên dạy tín hữu thành Corintô như sau: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi” (x. 1 Cr 13,1-3). Vì thế: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi”.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải trở nên những tiên tri thật của lòng mến, chứ đừng trở nên tiên tri giả của tham sân si. Hãy trở nên con chiên hiền lành của Chúa chứ đừng trở nên sói dữ. Không được mang danh và hình ảnh của chiên, nhưng thực ra chỉ là mặt chiên, mà là dạ sói!
Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình; trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh sự đạo. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin yêu khiến chúng ta cởi mở với tha nhân, có lòng từ bi đối với những người sống trong túng thiếu và quẫn bách.
Ngày nay trong Giáo Hội chúng ta không thiếu những “con sói đội lốt chiên”. Những con sói ấy len lỏi trong hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân. Trước tiên, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội và cho chính mỗi người chúng ta, biết nhận ra tính “sói tham mồi” trong con người mình, để khiêm tốn đi theo lối đường của Đức Kitô, theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, để bớt đi những ngôn sứ giả, để danh Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang.
2021
CỬA HẸP
22 13 X Thứ Ba Tuần XII Thường Niên.
(Tr) Thánh Pau-li-nô, Giám mục Nô-la. (Đ) Thánh Gioan Phít-sơ (John Fisher), Giám mục và Thánh Tôma Mo (Thomas More), tử đạo.
St 13,2.5-18; Mt 7,6.12-14.
CỬA HẸP
“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi; nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.” Câu nói của Nguyễn Bá Học có thể giúp minh hoạ cho Lời Chúa hôm nay. Con đường bị sông núi cản ngăn chẳng khác chi con đường chật hẹp, muốn vượt qua ta phải oằn mình, lách mình hoặc tìm phương thế vượt chướng ngại vật. Đó là con đường chẳng mấy ai muốn đi vì nó đòi ta phải lao nhọc, khép mình vào kỷ luật nghiêm ngặt, mà lắm khi không thấy kết quả tức thời. Đức Giê-su dạy ta đi con đường của Ngài mới có thể đạt đến sự sống đời đời. Đó là đường khổ giá mà Chúa cũng trải qua rồi mới được vinh quang phục sinh. Ngược lại, chọn “cửa rộng và đường thênh thang” là tự mình đi vào chỗ đến diệt vong.
Cánh cửa hẹp và con đường chật mà Chúa Giêsu nói đến là con đường “từ bỏ”, “vác thập giá mình mà đi theo Chúa,” con đường Ngài đã đi và sẽ dẫn ta đến Chúa Cha, đến sự sống; thế mà ít người muốn đi con đường này. Trái lại đi trên đường thênh thang con đường ăn chơi phóng túng thì thoải mái thật, nhưng lại dẫn đến diệt vong; đường này lại có quá nhiều người muốn đi. Lời cảnh báo “khó nghe” này của Chúa vẫn có giá trị cho mọi thời đại.
Trước trào lưu hưởng thụ và tục hoá của thế giới hôm nay, việc từ bỏ “cánh cửa rộng” và “con đường thênh thang” để bước qua “cánh cửa hẹp và đi trên “con đường chật” quả là một thách thức không nhỏ đối với mỗi Kitô hữu, nhất là các bạn trẻ. Nhưng hãy biết rằng con đường “sống” thì chỉ có một mà thôi, đó là “con đường Giêsu”, con đường Chúa đã đi qua! Hãy xác định con đường ta sắp đi để có thể bước tới hay chọn con đường khác. Xem lại con đường ta đang đi sẽ dẫn ta về đâu. Đối với Chúa không khi nào là quá trễ cho ta trở lại với Ngài.
Tin Mừng hôm nay là những lời dạy của Chúa Giêsu về quy luật sống. Khi tuân thủ những điều đó sẽ đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc đời này cũng như đời sau.
Trong thực tế, con đường chật hẹp là con đường chẳng mấy ai muốn đi vì nó đòi chúng ta phải vất vả, đưa mình vào khuôn khổ kỷ, mà đôi khi không thấy kết quả tức thời. Đức Giêsu đã dạy chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài thì chúng ta mới có thể đạt đến sự sống đời đời. Đó là đường khổ giá mà Chúa cũng trải qua rồi mới được vinh quang phục sinh. Ngược lại, nếu chọn “cửa rộng và đường thênh thang” là tự mình đi vào chỗ đến diệt vong.
Nếu chấp nhận đi vào “cửa hẹp” thì chúng ta phải thực hiện: khom người lại thì chui mới lọt, nghĩa là phải hạ mình xuống, sống khiêm tốn chứ không phải tự cao tự đại; tạo cho mình nhỏ lại thì mới chui qua được, nghĩa là biết trở nên con người nhỏ bé đơn sơ; bỏ bớt hành lý cồng kềnh thì mới dễ đi qua, nghĩa là bỏ bớt những gì làm ta vướng bận và lấn át chúng ta…
Cửa rộng và cửa hẹp mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là sự tự do của con người, con người có thể chọn lựa giữa sự thiện và sự ác, giữa sự chân thật và sự giả dối… Để qua được cửa hẹp, chúng ta phải bỏ mình, kiềm chế bản thân, hy sinh, nổ lực… để có thể đưa chúng ta đến với sự sống là chính Đức Kitô. Chính Ngài cũng đã chọn cho mình con đường hẹp để đến với Chúa Cha, con đường của khổ giá đã dẫn Ngài đến vinh quang phục sinh. Và ngài cũng muốn mỗi người chúng ta đi trên con đường vinh quang ấy. Cửa hẹp là hình ảnh dùng để diễn tả những khó khăn trước mắt phải cô gắng vượt qua; rồi sau đó mới đạt được kết quả tốt đẹp.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh “cửa hẹp” và “đường chật” (Mt 7, 13-14) trong Tin Mừng hôm nay để dạy các tông đồ cần phải biết từ bỏ những ham muốn, những quyến rũ thoải mái, bất chính của bản thân mình. Thay vào đó là hãy lựa chọn những hy sinh, hãm mình, kiêng khem tiện nghi vật chất, biết từ bỏ ý riêng của bản thân, sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa, chấp nhận chương trình cứu độ bằng khổ nạn thập giá để rồi nhờ cuộc phục sinh của Đức Kitô đưa các ông đến sự sống đời đời.
Thiên đường có lối vào, nhưng không ai tới. Ý muốn nói: Sự chính nghĩa, điều đẹp đẽ, thiên hạ không màng.
Địa ngục không cửa, nhưng lại có người tìm đến. Cảnh báo: Điều xấu xa, tội lỗi thì mọi người lại thích làm.
Cũng vậy, đường dẫn tới Thiên đường thì chật, cửa vào thì hẹp; ít người đi. Ngược lại, đường đưa đến chỗ diệt vong thì rộng thênh thang, cửa vào thì rộng; nhiều người thích (Mt 7,14).
Con người ngày nay thích an nhàn hưởng thụ hơn là cố gắng hướng thiện, sống thánh; thích thỏa mãn bản năng của thân xác càng nhiều càng tốt; muốn hưởng thụ tiện nghi vật chất tối đa. Chỉ biết tôn thờ thân xác, của cải vật chất và xem thường đời sống tâm linh của chính mình…
Vô hình chung con người trở nên nô lệ cho thân xác, và vật chất; quên mất phẩm giá linh thánh của mình. Quên mất căn tính của mình là con của Đấng Tối Cao, được chung hưởng hạnh phúc, và có bổn phận phụng sự Người trong chân lý.
Con người ta đã quên nhớ con đường bên trong, con đường nội tâm mới thực sự dẫn con người trở về với con người thật của mình. Để dù muốn hay không, cũng phải nhận chân thực tại tự thân: Nhìn lại con người thật của mình với những hệ lụy đúng sai mà nhận ra thiện ác…
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hôm nay, sự thành đạt, thịnh vượng, và phát triển được coi là những tiêu chí của thành công. Phải chăng “con đường chật” phải qua “cửa hẹp” của Đức Kitô đã lỗi thời, chẳng còn ai muốn đi ?
Chúa Giêsu cho ta thấy : con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. “Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong”. Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: “Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát”. Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.
2021
ĐỪNG XÉT ĐOÁN
21 12 Tr Thứ Hai Tuần XII Thường Niên.
Thánh Lu-i Gông-da-ga, Tu sĩ, lễ nhớ.
St 12,1-9; Mt 7,1-5.
ĐỪNG XÉT ĐOÁN
Là thế tử của hầu tước Ferdinando Gonzaga xứ Castiglione miền bắc nước Ý, thánh Lu-y Gonzaga sinh năm 1668 tại lâu đài của gia đình.
Ngay từ thuở nhỏ, ngài đã ưa thích thinh lặng, khắc khổ, đạo hạnh, ngược hẳn với lối sống hào nhoáng, ồn ào và phóng đãng theo tinh thần thế tục tại các triều đình đương thời. Ngài được mẹ dạy cho biết yêu mến Chúa Giê-su chịu đóng đinh, yêu mến người nghèo, và yêu các linh hồn. Do đó, ngài siêng năng việc đạo và ước ao được đi truyền giáo.
Năm 15 tuổi, ngài xin vào Dòng Tên, nhưng bị cha tìm đủ cách ngăn cản và bóp nghẹt ơn gọi. Được gửi đến các triều đình để thụ hưởng và vui chơi, nhưng suốt hai năm ngài vẫn kiên quyết theo đuổi ơn gọi. Cuối cùng năm 17 tuổi, ngài nhường quyền thế tử cho người em trai, từ bỏ nếp sống đế vương, vào nhà tập Rô-ma, để trở thành người bạn đường khiêm tốn của Chúa Giê-su.
Ngài hạnh phúc với cuộc sống đơn giản, nhỏ bé, thiếu thốn để trải qua thời kỳ nhà tập, triết học rồi thần học. Tuy nhiên, năm 1591, một cơn dịch từ vùng quê lan tràn vào thành phố Rô-ma. Ngài tự nguyện đi cứu trợ các nạn nhân và bị lây. Sau 3 tháng chịu cơn dịch hành hạ, ngài qua đời ngày 21.6 năm ấy, khi mới được 23 tuổi. Ngài được đức thánh cha Benedicto XIII phong thánh năm 1726, và 3 năm sau được đặt làm bổn mạng thanh niên công giáo, đặc biệt là sinh viên.
Trích thư thánh Lu-y Gonzaga gửi cho mẹ
“Thưa mẹ, con cầu xin cho mẹ hằng được Thánh Thần ban ơn và an ủi. Dĩ nhiên khi nhận được thư mẹ thì con đang sống ở đời này. Nhưng ngay từ bây giờ cũng phải hướng về trời rồi, để ngay khi còn sống trên mặt đất, ta cũng đã ca tụng Chúa muôn đời.
Đã từ lâu, con hằng ao ước được làm cuộc hành trình với Chúa sớm hơn. Nếu như lời thánh Phaolo nói: “phải khóc với kẻ khóc, vui với người vui”, thì mẹ phải lấy làm vui mừng hoàn toàn khi Chúa vì tốt lành và thương mẹ mà tỏ cho con được thấy hạnh phúc chân thật và chắc chắn không bao giờ sợ mất nữa”.
Tin Mừng hôm nay khởi sự những câu ở phần đầu chương 7: Đừng xét đoán. Lời nhắn nhủ này này nhấn mạnh về lời nói nhiều hơn hành động. “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán”. Ngay câu mở đầu, thánh sử Matthêu đã nêu bật nguyên nhân dẫn đến việc chúng ta bị xét đoán là do chúng ta đã xét đoán. Chúng ta dễ nói lên ý kiến, nhận định chủ quan về người khác, mặc dù chúng ta chẳng có trách nhiệm để làm việc đó. Nhất là khi chúng ta có ảo tưởng cho rằng mình đạo đức hơn người, có khả năng hơn người, có quyền hơn người… là chúng ta dễ dàng phê phán không thương tiếc. Thậm chí có người nói cản. Nói bừa để tỏ ra ta đây hiểu biết lề luật, nắm vững đường lối… mà châm chọc, chê bai người khác. Đôi khi có người cũng cho rằng: đó là vì tinh thần bác ái, muốn người khác nên tốt nhưng sợ không dám nói thẳng. Về nhận xét của mình…mà sẵn sàng rêu rao cho mọi người biết về những sai lầm, khiếm khuyết của người khác… để đề cao mình hơn.
Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Vì anh em xét đoán thế nào thì…cũng sẽ bị xét đoán như vậy….Đong đấu nào…sẽ được đong bằng đấu ấy” (c.2). Ngài khẳng định về cách đối xử của chúng ta với anh em đồng loại sẽ được trả lời trong ngày sau hết, tại có khi sẽ xảy ra ngay tại đời này. Vì sự “đạo đức nửa vời” của chúng ta mà chúng ta tự lên mặt dạy dỗ người khác.
Đây là thái độ tự mãn, tự cao, tự đại. Nó đối nghịch với nhân đức, hiền lành, khiêm nhường. Nhịn nhục. Chúa Giêsu đề cao cảnh giác về chuyện này. Ngài không cấm chúng ta có những nhận xét khách quan, những nhận xét phân biệt phải trái, sai quấy. Nhưng khi chúng ta kết tội và lên án lương tâm người anh em, là chúng ta xâm phạm lãnh vực dành riêng cho Thiên Chúa. Trong đời sống cộng đồng, điều này dễ xảy ra khi chúng ta có một chút gì hơn anh chị em mình: chức tước trong giáo xứ, danh dự trong khu xóm… lúc ấy chúng ta dễ dàng lên “bài giảng” với những bài “đạo đức nửa mùa” theo chủ quan của chúng ta. Chúng ta tự coi mình là “cái rốn vũ trụ” và cho rằng và mọi lời nói và việc làm của chúng ta là hợp lý. Là phải đạo.
Trong (c.3 và c. 4) Chúa Giêsu nhắc chúng ta về thận phận của chính mình tại sao chúng ta quá chú tâm đến “ cọng rơm trong mắt của người anh em mà quên đi mình đang vác một cái xà”. Cái xà ấy đã che phủ con mắt đức tin của chúng ta, và chúng ta chỉ còn soi mói cái xấu của người anh em mà không biết là: người khi lên án, xét đoán người khác là chính chúng ta đang tự lên án, kết tội mình. Ở đây, Chúa Giêsu nhắc chúng ta phải dè dặt khi xét đoán người khác. Hãy nhớ lại thân phận bụi tro của mình cũng dầy những khuyết điểm tội lỗi… mà bao dung tha thứ những lỗi lầm của người anh em. Có thế, chúng ta mới đấm ngực ăn năn thú nhận và không lên mặt hợm hĩnh khi góp ý xây dựng người anh em, không coi thường, khinh khi người khác mà biết đón nhận nhau trong đức ái.
Trong câu cuối cùng, Chúa Giêsu gợi những kẻ xét đoán người khác là: Đạo đức giả Ngài ra lệnh: chúng ta hãy lấy cái xà ra trước, rồi thấy rõ mà lấy cọng rơm cho người anh em ( c.5). Nghĩa là chúng ta phải thực hành điều mình hiểu và điều mình nói, thì mới xây dựng người khác trên con đường nhân đức được.
Đoán xét là hành vi dẫn đến những kết luận được rút ra từ sự ước lượng phỏng chừng. Cho nên, kết quả của nó không thể luôn luôn và hoàn toàn chính xác. Hơn nữa, trong khi đoán xét, chúng ta hay gặp những yếu tố có thể chi phối trí óc chúng ta như chủ quan, nông nổi, có thể dẫn đến những sai lầm tai hại.
Chúa Giêsu dạy rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Đây là một lệnh truyền và lệnh truyền này còn có nghĩa là “đừng bao giờ đoán xét không tốt cho người khác”. Việc đoán xét này là công việc của Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự, nên không ai được thay thế cho Thiên Chúa, vì chúng ta chỉ là phàm nhân.
Do vậy, Chúa Giêsu đã khiển trách: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi” (Mt 7,3-4).
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết nắm lấy hạnh phúc thật để không bao giờ tùy tiện đoán xét ai, dù chỉ là những đoán xét trong tư tưởng mình. Và nếu trong cuộc sống, khi trách nhiệm buộc chúng ta phải làm nhiệm vụ xét xử thì hãy nhớ rằng, việc đoán xét này cần được thể hiện bằng sự khoan hồng và yêu thương của Chúa.
2021
TÍN THÁC VÀO CHÚA
19 10 X Thứ Bảy Tuần XI Thường Niên.
(Tr) Thánh Rô-mu-an-đô, viện phụ.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
2Cr 12,1-10; Mt 6,24-34.
TÍN THÁC VÀO CHÚA
Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên. Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta. Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ.
Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó. Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta. Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.
Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài. Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động. Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa. Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.
Tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta. Đây là bằng chứng: ngày từ đầu Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương ai không làm việc thì không có quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cứ làm việc bình thường, đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng say làm việc trong hiện tại và đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay đang sống trong một sự khắc khoải lo sợ. Đúng vậy, người ta lo sợ trước bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Người ta lo sợ trước chiến tranh và vũ khí nguyên tử. Người ta lo sợ trước những điều rủi ro làm mất tiền, mất tình và mất hạnh phúc. Cuộc sống như trở nên bấp bênh vô định. Khắp nơi đều có những đe doạ, những hiểm nguy. Người ta dùng tới mọi phương tiện miễn sao tìm thấy được một sự bảo đảm an toàn. Từ những phương tiện chính đáng như các công ty bảo hiểm đến những phương tiện kỳ cục và vô lý chẳng hạn như bói toán và kiêng cữ.
Ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?”. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta “trước hết hãy tìm” nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. “Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài”, lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Lo lắng chủ yếu là không tín thác vào Chúa. Sự không tín thác như thế có thể hiểu được nơi người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần linh ganh tị, thất thường, không thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được nơi một người đã học gọi Thiên Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, chúng ta mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta. Và chúng ta có thể sống đời sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.
Tin vào Chúa quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư tưởng:”Trời sinh voi, trời sinh cỏ” rồi “ngồi há miệng chờ sung rụng”. Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ động, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp.
Nếu Chúa Giêsu nói:”Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào Chúa quan phòng” thì tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nói điều ngược lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh truyền:”Hãy thống trị đất và bắt nó pục tùng”.
Thật ra, Chúa Giêsu khẳng định:”Vì thợ đáng được nuôi ăn”(Mt 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như thánh Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận (Mt 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài”.
Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6: 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6: 31-33) và về ngày mai (6: 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Hẳng ta còn nhớ cô Mác-ta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Ma-ri-a ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Ma-ri-a chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy để cho Chúa lo cho bạn ngày mai còn ngày hôm nay hãy sống hết mình với giây phút hiện tại. Hiện tại có khó khăn nhưng “sau đêm dài là ánh bình minh”. Hiện tại là bóng đêm nhưng bình minh sẽ ló rạng để phá tan đêm tối. Chúa bảo rằng: “chim trời chúng con gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội chúng không làm lụng thế mà vẫn xinh tươi rực rỡ”. Là con cái của Chúa, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta phải thua thiệt. Chúa sẽ chăm sóc cuộc đời chúng ta như người cha người mẹ lo cho con cái. Chúa sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.