2020
Giáo xứ là gia đình của Chúa
2020
Giáo xứ đồng hành với giới trẻ đến gặp gỡ Đức Kitô
Trong một lần đến nhà thờ tham dự thánh lễ chiều Chúa nhật, một khách du lịch hỏi cha xứ, nhà thờ rộng và chứa được nhiều người quá, có đông tín hữu đến dâng lễ, nhưng tại sao chỉ toàn người lớn tuổi, còn người trẻ ít quá vậy? Câu hỏi làm cha xứ giật mình, và quả thật tuy rất đông người đến dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng trong số đông đó các bạn trẻ chiếm một số quá ít ỏi, khoảng chừng 10%! Phải chăng đây là hiện tượng chung mà các giáo xứ tại Việt Nam đang đối diện: Hiện tượng các bạn trẻ ngày càng thờ ơ với đời sống đức tin của mình và chỉ cố gắng hết sức để giữ luật đi dâng lễ ngày Chúa nhật cho yên lương tâm? Đứng trước hiện tượng này, các vị mục tử đang tự hỏi: Phải làm gì đây? Đức Phanxicô trong Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống” đã đưa ra gợi ý: “Đối với rất nhiều người trẻ, những từ‘Thiên Chúa’, ‘tôn giáo’ và ‘Giáo hội’ dường như không có ý nghĩa gì, nhưng họ lại bị đánh động bởi nhân vật Giêsu, khi họ được nghe giới thiệu cách hấp dẫn và thiết thực về Người. Vì thế, điều cần thiết là Hội Thánh đừng quá bận tâm về mình, nhưng trước hết phải phản ánh Đức Giêsu Kitô. Điều này đòi hỏi Hội Thánh khiêm tốn nhìn nhận rằng có một số điểm cụ thể phải được thay đổi, và để làm điều đó thì Hội Thánh phải trân trọng quan điểm và cả những phê bình của người trẻ… vai trò thụ động dành cho giới trẻ trong cộng đồng Kitô hữu; các khó khăn mà Hội Thánh thường gặp khi phải giải thích cách hợp lý cho xã hội đương thời về các lập trường tín lý và đạo đức của mình”[1].
1- Các bạn trẻ đang khao khát gặp gỡ Chúa Kitô?
Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra một nhận định tương đối bi quan về thái độ ứng xử của đại đa số bạn trẻ về lối sống trong thời đại hiện nay: “Hiện tượng di dân vừa đem lại những hiệu quả tích cực vừa gây nhiều hệ lụy tiêu cực trong đời sống gia đình và xã hội. Thế giới kỹ thuật số vừa là một phương thế rất hữu hiệu cho việc truyền thông và thiết lập các mối tương quan, nhưng cũng là nguyên nhân gây nên nhiều tác hại cho bản thân người trẻ. Ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và trào lưu hưởng thụ đã làm cho nhiều người trẻ lạc hướng và rơi vào lối sống buông thả, sống ảo, sống vội, sống dửng dưng vô cảm và vô trách nhiệm. Một số khác lại lún sâu vào những cám dỗ của thời đại như nghiện ngập, buôn bán ma túy, hôn nhân thử, đồng tính, phá thai. Bạo lực ngày càng gia tăng với mức độ nguy hiểm nghiêm trọng”[2]. Tại sao được hưởng một nền văn minh với những tiện nghi do sự phát triển tột bậc của khoa học kỹ thuật mang lại, các bạn trẻ lại rơi vào một lối sống xem ra như đang đánh mất chính mình, đi ngược lại với kỳ vọng mà nền văn minh đem lại?
Có thể nói được rằng, các bạn trẻ ban đầu xem ra háo hức với những tiện nghi hiện đại mang lại, cuộc sống xem ra thoải mái hơn, thế nhưng tận cùng của những tiện nghi đó cũng chỉ mang lại niềm vui nhất thời không đáp ứng được sự khao khát tận đáy lòng của các bạn trẻ, “bởi lẽ trong một xã hội, người trẻ luôn là sức mạnh nội lực, là sự sống còn của cả dân tộc, họ phải lèo lái, dẫn dắt con thuyền dân tộc tiến vào tương lai trong sự thành đạt và tiến bộ của nhân loại. Mặt khác, người trẻ luôn là cầu nối giữa quá khứ của dân tộc với tương lai của thế giới; là nơi lưu dấu và cất giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc để chuyển trao cho lớp thế hệ trẻ mai sau”[3]
Quả thật, cho dẫu sống giữa một xã hội đang đề cao chủ nghĩa hưởng thụ, phần đông các bạn trẻ vẫn canh cánh bên lòng về niềm khát vọng được thể hiện “cái tôi” vượt ra ngoài những định kiến, lề thói và truyền thống của gia đình, của xã hội. Nhà báo Ánh Dương đã đưa ra nhận định: “Khác với thế hệ trước, những người trẻ ngày nay không làm theo những gì xã hội muốn, họ theo đuổi điều bản thân cho là đúng chứ không bó buộc bản thân trong bất kỳ định kiến nào. Dám làm, dám dấn thân, dám phá bỏ giới hạn, và cứ như vậy một thế hệ làm-điều-không-thể ra đời. Những người trẻ có cái tôi khác biệt, thấu hiểu bản thân và biết tận dụng sức mạnh của chính mình trên con đường tìm tới thành công. Chính sự quyết liệt đó, thế hệ làm-điều-không-thể tạo ra nhiều thay đổi lớn, biến những điều không thể thành có thể”[4].
Thiết nghĩ đó cũng chính là nỗi khao khát của các bạn trẻ Công giáo, muốn thể hiện “cái tôi của con người đương đại” trong các sinh hoạt liên quan đến đức tin. Vâng, các bạn trẻ Công giáo đương đại đang mong muốn điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là muốn “xuất thần”, có nghĩa là muốn “ra khỏi chính mình để nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người, phẩm giá của họ, sự vĩ đại của họ trong tư cách như là hình ảnh của Thiên Chúa và người con của Cha trên trời”[5]. Thế nhưng đâu là nền tảng cho ước mong “xuất thần” này? Nhiều bạn trẻ đã nỗ lực đi tìm một con đường để thoả mãn cho khát vọng này, con đường đi tìm cái đẹp, bởi nói như nhà văn Nga Dostoevsky: “Thế giới sẽ được vẻ đẹp cứu rỗi”[6]. Thế nhưng đâu là cái đẹp để mang lại sự cứu rỗi? Hầu như các bạn trẻ mới chỉ dừng lại ở con đường đi tìm cái đẹp nơi thân xác, mặc dầu vẫn biết rằng nét đẹp nơi thân xác cũng là vẻ đẹp phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên Nhà thần học Evdokimov viết: “Không chỉ mình Thiên Chúa mặc lấy vẻ đẹp, ác thần cũng bắt chước Ngài, làm cho vẻ đẹp trở thành hàm hồ”[7], và vì vậy khi đi tìm cái đẹp để mong đem lại ý nghĩa đích thật cho cuộc sống, các bạn trẻ thường rơi vào cạm bẫy vẻ đẹp do ác thần mang lại, để rồi thay vì để cái đẹp giải thoát, các bạn trẻ lại bị sa đọa vì cái đẹp.
Thật ra, tự thẳm sâu các bạn trẻ vẫn khao khát một con đường tìm gặp cái đẹp đích thật, vì chỉ có cái đẹp đó mới có thể làm no lòng thoả dạ của tuổi trẻ. Đâu là con đường dẫn tới cái đẹp đó? Thưa đó chính là con đường Giêsu. Quả thật chỉ có Đức Kitô mới có thể làm cho các bạn trẻ tìm thấy được cái đẹp mang lại sự cứu rỗi, bởi nói như thánh Augustinô: “Khi làm người, một cách nào đó Ngài mặc lấy sự dơ bẩn, nghĩa là mang lấy bản tính phải chết, để đứng vào hàng ngũ con người, trở nên giống con người, để giúp bạn yêu vẻ đẹp bên trong. Người không còn dáng vẻ oai phong, để ban cho chúng ta dáng vẻ oai phong”[8]. Vì thế, có thể nói, mặc dầu đối diện với muôn vàn nẻo đường mà thế trần đang tạo ra với bao nhiêu sự hấp dẫn, các bạn trẻ vẫn khao khát một con đường dẫn tới niềm vui đích thật, hay nói cách khác các bạn đang nỗ lực để làm sao gặp được con người Giêsu, con người dẫn tới “sự xuất thần” để gặp một vẻ đẹp đích thật.
2- Giáo xứ giúp bạn trẻ gặp được con người Giêsu
Ở nơi đâu có thể giúp các bạn trẻ tìm thấy được con đường Giêsu để tìm thấy cái đẹp mang lại ơn cứu rỗi? Giáo Hội, vâng Giáo Hội là không gian trình bày con đường Giêsu một cách sống động và hiện thực, bởi Giáo Hội là một cộng đoàn được Chúa quy tụ để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, được biểu tỏ nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Nơi con người của Chúa Giêsu chứa đựng vừa ân sủng Tạo Hóa (chính Thiên Chúa), vừa ân sủng thụ tạo cao cả (thực tại Ngôi Hiệp)[9], vì thế Giáo Hội có trách nhiệm chỉ cho các bạn trẻ biết thực tại vẻ đẹp đích thật nằm ngay chính trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội đó được cụ thể hoá trong hoàn cảnh địa phương được gọi là giáo xứ.
Giáo xứ được Đức Phanxicô gọi là “nhà”, nơi đó các bạn trẻ tìm thấy trước hết con đường dẫn tới gặp Đức Kitô chính là “tình của các thành viên sống trong một mái nhà”, được gọi là “tình gia đình”. Thật vậy, vẻ đẹp của Thiên Chúa được mạc khải cho con người được tỏ bày qua “tình gia đình”, Con Thiên Chúa đến làm con trong một gia đình nhân loại, gia đình Nazareth. Chính từ nơi gia đình này, Người đã mạc khải cho con người về vẻ đẹp của lòng hiếu thảo, một vẻ đẹp mà cha ông Việt Nam đã cảm nhận và đã biểu tỏ trong những lời khuyên dạy con cái:
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Nét đẹp đó chỉ tròn đầy khi Đức Kitô xuất hiện và chỉ cho biết thế nào là hiếu thảo. Thánh Phaolô trong Thư gởi tín hữu Philipphê đã diễn tả:
“Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8)
Đó là vẻ đẹp rạng ngời của lòng thảo hiếu, Chúa Cha cũng đã minh định điều đó: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17). Vẻ đẹp của lòng hiếu thảo không chỉ dành cho Cha trên trời, nhưng còn được Đức Kitô làm cho rạng rỡ thêm khi Người cũng thể hiện tâm tình hiếu thảo với cha mẹ dưới đất: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51). Đây chính là vẻ đẹp mà hơn bao giờ hết cần phải làm cho giới trẻ khát khao. Bởi vẻ đẹp của lòng thảo hiếu chỉ ra rằng, con người không tự bởi mình mà hiện hữu, nhưng có cội nguồn, để thấy được rằng cuộc sống chỉ có thể có được trong mối dây liên kết và từ mối dây này mỗi người ý thức về trách nhiệm cộng đồng, loại trừ tính ích kỷ cao ngạo, sự dửng dưng vô cảm.
Vẻ đẹp này được tìm thấy trọn vẹn nơi đời sống giáo xứ, bởi giáo xứ là một cộng đoàn được Chúa quy tụ nối kết với nhau để trở nên một cộng đoàn yêu thương. Có nghĩa là sự hiệp thông trong cùng một đức tin dẫn đưa người tín hữu tới sự hiệp thông với Thiên Chúa tình yêu, qua đó, mọi người tín hữu trong giáo xứ được liên kết với nhau bằng mối dây đức ái Kitô giáo. Và từ sự hiệp thông này, các bạn trẻ sẽ được gặp Đức Kitô, Đấng sẽ thiết lập một sự kết nối với những kẻ đến với Người bằng tình bằng hữu, chính Người đã khẳng định: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ…. Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15, 15), và qua tình bạn này, các bạn trẻ “sẽ học được biết cởi mở, hiểu biết, quan tâm đến người khác, đi ra khỏi cuộc sống thoải mái tiện nghi và cô lập của chính mình, chia sẻ đời sống mình với người khác”[10]. Thật vậy, sống trong một xã hội đầy nghi nan, các bạn trẻ luôn đối diện với nỗi băn khoăn: Ở nơi đâu có thể tìm được sự tin cậy để có thể thổ lộ, sẻ chia, và đồng cảm? Nỗi trăn trở đó chỉ có thể tìm được sự thoả mãn nơi tình bạn với Đức Kitô, vì chỉ có Người mới kết nối được tình bạn “bất khả phân ly”, một tình bạn trung tín và không bao giờ bỏ rơi người bạn của Người[11]. Quả thật nơi Đức Kitô các bạn trẻ sẽ học hỏi được nơi Người cách thế kiến tạo mối tương giao tốt đẹp với mọi người, và biết cách làm cho sức sống của tươi trẻ lan toả ra đến môi trường mình sống, chỉ dẫn các bạn trẻ “đốt lên một ngọn nến tin yêu trong cuộc sống hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối của nghi nan”, Người đã khích lệ: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6,38).
Nơi cộng đoàn giáo xứ các bạn trẻ sẽ còn tìm thấy những vẻ đẹp được ẩn mình trong các mối tương giao giữa người với người. Thật vậy, giáo xứ là một cộng đoàn hiệp thông bắt nguồn từ sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự hiệp thông nơi giáo xứ khởi sự được thực hiện nhờ Bí tích Thánh tẩy, qua đó mọi Kitô hữu được tái sinh làm con Thiên Chúa, vì thế tất cả được liên kết với nhau trong cùng một đức tin, cùng dự phần vào sản nghiệp mà Đức Kitô đã sắm sẵn qua cái Chết và sự Phục sinh của Người. Kế đến, nhờ bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu thực sự được dự phần vào Thân Thể Chúa Kitô khi bẻ bánh Thánh Thể, “vì bánh chỉ là một, nên tuy nhiều, tất cả chúng ta, những người cùng chia sẻ một bánh, chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Bằng cách đó, tất cả chúng ta trở nên chi thể trong Thân Thể Người, “còn ai tùy phận nấy mà thành chi thể cho nhau” (Rm 12,5) (LG 7).
Trong ngôi nhà giáo xứ, Chúa Thánh Thần hoạt động không ngừng nhằm hợp nhất và quy tụ mọi tín hữu lại với nhau để trở nên một cộng đoàn yêu thương. Ở ngôi nhà này tất cả tín hữu hợp nhất với nhau thành một gia đình của Chúa, nơi đó các bạn trẻ khám phá một vẻ đẹp của sự hiệp thông, mọi người không ai là xa lạ, tất cả là anh chị em với nhau, có cùng một sứ vụ đó là loan báo Tin Mừng Chúa Kitô đến cho mọi người. Và chính trong sự hiệp thông này, các bạn trẻ được mời gọi tham gia vào các sinh hoạt mục vụ của giáo xứ để làm cho vẻ đẹp của Giáo Hội càng trở nên rạng ngời có sức thu phục nhiều bạn trẻ quan tâm tới Giáo Hội.
Quả thật chính trong ngôi nhà giáo xứ các bạn trẻ kín múc được nguồn cảm hứng từ cuộc đời của Chúa Giêsu, qua việc các bạn trẻ được hướng dẫn để lớn lên trong mối tương quan với Chúa Cha, “với ý thức thuộc về một gia đình và một cộng đồng, trong việc mở lòng ra để được tràn đầy Thánh Thần và được hướng dẫn thi hành sứ mạng mà Thiên Chúa ủy thác, là ơn gọi riêng của mình”[12].
3- Thực trạng hôm nay: Giáo xứ vắng bóng giới trẻ
Cộng đoàn giáo xứ đang đối diện với một thực tại đáng buồn, hầu như các bạn trẻ đang xa dần với mái nhà giáo xứ, và đang định hướng sai lầm về khát vọng của chính mình. Cho dẫu vẫn nuôi trong mình khát vọng bay xa, ra khỏi những định chế, truyền thống “bảo thủ” để tìm cái mới lạ, nhưng khát vọng đó đang bị chao đảo bởi kẻ thù của thiện mỹ gây ra. Và nói như Đức Giáo hoàng Phanxicô, não trạng của giới trẻ hiện nay đã hoàn toàn thay đổi, và sự thay đổi đó đã được “khởi động bởi những tiến bộ khổng lồ, mau chóng, được tích luỹ về phẩm và lượng trong các ngành khoa học kỹ thuật, được đem áp dụng ngay vào các lãnh vực khác nhau của tự nhiên và đời sống. Chúng ta đang ở một thời đại giàu trí thức và thông tin, dẫn tới các hình thức quyền lực mới, thường không được gọi tên”[13], từ đó đưa tới những hậu quả:
- a) Nghi ngờ những thực tại đức tin:
Giới trẻ ngày nay hầu như không còn coi những thực tại đức tin là cứu cánh của cuộc sống, chỉ còn coi những thực tại trần gian là cùng đích. Thiên Chúa là một khái niệm ngày càng trở nên xa lạ, và khoa học thực nghiệm mới là cái đáng kể để cho giới trẻ quan tâm. “Công nghệ chính là lý do thay đổi lớn trong tư duy của thế hệ trẻ hiện nay. Công nghệ trở thành công cụ giúp những người trẻ vượt qua mọi giới hạn, sống đúng với chất riêng theo cách mình muốn, sở hữu cái ‘tôi’ không hòa lẫn và mang những mảng màu riêng biệt. Giới trẻ biết cách để cả thế giới phải chú ý đến mình, phải quan tâm đến những gì họ làm, những gì họ thể hiện và cả những thông điệp họ muốn truyền đạt tới thế giới bên ngoài”[14]. Vì thế, những thực tại đức tin được coi như là cái gì mơ hồ, không đáp ứng được những khát vọng hiện tại, một khát vọng mong muốn được bay xa với những tư duy sáng tạo làm biến đổi cuộc sống, biến đổi thế giới. Do đó họ không còn lấy đức tin làm nền tảng cho sự sáng tạo, đối với họ chỉ có công nghệ hiện tại mới là công cụ đáng tin cậy để thể hiện bản thân, thực hiện được niềm ước mơ. Và vì vậy cộng đoàn giáo xứ được coi là không gian chật hẹp, bị giới hạn vào trong những sinh hoạt thuần tuý tôn giáo, gò bó trong những giáo điều và nhiều khi đánh mất đi khả năng sáng tạo, chỉ còn là một sự lệ thuộc vào một hệ thống tín điều không còn chỗ cho những hoạt động đem lại những trải nghiệm cho cuộc sống như: Du lịch, những môn thể thao mang tính mạo hiểm, đi “phượt”, v.v… Giáo xứ không là không gian để cho họ thoả mãn ước mơ. Quả thật, các bạn trẻ đang rơi vào cạm bẫy của “nền văn hoá đang thịnh hành, thế thượng phong được dành cho cái bề ngoài, cái trực tiếp, cái có thể thấy được, cái nhanh, cái phù phiếm và cái tạm bợ. Cái thật nhường chỗ cho cái ảo”[15].
- b) Hiểu sai về Giáo Hội:
Các bạn trẻ nhìn Giáo Hội như là một tổ chức mang tính xã hội hơn là một cấu trúc được Chúa thiết lập. Công đồng Vaticanô II đã định nghĩa về Giáo hội: “Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Giáo Hội thánh thiện của Người nơi trần gian, một cộng đoàn đầy niềm tin, cậy, mến, như một cơ cấu hữu hình, nhờ đó Người thông truyền chân lý và ân sủng cho mọi người. Nhưng Giáo Hội vừa là cộng đồng được tổ chức theo cơ chế phẩm trật, vừa là Nhiệm Thể Đức Kitô, là đoàn thể hữu hình và cũng là cộng đoàn thiêng liêng, là Giáo Hội tại thế đồng thời cũng là Giáo Hội dư tràn của cải trên trời, dù vậy, không được nhìn Giáo Hội như hai thực thể, nhưng đúng hơn, tất cả chỉ làm nên một thực tại đa phức, được kết thành từ yếu tố nhân loại và thần linh” (LG số 8). Như vậy, Giáo Hội không đơn thuần là một tổ chức trần thế, vì Giáo Hội không do người thế thiết lập. Giáo Hội được hình thành từ sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, nên Giáo Hội còn mang đặc tính thần linh. Và Giáo Hội hiện hữu để thực thi chương trình cứu độ con người của Thiên Chúa, chứ không phải để làm theo ý của con người.
Vì ảnh hưởng trào lưu tục hoá, và đề cao tự do cá nhân nên các bạn trẻ nhìn Giáo Hội như một công cụ phục vụ cho tham vọng của mình, bởi đó tư duy của bạn trẻ luôn mang tính thực dụng: Giáo Hội sẽ mang lại cho tôi những lợi lộc nào? Giáo Hội sẽ cho tôi được những gì trong cuộc sống này? Vâng, cuộc sống thế trần vẫn là ưu tiên hàng đầu, để rồi bạn trẻ cũng thường đặt cho Giáo Hội câu hỏi mà Phêrô đã hỏi Chúa hôm xưa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? (Mt 17, 27)
4- Giáo xứ nỗ lực đồng hành với nỗi khao khát của giới trẻ
Giáo xứ vẫn luôn ý thức về sự hiện diện của mình, là một cộng đoàn được Chúa quy tụ hầu đem phần rỗi đến cho muôn người. Giới trẻ đóng một vai trò quan trọng trong việc làm cho sứ vụ của Giáo Hội được thực thi cách hoàn hảo, nói như Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Công cuộc loan báo Tin Mừng cho thế giới vào những thập kỷ tương lai tuỳ thuộc vào các bạn. Các bạn hãy làm cho Giáo Hội tươi trẻ nhờ sự hiện diện thân thiện của các bạn”[16]. Vì thế, hơn bao giờ hết, giáo xứ phải ra sức canh tân sao để giáo xứ thực sự là “nhà ”, nơi tràn ngập tình yêu của một mái ấm gia đình, ở đó các bạn trẻ tìm thấy một sự đồng hành trên con đường tìm kiếm chân thiện mỹ, và phải hướng dẫn cho các bạn trẻ nhận ra giáo xứ là “tổ ấm” giúp các bạn khám phá ra vẻ đẹp đích thực, chứ không là nơi dừng chân tạm bợ để các bạn trẻ vận động tìm đồng minh cho tham vọng của mình. Hãy cho các bạn trẻ hiểu giáo xứ là cộng đoàn được Chúa quy tụ để sống yêu thương và tỏ bày tình yêu thương đến cho mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ, bất hạnh, chứ không là nơi chuyên tổ chức quyên góp và làm việc từ thiện.
- a) Chỉ dẫn đến với Đức Kitô để học cách yêu thương:
“Đối với rất nhiều người trẻ, những từ ‘Thiên Chúa’, ‘tôn giáo’ và ‘Giáo hội’ dường như không có ý nghĩa gì, nhưng họ lại bị đánh động bởi nhân vật Giêsu, khi họ được nghe giới thiệu cách hấp dẫn và thiết thực về Người. Vì thế, điều cần thiết là Hội Thánh đừng quá bận tâm về mình, nhưng trước hết phải phản ánh Đức Giêsu Kitô. Điều này đòi hỏi Hội Thánh khiêm tốn nhìn nhận rằng có một số điểm cụ thể phải được thay đổi, và để làm điều đó thì Hội Thánh phải trân trọng quan điểm và cả những phê bình của người trẻ”[17].
Giáo hội hiểu thấu nỗi khao khát của các bạn trẻ, vì vậy Giáo xứ như “tổ ấm yêu thương”, sẽ giới thiệu đến các bạn trẻ vẻ đẹp toàn thiện nơi con người Giêsu. Người là một chàng trai trẻ tràn đầy sức sống và yêu thương. Nét đẹp nơi con người Giêsu chính là sức sống bắt nguồn từ một tình yêu mãnh liệt. Người mang đến cho nhân loại “tình yêu hứa ban sự vô hạn, vĩnh cửu – sự cao cả và hoàn toàn khác với thực trạng hằng ngày của chúng ta. Đồng thời cũng cho thấy, con đường để đạt đến đó không phải chỉ đơn thuần là tùng phục bản năng”[18]. Quả thật, Đức Kitô, tình yêu hạ cố của Thiên Chúa, sẽ chỉ cho biết sự lệch lạc của giới trẻ hiện nay khi nói về tình yêu được hiểu đơn thuần là tình dục, “Eros (tình ái) bị hạ giá xuống thành sex (tình dục), trở thành hàng hóa, thành ‘vật phẩm’; người ta có thể mua hay bán nó, thật vậy, chính con người cũng trở thành hàng hoá”[19]. Nếu tình yêu chỉ là tình dục, tình yêu đó không thể vẽ nên vẻ đẹp của con người bao gồm hai đặc tính: thần linh – chất thể, hồn – xác. Chúa Kitô sẽ hướng dẫn các bạn trẻ nhận ra rằng: Việc tôn vinh giả tạo thân xác có thể mau chóng trở thành thù ghét chính thân xác. Tình yêu phải là hành vi biểu lộ trọn vẹn “một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác, nơi họ, tinh thần và vật chất nối kết chặt chẽ với nhau… Tình yêu bấy giờ trở thành sự chăm sóc người khác và cho người khác. Tình yêu không còn tìm cho chính bản thân mình – sự chìm đắm trong say mê hạnh phúc – nhưng chỉ muốn điều tốt lành cho người mình yêu: Tình yêu trở thành sự từ bỏ, sẵn sàng trở thành lễ vật, vâng, tình yêu muốn như thế”[20].
Đức Kitô không đưa ra những chỉ dẫn mang tính lý thuyết, nhưng chính Ngài đã hành động cách cụ thể hành vi tận hiến trong tình yêu khi Người lập Bí tích Thánh Thể. Chính nơi đây Người đã trao ban chính mình, và đã kết hiệp một cách mật thiết với những ai đón nhận Người qua Bí tích Thánh Thể. Trong một thế giới thực dụng hưởng thụ ích kỷ, đang giết dần cái đẹp đích thực, thì có thể tìm thấy nơi đâu nguồn sinh lực để phục hồi cái đẹp. Không đâu ngoài Đức Kitô. “Trước tình trạng khẩn cấp của đại dịch virus corona, nước Ý đang thiếu các nhân viên y tế, linh mục bác sĩ Alberto Debbi – cha sở của giáo xứ Correggio, thuộc tỉnh Modena – Ý đã tạm thời mặc lại chiếc áo trắng thầy thuốc, trở lại bệnh viện ở Sassuolo để giúp đỡ những người đang đau khổ trong phòng bệnh.
Chia sẻ trên Facebook, linh mục Debbi đã giải thích về chọn lựa của mình: “Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Từ thứ Tư (18/03) tôi sẽ lại bắt đầu (tạm thời) nghề bác sĩ tại bệnh viện Sassuolo, ở khoa phổi, trung tâm covid-19. Tôi nghĩ rằng trong giai đoạn khó khăn và đau khổ này, đây cũng là một cách để ‘bẻ chính mình ra’ và sẵn sàng phục vụ với mọi thứ chúng ta có… Bàn thờ của tôi lúc này chính là giường của người bệnh. Tôi chào tất cả mọi người! Can đảm lên!”[21].
Đây là cách thế mà giáo xứ phải tỏ ra cho các bạn trẻ, làm sao cho các bạn gặp được một Đức Kitô chói ngời yêu thương, nếu các thành phần trong giáo xứ: Cha sở, cha phó, và giáo dân luôn thể hiện được tình yêu như Đức Kitô qua sự hiệp thông, nâng đỡ, sẻ chia và giúp đỡ lẫn nhau. Giáo xứ phải là “nhà” nuôi dưỡng di sản văn hoá và truyền thống của cha ông Việt: “Chị ngã em nâng”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”, nơi đào tạo nhân cách của con người để các bạn trẻ nhận ra “cái nết đánh chết cái đẹp”. Cái “nết” mà cộng đoàn Giáo xứ cần phải chuyển tới cho giới trẻ chính là gương sáng về đời sống thánh thiện. Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề mời các bạn trẻ tham gia thảo luận, chẳng hạn chuyên đề về thái độ giới trẻ trước sự tiến bộ công nghệ hiện tại đối với đời sống đức tin… Hãy tạo cho các bạn trẻ ý thức được rằng, họ là chủ thể của đời sống giáo xứ, hãy cho họ cơ hội thể hiện điều họ khao khát đó là thích chia sẻ, thích lên tiếng và mong muốn được lắng nghe. Giáo xứ hãy khích lệ các bạn trẻ mạnh dạn thể hiện khát vọng của mình trong các sinh hoạt giáo xứ, nhưng phải giúp các bạn ý thức được rằng: “Là thành viên của Hội Thánh, chắc chắn chúng ta không được sống tách biệt với người khác. Họ phải cảm nhận được chúng ta là anh em, là người thân cận của họ, như các Tông đồ “được toàn dân mến phục” (Cv 2,47; x. 4,21; 5,13). Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải dám khác biệt, có những ước mơ khác mà thế gian không có, dám làm chứng cho vẻ đẹp của sự quảng đại, tinh thần phục vụ, sự trong sạch, dũng cảm, tha thứ, trung thành với ơn gọi riêng của mình, của cầu nguyện, tranh đấu cho công lý và công ích, yêu thương người nghèo và tình thân hữu với mọi người”[22].
- b) Kiến tạo mối tương quan mang tính cá vị với Đức Kitô:
Một vấn nạn mà xã hội hôm nay đang đối diện, đó là giới trẻ ngày nay đang hình thành một nền văn hoá thần tượng “lệch lạc” làm cho chúng ta phải giật mình. Tác giả Hoàng Lân, trong bài viết: “Thần tượng lệch lạc – Hồi chuông báo động trong giới trẻ” đã đặt vấn đề: “Tại sao trong xã hội văn minh, đủ đầy nhưng bạo lực học đường ngày một tăng với tính chất nghiêm trọng? Tại sao nhiều học sinh tỏ ra thờ ơ, vô cảm trước sự mất mát của người thân, bạn bè nhưng lại có thể khóc ngất khi xem thần tượng biểu diễn? Tại sao thanh niên dễ nổi cáu, nóng giận, dẫn đến hành động phạm pháp?”[23] Và tác giả đưa ra một nhận định: “Thế giới chuẩn tắc thường ràng buộc con người, định hướng cho mỗi người đi theo chuẩn mực xã hội với giá trị đã được định sẵn. Nhưng với những người trẻ, đang đi tìm sự khác biệt, tìm ‘cái tôi’ thì ‘thế giới chuẩn tắc’ có thể khiến họ nhàm chán, và họ dễ bị hấp dẫn bởi những thứ vô nguyên tắc, những hành động điên rồ. Đó là lý do vì sao, những đối tượng giang hồ với hành động ngang ngược, bất cần dễ được đám đông giới trẻ tò mò, kích thích”[24].
Hiện tượng này là một thách đố cho đời sống giáo xứ được hiểu là “nhà”. Các bạn trẻ trong giáo xứ cần có được một định hướng đúng đắn để có thể xây dựng cho mình một nền văn hoá thần tượng đúng nghĩa. Bởi xã hội nào, thời nào cũng xuất hiện “thần tượng” chi phối mọi tư duy và lối sống của các bạn trẻ, cho nên Giáo Hội phải là ngọn hải đăng dẫn đường chỉ lối cho các bạn trẻ biết nhận định mục đích của việc tìm thần tượng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc định hướng cho các bạn trẻ xây dựng một nền văn hóa thần tượng đúng đắn, Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thành lập Đại hội Giới trẻ Thế giới cứ 2 năm một lần, với mục đích đem các bạn trẻ đến gần với Đức Kitô và trở thành bạn hữu thân tình với Đức Kitô. Thánh giáo hoàng đã thành công trong việc làm cho các bạn trẻ gặp được Đức Kitô qua con người của ngài. Một bạn trẻ Hồng Kông khi đến Đại hội Giới trẻ Thế giới tại Paris vào năm 1997, đã trả lời với một phóng viên: “Tôi đang chờ Đức thánh cha, bởi đây là điều quan trọng, vì chúng tôi có thể gặp được Đức Kitô ở nơi con người của ngài”. Quả thật, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II thực sự đã truyền cảm hứng cho các bạn trẻ một lối sống lành mạnh, lòng dũng lực và sự can đảm. Ngài đã hướng dẫn các bạn trẻ biết khai phá con đường tương lai để hướng tới cứu cánh đích thực của cuộc sống, giúp các bạn trẻ tránh xa chủ nghĩa tục hoá, một chủ nghĩa đang ra sức loại bỏ đức tin Kitô giáo ra khỏi trí não của các bạn trẻ.
Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ra đi về với cõi vĩnh hằng, nhưng đường lối mục vụ giới trẻ của ngài vẫn là nguồn cảm hứng giúp các giáo xứ kín múc được những kinh nghiệm dồi dào, hầu có thể đồng hành với các bạn trẻ trong đời sống đức tin. Một trong những kinh nghiệm đó chính là dẫn các bạn trẻ đến gặp Chúa Giêsu bằng nỗi khao khát của các bạn: Không phải là một Đức Giêsu khô cứng được đóng khung trong các công thức tuyên xưng đức tin, nhưng là một Đức Kitô sống động, đầy nghị lực “dám nghĩ, dám làm” để hoán cải kẻ tội lỗi, như Người đã từng hoán cải một Lêvi, một Giakêu và v.v.. Điều đó cũng có nghĩa là giáo xứ phải thực sự xây dựng cho mình thành một cộng đoàn dám đi ra khỏi những định kiến cố hữu, nói như Đức Phanxicô: Các bạn trẻ “không muốn thấy một Hội Thánh im lặng và e ngại lên tiếng, cũng không muốn thấy một Hội Thánh chỉ biết loay hoay tranh đấu cho vài ba vấn đề ám ảnh mình. Để được người trẻ tín nhiệm, đôi khi Hội Thánh cần tìm lại sự khiêm tốn và đơn sơ lắng nghe, biết nhận ra một ánh sáng nơi những gì người khác nói giúp Hội Thánh hiểu Tin Mừng tốt hơn. Một Hội Thánh luôn phòng thủ, thiếu khiêm tốn, không biết lắng nghe, không chấp nhận bị chất vấn, sẽ đánh mất đi sự tươi trẻ và biến mình thành một viện bảo tàng. Khi đó, làm sao Hội Thánh có thể đáp lại những ước mơ của người trẻ?”. [25]
Thế nhưng, để có thể có được tiếng nói chung giữa đời sống giáo xứ và khát vọng của các bạn trẻ, giáo xứ cần giúp các bạn trẻ khẳng định lại đức tin của mình: Tôi tin vào ai? Và tại sao tôi tin? Chắc chắn đối tượng của đức tin Kitô giáo không gì khác hơn là “tôi tin vào Chúa”, nhưng Chúa không là một khái niệm mơ hồ vu vơ, “tin là có một cuộc gặp gỡ với con người Giêsu, và qua cuộc gặp gỡ đó mà nhận ra rằng, ý nghĩa của thế giới là một con người, một ngôi vị sống động… Qua Đức Giêsu, chúng ta có thể sờ chạm tới Thiên Chúa, Đấng vô phương đạt thấu”[26].
Giáo xứ phải hướng dẫn cho các bạn trẻ hiểu đúng đắn về đức tin của mình, tuyên xưng đức tin là một quyết định dứt khoát về việc chọn lựa một tối hậu cho cuộc sống. Đây là việc quan trọng, bởi lời tuyên xưng tuy phát ra từ môi miệng con người, nhưng nền tảng của việc tuyên xưng vẫn là ơn thánh, chính Đức Kitô đã minh định điều đó: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. (Mt 16, 17). Vì thế, việc cần thiết là giáo xứ phải làm cho giới trẻ nhận ra tầm quan trọng của Thánh lễ và việc chầu Thánh Thể, bởi đây là cách thế để các bạn trẻ gặp Chúa Giêsu một cách cá vị nhất, và là cơ hội để đưa ra một quyết định dứt khoát về đức tin của mình. “Thực ra, đức tin cần có một môi trường mà trong đó nó có thể được làm chứng và truyền đạt, một phương tiện phù hợp và tương xứng với những gì được truyền đạt… Để truyền thông sự sung mãn này, có một công cụ đặc biệt bao gồm toàn thể con người, thân xác và tinh thần, đời sống nội tâm và những liên hệ. Công cụ ấy là các Bí Tích, được cử hành trong phụng vụ của Hội Thánh. Trong đó thông truyền ký ức nhập thể, được liên kết với không gian và thời gian của cuộc sống, và liên hệ mật thiết với tất cả các giác quan; trong đó toàn thể con người được tham gia như một phần tử của một chủ thể sống động, và một phần của một mạng lưới các mối liên hệ cộng đoàn”[27], cho nên tách rời cuộc sống ra khỏi mối tương giao với các bí tích, đặc biệt đối với bí tích Thánh Thể là điều không thể làm cho các bạn trẻ gặp gỡ được Đức Kitô.
c- Giúp các bạn trẻ nhận ra vẻ đẹp của việc cầu nguyện:
Có thể nói phần nhiều các bạn trẻ cảm thấy hụt hẫng trong cuộc sống vì những gãy đổ trong các mối tương giao bạn bè, đồng nghiệp, nơi sở làm, học đường. Thật vậy, khi đương đầu với những va vấp trong cuộc sống, lại thường gặp phải những chỉ trích hay ý kiến đối nghịch, cộng thêm áp lực từ cuộc sống, từ tiền bạc, mối quan hệ, công việc,…làm cho các bạn trẻ cảm thấy chán chường, rồi tự mình rút vào một góc xó không muốn tiếp xúc với ai. Nhiều bạn trẻ tự hỏi tại sao giữa một thành phố lúc nào cũng nhộn nhịp đông đúc như thế mà sao tôi lại cảm thấy cô đơn đến nỗi nhiều lúc cứ tưởng mình bị tự kỷ vì không biết chia sẻ với ai? Nhiều nhà văn đã trình bày một số đông bạn trẻ khi đối diện với nỗi cô đơn đã lấy hút sách, nhậu nhẹt, sex, bạo lực làm niềm vui để sống. “Mặc cảm bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề, bị chìm trong xã hội vô cảm, đã dễ chuyển hoá thành hành vi tìm kiếm sự nổi tiếng bằng sa đoạ hoặc tội ác”[28].
Đối diện với sự cô đơn của các bạn trẻ, hãy nói cho họ biết có một người sẵn sàng làm bạn với họ, sẵn sàng chia sẻ tâm tư vui buồn với họ, đó chính là Giêsu. Quả thật khi kết bạn với Chúa Giêsu, các bạn trẻ sẽ không bao giờ thất vọng, vì nơi Người các bạn tìm thấy được một tình bạn đích thật, nói như Đức Phanxicô: “Tình bạn với Đức Giêsu thì bất khả phân ly. Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta, mặc dù đôi khi có vẻ như Người giữ thinh lặng. Khi chúng ta cần đến Người, Người tỏ mình ra cho chúng ta, và Người ở bên chúng ta trong bất cứ nơi nào”[29]. Chính Người sẽ cho biết “tình bạn không phải là một mối quan hệ nhất thời, tạm bợ, nhưng ổn định, bền vững, trung thành, chín muồi theo thời gian. Đó là một mối tương quan cảm mến nối kết chúng ta lại với nhau, và đồng thời đó cũng là một tình yêu quảng đại dẫn chúng ta đến việc tìm kiếm điều tốt đẹp cho bạn bè. Mặc dù bạn hữu có thể rất khác nhau, nhưng luôn có một số điểm chung khiến chúng ta cảm thấy gần gũi, thân tình để chia sẻ với lòng chân thành và tin tưởng”[30].
Con đường đến để gặp Chúa Kitô và kết nối tình bạn với Người chính là cầu nguyện. Quả thật cầu nguyện là phương thế có hiệu quả nhất để có thể làm bạn với Chúa Kitô, vì “Cầu nguyện cho phép chúng ta chia sẻ với Người mọi điều xảy đến với mình và tín thác trong vòng tay của Người, đồng thời cầu nguyện cũng cho chúng ta những giây phút thân tình quý giá, trong đó Đức Giêsu trao ban sự sống của Người cho chúng ta. Khi cầu nguyện chúng ta cởi mở tất cả với Người, chúng ta dành chỗ cho Người để Người có thể hành động và có thể bước vào và có thể chiến thắng” [31]. Khi kết bạn với Đức Kitô các bạn trẻ sẽ không còn bị hụt hẫng giữa một thế giới sôi động này, sẽ không còn cảm thấy lạc lõng giữa cuộc sống đầy bon chen, và sẽ nhận ra cuộc sống của mình quả là một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa đã trao ban, và sẵn sàng làm cho mình trở thành niềm vui cho người khác.
Kết
Một sinh viên thuộc đại học Cornell, Hoa Kỳ đã đưa ra một nhận định: “Ngày nay, khi hỏi thế hệ trẻ Việt Nam tin vào điều gì, có lẽ sẽ khó có thể tìm được một câu trả lời đồng thanh thỏa đáng như của những thế hệ trước, họ như đang khủng hoảng niềm tin. Sự khủng hoảng về niềm tin dẫn đến sự hụt hẫng về lý tưởng. Sự hụt hẫng về lý tưởng dẫn đến thiếu sót trong mục đích sống. Càng ngày người ta càng thấy nhiều người trẻ sa lầy vào những cuộc vui quên ngày tháng… Người Việt trẻ dường như đang sống để hưởng thụ nhiều hơn”[32]. Sự khủng hoảng niềm tin không chỉ xảy ra nơi các bạn trẻ ngoài Kitô giáo, nhưng ngay cả các bạn trẻ Công giáo cũng đang đối diện với khủng hoảng về đức tin. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng này, nhưng tựu trung vẫn là cảm giác hụt hẫng nơi các bạn trẻ giữa một thế giới quá thực dụng, và hầu như vô nghĩa.
Hiểu được điều đó, Giáo Hội nỗ lực tìm cách củng cố đức tin cho các bạn trẻ bằng cách đồng hành với các bạn trẻ như là người mẹ hiền để mong đồng cảm với những thách đố mà các bạn đang đối diện hầu có thể giúp các bạn kiên vững trong đức tin của mình. Điều mà Giáo Hội có thể mang lại niềm vui cho các bạn trẻ hôm nay không gì khác, chính Đức Giêsu Kitô. Quả thật “đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Hội Thánh dường như là những từ trống rỗng, các bạn trẻ lại nhạy cảm với hình ảnh của Chúa Giêsu, khi hình ảnh này được trình bày một cách hấp dẫn và hiệu quả. Bằng nhiều cách, những người trẻ ngày nay nói với chúng ta: ‘Chúng con muốn thấy Chúa Giêsu’ (Ga 12,21), do đó biểu lộ mối quan tâm thánh thiêng này, là điều đặc trưng cho tâm hồn của mỗi con người: ‘Ao ước tìm kiếm tâm linh, khao khát gặp gỡ Thiên Chúa, khắc khoải về tình yêu’[33].
Để có thể mang lại cho các bạn trẻ dung mạo Đức Kitô tươi trẻ, trước tiên Giáo Hội phải thay đổi chính mình, Giáo Hội phải “bắt nguồn và gắn liền với sự thật của lời Chúa và trong tình yêu của Chúa Kitô, đó là một Giáo Hội không yêu bằng lời, nhưng bằng những hành động cụ thể, bằng tình yêu có thể chia sẻ được, cảm nhận được, thấy được, đụng chạm được… Giáo Hội phải là nơi mà mọi con tim được gặp nhau và hợp nhất trong một con tim duy nhất, nơi người ta tôn trọng lẫn nhau, được hy vọng và vui mừng với nhau và với người khác, nơi không có phê bình chỉ trích, nơi mà tình huynh đệ được đề cao, nơi mà người sa ngã được trỗi dậy lần nữa, nơi người ta tin tưởng nhau, nơi mà các mối tương quan đều chân thành và tin tưởng, nơi không có hoài nghi và sợ hãi, nơi tôi cảm nhận được sự ấm áp trọn vẹn của tình yêu Thiên Chúa sau khi bị lạc mất vòng tay”[34].
[1] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống” (Christus Vivit), ban hành tại Loreto, Roma ngày 25-3-2019, số 39&40. Nguồn: https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christus-vivit-chua-kito-dang-song-38964
[2] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung 2019, ban hành ngày 4-10-2019, tại Hải Phòng, số 3.
[3] Lê Nhân Tâm, Giới trẻ Việt Nam trong Thời kỳ Đổi mới, (Thành Phố Hồ Chí Minh, 2004), tr. 278.
[4] Ánh Dương, Thế hệ làm điều không thể – Những người trẻ luôn khao khát bước ra thế giới bên ngoài và thể hiện cái tôi mãnh liệt. Nguồn: https://cafebiz.vn/the-he-lam-dieu-khong-the-nhung-nguoi-tre-luon-khao-khat-buoc-ra-the-gioi-ben-ngoai-va-the-hien-cai-toi-manh-liet-20191113154821734.chn
[5] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 164.
[6] X. Fyodor Dostoevsky, Gã khờ, dịch giả: Phạm Xuân Thảo, NXB Văn Học, 2002.
[7] X. Paul Evdokimov, Dostoïevski et le problème du mal, NXB Desclée de Brouwer, 1992.
[8] Trích lại trong bài “Về Vẻ Đẹp” của Lm Micae Trần Đình Quảng, nguồn: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/42VeVeDep.htm
[9] X. Felipe Gomez, Giáo Hội Học, NXB Antôn & Đuốc Sáng, Saigon 2002, Quyển I, tr. 208.
[10] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 151.
[11] X. Nt., số 154
[12] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 30.
[13] Đức Phanxicô, Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” (Evangelii Gaudium), ban hành ngày 24-11-2013, tại Roma, số 52.
[14] Ánh Dương, Thế hệ làm điều không thể – Những người trẻ luôn khao khát bước ra thế giới bên ngoài và thể hiện cái tôi mãnh liệt. Nguồn: https://cafebiz.vn/the-he-lam-dieu-khong-the-nhung-nguoi-tre-luon-khao-khat-buoc-ra-the-gioi-ben-ngoai-va-the-hien-cai-toi-manh-liet-20191113154821734.chn
[15] Đức Phanxicô, Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” số 62.
[16] Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngỏ lời với các bạn trẻ trong Đại hội Giới trẻ Thế giới lần I tại Roma, ngày 23-3-1986.
[17] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 39.
[18] Đức Bênêđictô XVI, Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” (Deus Caritas Est), ban hành ngày 25-12-2005, tại Roma, số 5.
[19] Nt.
[20] Nt., số 6
[21] https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/nhung-tam-guong-sang-trong-dai-dich-covid-19-59936
[22] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 36.
[23] Nguồn: http://www.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Xa-hoi/931295/than-tuong-lech-lac—hoi-chuong-bao-dong-trong-gioi-tre
[24] Nt.
[25] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 41.
[26] Joseph Ratzinger, Einfuehrung in das Christentum, Bản tiếng Việt: Đức tin Kitô giáo – Hôm Qua và Hôm Nay, do Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam chuyển ngữ, NXB Tôn giáo, 2009, tr. 79.
[27] Đức Phanxicô, Thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin” (Lumen Fidei), ban hành ngày 29-6-2013, số 28.
[28] Thái Thảo, Đâu là nơi nương tựa khi trẻ hụt hẫng? Nguồn: https://thegioihoinhap.vn/van-hoa-giao-duc/giao-duc/dau-la-noi-nuong-tua-khi-tre-hut-hang/
[29] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 154. Nguồn https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christus-vivit-chua-kito-dang-song-38964
[30]Nt., số 152.
[31] Nt., số 155.
[32] Tô Nam, Phải chăng Giới trẻ đang khủng hoảng niềm tin? https://www.bbc.com/vietnamese/mobile/forum/2012/12/121204_daoduc_niem_tin.shtml
[33] Tài liệu Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục giới trẻ lần XV, ngày 27-10- 2018, tại Roma, số 17.
[34] Đức Phanxicô, Tông huấn “Chúa Kitô Đang Sống”, số 41. Nguồn: https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christus-vivit-chua-kito-dang-song-38964
2020
20 Câu Trả Lời Của Đức Thánh Cha Phanxicô Về Truyền Giáo
“Không có chúa Giêsu chúng ta không làm được gì”.
20 câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc truyền giáo được trích từ “Cuộc phỏng vấn của Gianni Valente với Đức Thánh Cha”, Hãng Thông tấn Fides thực hiện.
Nhân cuối Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường năm ngoái, Hãng Thông tấn Fides trích dẫn một số đoạn trong cuốn sách dài ghi lại cuộc phỏng vấn của Gianni Valente thuộc Hãng tin Fides với Đức Thánh Cha Phanxicô, trong đó Đức Thánh Cha nhấn mạnh, “Giáo Hội truyền giáo hoặc không phải là Giáo Hội”. Cuốn sách này đã được Thư viện điện tử Vatican và nhà xuất bản Thánh Phaolô phát hành; đã có mặt trong các nhà sách kể từ ngày 5 tháng 11, 2019.
“Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và cuộc đời của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu”. Đó là lời mở đầu cho Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng của Đức Thánh Cha, công bố tháng 11 năm 2013, tám tháng sau mật nghị bầu giáo hoàng mà ngài được chọn làm Giám mục Rôma, kế vị thánh Phêrô. Bản văn phác thảo chương trình triều đại giáo hoàng của ngài đã mời gọi tất cả mọi người tái dung hòa mỗi hành động, suy tư và sáng kiến mang chiều kích Giáo Hội với “việc loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay”. Sáu năm sau, Đức Thánh Cha tổ chức Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường vào tháng 10 năm 2019, đồng thời, triệu tập Nghị Trình Đặc Biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục Tại Rôma liên quan đến Vùng Amazon với ý hướng tìm ra những đường lối mới cho việc loan báo Tin Mừng tại vùng “lá phổi xanh” vốn đang bức tử bởi sự khai thác cùng kiệt bạo hành và gây thương tổn cho bao “anh chị em và chị trái đất của chúng ta”.
Trong thời gian này, Đức Thánh Cha cũng đã đề cập đến những mối bận tâm khẩn thiết liên quan đến bản chất đặc thù sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội trong thế giới ở các huấn từ công khai của ngài. Chẳng hạn, ngài đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần rằng, loan báo Tin Mừng không phải là “cải đạo người khác” nhưng Giáo Hội phát triển nhờ “sự cuốn hút” bởi “chứng tá”, đó là một chuỗi cách thức diễn tả hướng đến đề nghị của ngài là làm sao liên kết động lực của từng việc tông đồ với cội nguồn của nó.
Đức Thánh Cha nói đến tất cả những điều này, và nhiều hơn nữa, trong cuộc phỏng vấn được viết thành sách, cuốn sách dài có tựa đề “Không có Ngài, chúng ta không làm được gì”: Một Cuộc Đối Thoại Về Việc Trở Nên Những Nhà Truyền Giáo Trong Thế Giới Hôm Nay.
DƯỚI ĐÂY LÀ 20 CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI ĐƯỢC TRÍCH ĐOẠN
1. Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha nói, hồi trẻ, Đức Thánh Cha muốn đi truyền giáo Nhật. Vậy chúng con có thể nói, Đức Thánh Cha chưa bao giờ trở thành nhà truyền giáo?
Tôi không biết, tôi vào Dòng Tên vì được đánh động bởi ơn gọi truyền giáo của họ, đánh động bởi việc họ luôn luôn đi đến những vùng biên giới. Lúc đó tôi không thể đến Nhật, nhưng tôi luôn cảm thấy rằng, để loan báo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, thì nhất định phải đi ra, và tiến về phía trước.
2. Đức Thánh Cha không ngừng nhắc đến “Một Giáo Hội lên đường”. Nhiều người đã mượn cách diễn tả này và đôi khi, xem ra, nó trở thành một khẩu hiệu gây nhàm chán, ngày càng được nhiều người nại đến để trách cứ Giáo Hội về cái mà Giáo Hội nên và không nên.
“Một Giáo Hội lên đường” không phải là cách nói mang tính thời thượng do tôi phát minh; nó là lệnh truyền của Chúa Giêsu, Đấng trong Tin Mừng Marcô, đã kêu gọi những ai theo Ngài tiến vào giữa lòng thế giới và loan báo Tin Mừng “cho mọi loài thọ tạo”. Giáo Hội hoặc là lên đường hoặc không còn là Giáo Hội; Giáo Hội hoặc là truyền giáo hoặc không còn là Giáo Hội. Nếu không lên đường, Giáo Hội sẽ mục ruỗng và trở thành một thứ gì đó.
3. Giáo Hội sẽ là gì nếu không loan báo Tin Mừng và không lên đường?
Giáo Hội sẽ trở thành một hiệp đoàn tâm linh, một tổ chức đa quốc gia nhằm đưa ra những phát kiến và những thông điệp mang tính đạo đức và tôn giáo. Điều này chẳng có gì sai, nhưng đó không phải là Giáo Hội. Đây là một nguy cơ đối với bất cứ một cơ cấu tĩnh nào trong Giáo Hội. Rốt cuộc, chúng ta sẽ chế ngự Chúa Kitô; các bạn sẽ chẳng còn là chứng tá cho những gì Ngài làm, nhưng thay vào đó là nói thao thao bất tuyệt thay cho một ý tưởng nào đó của Chúa Kitô; một ý tưởng mà các bạn đã cải biến và thuần hóa cho phù hợp với mình. Các bạn tổ chức điều này, điều kia, các bạn trở thành những nhà quản lý hẹp hòi của đời sống Giáo Hội, nơi mà mọi việc phải xảy ra theo một kế hoạch đã lập sẵn, mọi thứ phải tuân theo các chỉ thị; thế nhưng, ở đó, không bao giờ xảy ra cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, một cuộc gặp gỡ vốn đã chạm đến cõi lòng các bạn từ thuở ban đầu.
4. Thưa Đức Thánh Cha, việc truyền giáo tự nó có phải là một liều thuốc giải cho mọi vấn đề không? Liệu ước muốn và nỗ lực “ra đi” truyền giáo có đủ để tránh khỏi những sự méo mó này?
Truyền giáo, “Giáo Hội lên đường”, không phải là một chương trình, một ý hướng được thực hiện duy bởi sức mạnh của ý chí nhưng chính Chúa Kitô là Đấng làm cho Giáo Hội ra khỏi chính mình. Trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, các bạn lên đường vì lẽ Chúa Thánh Thần đang đẩy và đang mang các bạn đi. Và khi đến nơi, các bạn nhận ra rằng, Ngài đã ở đó trước rồi, Ngài đang chờ đợi các bạn. Thần Khí Chúa đã đến trước, Ngài đã dọn sẵn lối cho các bạn và Ngài đang sẵn sàng hoạt động.
5. Trong cuộc gặp gỡ Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, Đức Thánh Cha đã đề nghị các thành viên đọc Công Vụ Tông đồ như một bản văn thường xuyên được dùng để cầu nguyện; thưa Đức Thánh Cha, tại sao lại là một trình thuật thời kỳ đầu của Giáo Hội mà không phải là một thủ bản chiến lược truyền giáo “hiện đại”?
Nhân vật chính trong Công Vụ Tông Đồ không phải là các tông đồ mà là Chúa Thánh Thần. Các tông đồ là những người đầu tiên nhận ra Thánh Thần và làm chứng cho Ngài. Khi thông truyền những quyết định được Công Đồng Giêrusalem ấn định cho cộng đoàn ở Antiôkia, các ngài viết, “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”. Các ngài chân nhận rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng mỗi ngày, làm cho họ có thêm “những người được cứu”, chứ không phải những nỗ lực thuyết phục của con người.
6. Và từ đó tới nay cũng như vậy? Chẳng có gì thay đổi sao, thưa Đức Thánh Cha?
Kinh nghiệm của các tông đồ như một kiểu mẫu luôn có giá trị. Chỉ cần nghĩ đến những gì đã xảy ra cùng lúc trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng không hề bị gò ép. Đó là một câu truyện của con người; ở đó, các môn đệ luôn đến sau, khi họ đến thì Thánh Thần đã hoạt động rồi. Ngài chuẩn bị và hoạt động trong các tâm hồn; Ngài đảo lộn các kế hoạch của họ. Chính Ngài đồng hành, hướng dẫn và an ủi họ trong mọi cảnh huống mà họ thấy mình còn sống sót. Khi các vấn đề và các cơn bách hại xảy đến, Thánh Thần cũng hoạt động ở đó theo một cách thế thậm chí còn kinh ngạc hơn, bằng sự xoa dịu, ủi an của Ngài như những gì đã xảy ra sau cuộc tử đạo tiên khởi của Thánh Têphanô.
7. Điều gì xảy ra sau đó thưa Đức Thánh Cha?
Thời kỳ bách hại nổi lên, nhiều môn đệ trốn khỏi Giêrusalem, họ đến miền Giuđêa và Samaria. Ở đó, trong khi bị phân tán và lẩn trốn, dẫu cho lẻ loi và không có sự hiện diện của các tông đồ vốn đang ở lại Giêrusalem, họ vẫn bắt đầu loan báo Tin Mừng. Họ được rửa tội và Thánh Thần cũng ban cho họ dũng khí tông đồ. Ở đó, lần đầu tiên chúng ta nhận ra rằng, chỉ cần phép rửa là đủ để trở thành người rao giảng Tin Mừng. Và đó là truyền giáo; truyền giáo là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chẳng có gì gây kích động, cũng chẳng cần phải tổ chức, phải gào thét; chẳng cần quảng cáo hay mưu mẹo gì cả. Tất cả những gì chúng ta cần làm là cầu xin cho có thể lặp lại kinh nghiệm ấy ngay hôm nay; cái kinh nghiệm khiến chúng ta có thể nói, “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”.
8. Thưa Đức Thánh Cha, nếu không có kinh nghiệm này, những lời kêu gọi cổ võ cho việc truyền giáo sẽ có ý nghĩa gì?
Không có Chúa Thánh Thần, ước muốn truyền giáo sẽ trở thành một cái gì đó hoàn toàn khác. Tôi có thể nói, đó là một kế hoạch chinh phục, với cớ là chúng ta đang chinh phục một điều gì đó; một chinh phục đạo đức, hay có thể, một chinh phục ý thức hệ, vốn có thể được thực hiện, thậm chí, với những ý hướng ngay lành. Nhưng đó là một điều gì khác, chứ không phải truyền giáo.
9. Trích dẫn lời Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Đức Thánh Cha thường lặp đi lặp lại rằng, Giáo Hội phát triển nhờ sự cuốn hút. Ý của Đức Thánh Cha là gì? Ai cuốn hút? Ai bị cuốn hút?
Chúa Giêsu nói điều đó trong Tin Mừng Gioan, “Khi Tôi được giương lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”; cũng trong Tin Mừng Gioan, Ngài còn nói, “Không ai có thể đến được với Tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy”. Giáo Hội đã luôn luôn nhận ra rằng, đây là một mẫu thức đặc thù của mọi hoạt động vốn đem chúng ta đến gần Chúa Giêsu và Tin Mừng hơn. Đó không phải là một sự thuyết phục, một sự giải thích hợp lý, cũng không phải là việc có được một chỗ đứng nào đó; không phải là một áp lực hay một sự cưỡng ép. Nhưng nó luôn luôn là một sự cuốn hút; ngôn sứ Giêrêmia đã nói rồi, “Ngài quyến rũ con, lạy Chúa, và con đã để cho ngài quyến rũ”. Và điều này đúng với các tông đồ, các nhà truyền giáo và cũng đúng với công việc của họ.
10. Nhưng làm thể nào để những gì Đức Thánh Cha vừa mô tả có thể xảy ra?
Đó chính là sự ủy nhiệm ra đi và loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu vốn đến từ bên trong, bằng việc phải lòng vì yêu mến, bằng sức cuốn hút của tình yêu. Người ta không bước theo Chúa Kitô, ngay cả, khó trở thành một người loan báo Tin Mừng, vì một quyết định được đưa ra từ bàn tròn, hoặc do hoạt động của chính người đó. Ngay cả động lực truyền giáo cũng chỉ có thể có kết quả nếu nó xảy ra trong sự cuốn hút này và nhờ cuốn hút, nó mới có sức truyền đến những người khác.
11. Những lời này có ý nghĩa gì cho sứ mạng và việc loan báo Tin Mừng thưa Đức Thánh Cha?
Nó có nghĩa là nếu các bạn được cuốn hút bởi Chúa Kitô, nếu các bạn lên đường và làm điều này điều kia vì được cuốn hút bởi Chúa Kitô, thì những người khác sẽ chú ý đến nó mà không cần phải tốn công; chẳng cần phải chứng tỏ thế này, thế kia, ‘hữu xạ tự nhiên hương’. Ngược lại, bất cứ ai cho mình là nhân vật chính hay là người quản lý việc truyền giáo dù với tất cả ý hướng tốt lành nhất và những mục đích được kê ra, thì thông thường, rốt cuộc chẳng cuốn hút được ai.
12. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha nhìn nhận rằng, tất cả sự cuốn hút này có thể khiến chúng ta choáng ngợp. Nó giống như những người trầm mình xuống đại dương mà không lường trước những gì sẽ xảy đến; Đức Thánh Cha muốn đề nghị điều gì qua hình ảnh này? Những lời này có liên quan đến việc truyền giáo không?
Sứ mạng truyền giáo không phải là một kế hoạch được thử nghiệm của một công ty, cũng không phải là màn trình diễn đại chúng được tổ chức để huênh hoang, hầu xem có bao nhiêu người tham gia nhờ vào việc quảng cáo của chúng ta. Chúa Thánh Thần làm việc như Ngài muốn, khi Ngài muốn và nơi Ngài muốn; và điều này có thể khiến chúng ta choáng ngợp. Vậy mà cao điểm của sự tự do chính xác nằm ở chỗ, một người để cho mình được mang đi bởi Chúa Thánh Thần, người ấy từ chối sự cần thiết phải tính toán và kiểm soát mọi sự. Đây chính xác là cách thức chúng ta nên giống chính Chúa Kitô, Đấng trong mầu nhiệm phục sinh của Ngài đã học được cách ở lại trong sự dịu hiền của vòng tay Chúa Cha. Hoa trái mầu nhiệm của việc truyền giáo không hệ tại ở những ý hướng, phương pháp, sức đẩy, và những sáng kiến của chúng ta, nhưng nó nằm chính xác ở sự choáng ngợp này: sự choáng ngợp mà chúng ta nhận thức khi nghe những lời này của Chúa Giêsu, “Không có thầy, anh em chẳng làm gì được”.
13. Đức Thánh Cha cũng thường lặp lại, Giáo Hội phát triển “bằng chứng tá”. Khi tập trung sự chú ý vào điều này, Đức Thánh Cha muốn nói gì?
Thực ra, chính sự cuốn hút làm cho chúng ta trở thành những chứng nhân. Chứng tá này chứng thực những gì Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã thực sự hoàn tất trong cuộc sống mỗi người. Sau khi phục sinh, chính Chúa Kitô đã mặc khải chính mình cho các tông đồ. Chính Ngài làm cho các ông trở thành những chứng nhân; thêm vào đó, chứng tá này không dành cho riêng mình, chúng ta là những chứng nhân cho các công trình của Thiên Chúa.
14. Một điều khác mà Đức Thánh Cha cũng thường nhắc lại; ở đây, xem ra có vẻ tiêu cực: Giáo Hội không phát triển bằng việc cải đạo người khác, và sứ mạng của Giáo Hội cũng không phải là cải đạo. Tại sao Đức Thánh Cha lưu ý điều này nhiều đến thế? Liệu có phải là để duy trì mối tương quan tốt với các Giáo Hội khác và dễ dàng đối thoại với các truyền thống tôn giáo khác?
Vấn đề cải đạo, thực ra, không chỉ đi ngược với tiến trình đại kết và đối thoại liên tôn, nhưng thuyết cải đạo còn xuất hiện ở bất cứ nơi nào có ý định làm cho Giáo Hội phát triển bằng cách giảm trừ việc nhấn mạnh đến sức cuốn hút về phía Chúa Kitô và hoạt động của Chúa Thánh Thần; để rồi, tập trung mọi việc vào bất cứ loại hình “diễn từ khôn ngoan” nào. Vì thế, chủ nghĩa cải đạo tiên vàn gạt Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ra khỏi sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội, cả khi chúng ta tuyên bố mình nói và làm nhân danh Chúa Kitô. Thuyết cải đạo tự bản chất luôn luôn là bạo lực, cả khi nó được che giấu hay được thực hành với các cách thế xem ra trong sạch. Nó không chấp nhận tự do và khoan dung mà qua đó, đức tin có thể được thông truyền từ người này sang người khác nhờ ân sủng. Đây là lý do tại sao thuyết cải đạo không chỉ là một điều gì đó thuộc quá khứ, thuộc về thời thực dân đã qua, hoặc những trường hợp cải đạo do ép buộc hay mua bán, hứa hẹn về những lợi lộc vật chất. Ngày nay chủ nghĩa cải đạo cũng có thể tồn tại ngay trong các giáo xứ, các cộng đoàn, các phong trào và các dòng tu.
15. Vậy truyền giáo có nghĩa là gì, thưa Đức Thánh Cha?
Truyền giáo có nghĩa là công bố chứng tá của mình về Chúa Kitô bằng những từ ngữ cụ thể và giản dị như các tông đồ đã làm, không cần phải tạo ra những huấn từ mang tính thuyết phục. Việc loan báo Tin Mừng thậm chí có thể bị dể duôi, nhưng nó luôn vượt qua mãnh lực của cớ vấp phạm thập giá; nó luôn phù hợp với con đường được chỉ ra trong thư Thánh Phêrô, vốn đơn thuần hàm chứa trong những ‘lý do được cung cấp’ về một niềm hy vọng của người này dành cho người khác, một niềm hy vọng vẫn luôn là cớ vấp phạm và dại khờ trong con mắt người đời.
16. Làm sao chúng ta nhận ra một Kitô hữu truyền giáo, thưa Đức Thánh Cha?
Một đặc tính cụ thể để nhận ra là người ấy hành động như những người dẫn dắt, chứ không là những người kiểm soát của đức tin. Việc tạo điều kiện, làm cho mọi sự nên dễ dàng, không đặt ra những ngăn trở đối với mong muốn của Chúa Giêsu để ôm lấy, chữa lành hết thảy mọi người; không đặt ra sự chọn lọc, không áp đặt những “giá cả mục vụ”, không đóng vai người canh gác kiểm soát những ai có quyền vào cửa. Tôi nhớ đến các cha xứ và những cộng đoàn ở Buenos Aires, vốn đã thiết lập nhiều sáng kiến để làm cho việc tiến tới Bí tích Rửa tội được dễ dàng. Trong những năm gần đây, họ nhận thấy con số những người không được rửa tội gia tăng vì nhiều lý do, thậm chí là do những lý do xã hội học, và họ muốn nhắc nhở mọi người rằng, được rửa tội là một điều gì đó bình thường, mọi người đều có quyền đòi hỏi, cho chính họ và cho con cháu. Đường hướng mà các cha xứ và các cộng đoàn ấy đã làm có chung một mục tiêu: không đặt thêm gánh nặng, không đưa ra những yêu sách, xoá bỏ bất cứ khó khăn nào mang tính văn hóa, tâm lý hay thực tiễn vốn có thể khiến người ta trì hoãn hay loại bỏ ý muốn rửa tội cho con cái mình.
17. Ở châu Mỹ, trong những buổi đầu truyền giáo, các thừa sai đã tranh luận về việc ai “xứng đáng” nhận phép rửa. Những cuộc tranh cãi ấy đã chấm dứt như thế nào thưa Đức Thánh Cha?
Đức Thánh Cha Phaolô III đã bác bỏ lý thuyết của những người tuyên bố rằng, lẽ tự nhiên, người da đỏ Bắc Mỹ vốn dĩ “không có khả năng” đón nhận Tin Mừng và ngài cũng bác bỏ việc các thừa sai chọn lựa để xác định ai sẽ là người dễ dàng đến với phép rửa của họ. Chúng có vẻ là chuyện của quá khứ; song, ngay cả hiện nay, cũng có những nhóm và những người tự cho mình được ơn soi sáng, và thậm chí, họ cô lập việc loan báo Tin Mừng bằng những lý luận méo mó của họ vốn chia tách thế giới thành những người “văn minh” và những kẻ “chưa được khai hóa”. Điều khiến họ cáu gắt và tức giận là có người cho rằng, có thể, Chúa cũng ưu ái những người “cầu bơ cầu bất”. Họ đánh giá một phần lớn gia đình nhân loại như thể những người này thuộc về một tầng lớp thấp kém hơn, vốn không thể đạt được trình độ phù hợp trong đời sống tri thức lẫn thiêng liêng theo những tiêu chuẩn của họ. Trên nền tảng này, những ai bị coi là tầng lớp thứ yếu sẽ ngày càng bị khinh miệt. Tất cả chuyện này cũng đã nổi cộm trong suốt Thượng Hội đồng Giám mục về khu vực Amazon.
18. Một số người có khuynh hướng nhắm đến một sự phân biệt rạch ròi giữa việc loan báo đức tin và công tác xã hội. Họ nói, chúng ta không được giản lược sứ mạng truyền giáo bằng một hình thức hoạt động xã hội. Điều đó có đáng để bận tâm không, thưa Đức Thánh Cha?
Tất cả những gì nằm trong phạm vi của các mối phúc và thực thi lòng thương xót thì đều phù hợp với sứ mạng truyền giáo, tất cả đã là loan báo Tin Mừng, là truyền giáo rồi. Giáo Hội không phải là một tổ chức phi chính phủ; nhưng Giáo Hội là điều gì khác hoàn toàn, Giáo Hội là một bệnh viện dã chiến, nơi tất cả mọi người được đón chào, như họ là họ, nơi mà những vết thương của mọi người được chữa lành. Và đó là một phần sứ mạng của Giáo Hội; mọi sự đều phụ thuộc vào tình yêu vốn làm động lòng những ai thực thi sứ mạng. Nếu một thừa sai giúp đào một cái giếng ở Mozambique vì người ấy ý thức rằng, những người mà anh ta rửa tội và giảng phúc âm cần đến nó, thì làm sao có thể nói rằng công việc đó không liên quan gì đến việc phúc âm hoá?
19. Thưa Đức Thánh Cha, đâu là những mối quan tâm và sự nhạy bén cần thực thi trong những tiến trình hướng đến việc làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng trổ sinh hoa trái giữa bối cảnh văn hóa xã hội đa dạng ngày nay?
Kitô giáo không chỉ khư khư giữ lấy một mô hình văn hóa kiểu mẫu nào đó. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết, “Trong khi giữ vững vẹn toàn chân lý cho chính mình, với lòng trung thành không thể lay chuyển để loan báo Tin Mừng và truyền thống của Giáo Hội, thì Kitô giáo cũng sẽ phản chiếu những khuôn mặt khác của các nền văn hóa và dân tộc mà ở đó, Kitô giáo được đón nhận và bén rễ”. Chúa Thánh Thần tô điểm Giáo Hội, bằng những ngôn ngữ mới của những cá nhân và cộng đồng đón nhận Tin Mừng. Vậy Giáo Hội, bằng cách mặc lấy những giá trị của các nền văn hóa khác nhau, trở nên “Tân nương điểm trang lộng lẫy” như ngôn sứ Isaia đã loan báo. Trên thực tế cũng có những nền văn hóa đã liên kết, gần gũi với việc rao giảng Tin Mừng và sự phát triển của tư tưởng Kitô giáo. Nhưng trong thời đại chúng ta, việc Giáo Hội nhớ rằng, sứ điệp mặc khải không được định hình bởi một nền văn hoá cụ thể nào lại càng trở nên khẩn thiết hơn. Và khi gặp gỡ những nền văn hóa mới, hay những nền văn hoá vốn đã không chấp nhận việc truyền giáo, thì chúng ta càng không được tìm cách áp đặt một hình thái văn hoá cứng nhắc nào bên cạnh việc phúc âm hoá. Cũng thế, trong sứ mạng truyền giáo ngày nay, việc không đem theo bao bị cồng kềnh thậm chí còn quan trọng hơn chính việc truyền giáo.
20. Về sứ mạng truyền giáo và tử đạo, Đức Thánh Cha có ý gì khi thường gợi lại mối liên hệ mật thiết thống nhất hai thực tại này?
Trong đời sống Kitô hữu, thực tế tử đạo và phúc âm hoá có chung một gốc gác, một nguồn mạch: khi tình yêu của Thiên Chúa rót vào tâm hồn chúng ta bằng việc Chúa Thánh Thần ban sức mạnh, lòng can đảm và sự ủi an. Tử đạo là cách diễn tả cực đại của sự nhận biết Chúa Kitô và làm chứng cho Ngài, vốn biểu trưng cho việc chu toàn sứ mạng và hoàn tất sứ vụ tông đồ. Tôi luôn nghĩ đến các anh em tu sĩ chính thống Coptic bị thảm sát tại Lybia, những người không ngừng thầm thĩ danh thánh Chúa Giêsu khi họ bị chém đầu. Tôi nghĩ đến những nữ tu của mẹ Têrêxa bị giết tại Yêmen, khi họ đang săn sóc các bệnh nhân Hồi Giáo trong một mái ấm dành cho những người già yếu tật nguyền. Các nữ tu ấy vẫn đang mặc những chiếc tạp dề lao động bên ngoài bộ tu phục khi bị sát hại; họ đều là những người chiến thắng chứ không phải các nạn nhân. Và cuộc tử đạo của họ, đến mức đổ máu, soi sáng cho cuộc tuẫn giáo mà mọi người có thể phải chịu trong đời sống, bằng việc làm chứng cho Chúa Kitô mỗi ngày. Chúng ta có thể thấy được điều ấy khi thăm viếng các nhà truyền giáo cao niên tại các nhà hưu dưỡng; họ thường bị hao mòn bởi cuộc đời đã trải qua. Một thừa sai kể với tôi rằng, nhiều người trong họ đã mất trí nhớ và chẳng còn nhớ một chút nào về những việc lành họ đã làm, “Nhưng điều ấy chẳng hề gì”, ngài nói với tôi, “Bởi vì Chúa nhớ rất kỹ”.
Nguồn: [https://www.vaticannews.va/]
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
2020
Thần học sau Công đồng Vaticanô II: Chuyển biến và tác động
Trong lịch sử Giáo Hội công giáo thì Công đồng Vaticanô II quan trọng vào bậc nhất. Vì đây là lần đầu tiên người ta thấy được tính cách phổ biến toàn cầu của Giáo Hội. Công đồng bắt đầu ngày 8.12.1962 và bế mạc ngày 8.12.1965. Có chừng 2400 vị hữu trách công giáo khắp địa cầu, như giám mục và các bề trên các dòng, mỗi vị đem theo một số chuyên gia về thần học làm cố vấn, lại có 31 quan sát viên thuộc các Giáo Hội Tin Lành, Chính Thống, v.v. và 42 giáo dân công giáo.
Quan trọng hơn nữa là vì Công đồng đã thảo luận và quyết nghị về những vấn đề then chốt. Về nội bộ thì xác định lại lý thuyết về Giáo Hội là “dân Chúa”, vai trò của giáo dân, tính đồng liêu của hàng giám mục, nghĩa là hàng giáo sĩ, từ trên xuống dưới, đã được lập để phục vụ cho dân Chúa, chứ không phải là đế vương trị dân. Lại xác định về Lời Chúa trong Thánh Kinh, và cải cách nghi lễ (ví dụ dùng tiếng nói thông thường của giáo dân) để cho giáo dân trực tiếp tham gia vào lễ nghi phụng tự. Đối với bên ngoài thì Công đồng mở rộng tay đón mời các Giáo Hội khác của đạo Kitô, và các tôn giáo khác, cũng như những người vô tôn giáo, đến gặp gỡ, đối thoại, trong tinh thần tự do tôn giáo, đồng thời đối với xã hội thì chủ trương hoạt động cho văn hóa, hòa bình và công bình trong thế giới.
Cái khẩu hiệu tiếng Ý đã được đưa ra để nói lên mục đích của Công đồng là Aggiornamento, người muốn nói chữ kiểu mới thì dịch là cập nhật hóa, muốn nói cho dễ hiểu thì là để thích thời. Nhưng vì sao lại phải cập nhật hóa? Chân lý là vĩnh viễn kia mà, cớ sao lại phải tùy gió phất cờ, như thiên hạ quen làm?
Như Đức giáo hoàng Gioan thứ XXIII đã tuyên bố, Công đồng này hạn hẹp vào mục đích là mục vụ hay là “tư giáo”[1], tức là tìm đường lối thích thời để dẫn dắt giáo hữu hành đạo, chứ không nhằm xác định thêm một lần nữa về phần giáo lý, như hầu hết các Công đồng trước đó đã làm. Cho nên dĩ nhiên là Công đồng phải có tác động vào suy tư thần học và nhất là vào đời sống giáo dân.
Cái đề tài nêu ra trên đây, ai cũng thừa hiểu là quá mênh mông và phải hạn hẹp nó lại rất nhiều, vì trong phạm vi bài này không thể nói tỉ mỉ về những điều suy tư lý thuyết mà các vị học giả chuyên môn đã viết ra trong gần nửa thế kỷ, với những pho sách khá nặng đồng cân[2]. Về mặt thực hành thì tôi chỉ quan sát được một vài biến chuyển quan trọng và tác động của Công đồng trong đời sống tôn giáo ở châu Âu, nói đúng ra là ở Pháp và ở Bỉ, và nói đúng hơn nữa là ở mấy xứ đạo và mấy phong trào, trong đó tôi có tham gia và đảm nhiệm một vài công tác nhỏ mọn.
Sau khi hạn định phạm vi như thế, tôi xin đưa ra, trong phần đầu, mấy lý do để giải thích vì sao Công đồng Vaticanô II đã được triệu tập. Sau đó tôi sẽ xin nói qua về sự chuyển hướng trong thần học cũng như trong dư luận của giáo dân. Và sau cùng thì xin trình bày một ít tác động trong đời sống tôn giáo.
- Mục đích hội nhập văn hóa
Tôn giáo và văn hóa
Con người ta sống một cách chủ động trong trời đất, chứ không phải chỉ là do ngoại giới định hình theo luật nhân quả, như các vật vô tri. Những cái không phải tự nhiên như thế, nhưng do con người làm ra, rồi dạy lại cho nhau, từ đời này sang đời khác, đó là văn hóa. Văn hóa gồm những cách làm ăn (kỹ thuật), phép vệ sinh, lối cư xử với nhau cho phải đạo (luân lý, chính trị), những điều cấm kỵ, những điều hiểu biết được về vũ trụ, những nhân sinh quan hay tôn giáo nói lên quan niệm về vị trí và mục đích của đời người. Thường thì các yếu tố đó làm thành một khối, lẫn lộn với nhau. Cũng phải lâu lắm người ta mới dần dần phân biệt được ra thánh nhiều phạm vi: tri thức, chính trị, luân lý, tôn giáo, và tìm ra cho mỗi phạm vi một lề lối hoạt động riêng.
Đoàn thể nào cũng có văn hóa, nhưng văn hóa không phải là một dữ kiện tự nhiên và bất biến, nhưng thay đổi nhờ vào kinh nghiệm, suy luận càng ngày càng giàu thêm, vì có giao lưu văn hóa với các đoàn thể khác. Khi biến chuyển thì có những yếu tố đã quá thời bị sa thải, lại có những yếu tố mới mẻ được thêm vào. Tất cả những yếu tố văn hóa đó được định hình và truyền đạt qua ngôn ngữ và ngôn tự. Biết thêm một ngôn ngữ là có thêm văn hóa, thay đổi hẳn ngôn ngữ là thay đổi văn hóa.
Nói chung thì không có tôn giáo nào biệt lập ra ngoài văn hóa cả, vì ý hướng tôn giáo chỉ có thực khi nó được cụ thể hóa trong tư tưởng và hành vi. Nhưng nói riêng thì một tôn giáo có thể ở trong văn hóa này, mà không ở trong văn hóa kia. Đó là trường hợp những đoàn thể chi tộc hay quốc gia: tôn giáo đồng nhất hẳn với văn hóa, mà không phân biêt: tôn giáo cũng là quốc giáo, hay là đạo riêng của chi tộc. Thường thì khi các đế quốc bành trướng, các dân tộc bị chiếm cũng dần dần đồng hóa, và thay đổi cả văn hóa lẫn tôn giáo. Ví dụ dân Ai Cập thời thượng cổ đã có ngôn ngữ riêng, họ đã để lại bao nhiêu là kim tự tháp với những tượng khổng lồ, thế mà ngày nay, trừ mươi triệu người theo đạo Kitô ra còn đa số, sau hơn nghìn năm bị người A Rập chiếm đóng và đồng hóa, thì chỉ còn nói tiếng A Rập, theo Hồi giáo và văn hóa của người A Rập chiến thắng, thậm chí còn tự xưng mình là người A Rập nữa. Như thế đã rõ là tôn giáo cũng được truyền bá theo một lối như văn hóa vậy.
Khi một tôn giáo thành ra tôn giáo cho cả loài người, chứ không riêng cho một chi tộc hay dân tộc nào, thì có thể ở trong tất cả các văn hóa, nhưng không đồng nhất với văn hóa riêng nào cả. Vì thế khi người ta lấy tôn giáo phổ biến làm quốc giáo, đồng nhất tôn giáo với dân tộc, thì làm sai lạc ý hướng đại đồng của tôn giáo.
Đạo Kitô là một trong những tôn giáo phổ biến, cho nên mới đặt vấn đề đi vào hay là ra ngoài một văn hóa nhất định.
Lúc đi vào văn hóa
Trong Lá thư về việc hội nhập văn hóa, cha Pedro Arrupe, bề trên cả Dòng Tên đã đưa ra một định nghĩa đầu tiên: “Hội nhập văn hóa là đem nếp sống và Tin Mừng của đạo Chúa vào một khu vực văn hóa cụ thể. Mục đích là để cho kinh nghiệm của đạo ấy, không những được biểu diễn bằng những yếu tố của văn hóa đó (nhưng như thế cũng mới chỉ là thích nghi một cách hời hợt bên ngoài), mà còn trở thành một nguyên lý có sức linh ứng, vừa là kim chỉ nam, vừa là khí lực làm cho văn hóa đó đổi lốt và được thống nhất lại, nghĩa là tác tạo lại cho nó thành một thực tại mới”[3].
Cụm từ hội nhập văn hóa (inculturation) mới được dùng trong Giáo Hội công giáo từ mấy chục năm nay. Mục đích là để nói lên cái chương trình đã có ngay từ khi đạo Chúa Kitô phát sinh: đó là đưa đạo vào đời hay là vào lòng dân tộc. Về phía Giáo Hội Tin Lành thì thường dùng chữ “contextualisation”, nó có nghĩa như kiểu ta nói “đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”. Thiết tưởng chữ đó, cũng như trước đây chữ “adaptation” là “thích nghi”, cũng chỉ mới nói lên được cái ý định mặc cho đạo Chúa một cái áo ngoài có vẻ khả quan hơn, chứ chưa nói lên hết cái ý định đi sâu về phần nội dung, vào trong văn hóa.
Tôn giáo và văn hóa liên kết với nhau theo hai chiều: một đàng thì ý hướng tôn giáo định hình lại cho các yếu tố văn hóa của người ta, đem lại cho nó một ý nghĩa mới; đàng khác thì văn hóa cũng làm cho ý hướng tôn giáo xuất hiện được trong những hình thức cụ thể thích hợp với truyền thống sẵn có.
Đạo Kitô đưa ý hướng nào vào văn hóa?
Đạo Chúa Kitô thừa tự được của đạo Do Thái, đó là do chủ trương thế tục hóa vũ trụ mà ra, nghĩa là không có vật gì trong vũ trụ này được coi là vị tuyệt đối.
Thực vậy, theo như thường lệ thì trong các tôn giáo người ta quan niệm rằng trong vũ trụ này cái gì, ở chỗ nào, cũng đầy dẫy các thần linh, như thần cây, thần núi, thần sông, thổ thần, táo thần. Có nhiều dân tộc coi mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cây cối, loài động vật, v.v. đều là thần cả. Ở Việt Nam thì những người quá cố cũng có thể thành thần. Nói thế khác, các thần linh tuy có phép thần thông linh dị, nhưng đều ở cùng trong một vũ trụ và ở lẫn với các vật khác.
Đạo Do Thái và đạo Kitô chủ trương thế tục hóa vũ trụ trong ba phạm vi: 1) không có vật gì trong thiên nhiên là thần thiêng cả, 2) không có người nào là thần thiêng cả, 3) cái sức phồn thực làm cho có sống động, có nảy nở, cũng không phải là thần thiêng. Cho nên vị thiên địa chân chủ, gọi tắt là Thiên Chúa, không xuất hiện nơi vật nào trong vũ trụ này cả; nhưng người ta phải nhìn vào vận mệnh và lịch sử của dân tộc riêng của dân tộc Do Thái hay của cá nhân, có lúc thăng lúc trầm, mới hiểu và nhận ra là có vị Thiên Chúa hướng dẫn người ta trên con đường đưa tới nhân đạo và đồng thời cũng tới thiên đạo nữa.
Nói thế khác, Thiên Chúa không phải là một yếu tố trong thiên nhiên, cũng không phải là toàn khối thiên nhiên lù lù ra đó, với sức mạnh có thể đè bẹp con người trong luật nhân quả khắt khe. Nhưng Thiên Chúa xuất hiện như là Lời nói[4], nói lên ý nghĩa và cứu cánh cuộc đời, và mời gọi lên đường theo ý nghĩa đó, mà lời nói thì không có chủ ý cưỡng bách.
Thêm vào đó đạo Kitô phân biệt hẳn hai phạm vi tôn giáo và chính trị[5]. Đó là điểm khó thực hiện, vì theo thường lề trong các văn hóa thì tôn giáo và chính trị vịn vào nhau: người ta hay dùng cái nọ để làm phương tiện cho cái kia.
Ngay từ buổi đầu đạo Kitô đã phải ra ngoài một văn hóa và đi vào một văn hóa. Phải ra ngoài, vì bao giờ tôn giáo cũng ở sẵn trong một văn hóa, và chỉ đi ra ngoài khi người ta ý thức được rằng nó là một thái độ vượt ra ngoài phạm vi chật hẹp của một văn hóa. Đạo Kitô đã phải vượt ra ngoài văn hóa gốc là văn hóa Do Thái, vì cho dù Đức Giêsu Kitô vốn xuất thân từ đạo Do Thái, nhưng đường lối và chủ trương có nhiều yếu tố mới, nhằm về toàn thể nhân loại, chứ không hạn hẹp vào trong một dân tộc Do Thái nữa, thêm vào đó thì vào khoảng năm 70 sau Tây lịch kỷ nguyên, chính các vị tư giáo Do Thái dần dần nhận ra như thế cho nên đã trục xuất đồ đệ của ngài ra khỏi giáo đường của họ.
Đi vào là đem Tin Mừng, đem Phúc Âm vào văn hóa Hi Lạp và Rôma, là văn hóa chung cho đế quốc Rôma vào thời đó, nghĩa là đi vào lòng một số người vốn có văn hóa Hi Lạp và Rôma, nhưng có cảm tình với đạo Kitô, đã được cảm hóa và tin theo. Những người này đã bị truy nã và bách hại trong gần ba thế kỷ. Lý do là vì họ đã bỏ không còn tôn thờ thần linh của các dân tộc được công nhận trong đế quốc, vốn chỉ là những vật tự nhiên hay là chỉ tượng trưng cho dục vọng hay ước vọng của con người; và nhất là vì tuy vẫn biết tôn kính hoàng đế, nhưng họ không tôn thờ vị hoàng đế đã tự tôn mình lên làm thần linh[6]. Trong trường hợp như thế việc phân biệt tôn giáo với chính trị càng là một việc hiển nhiên đối với người theo đạo Kitô.
Cũng nên nhắc qua rằng niềm tin vào vị Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ đã làm cho triết học Hy Lạp, nhất là trong học phái Platôn, đặt vấn đề về nguyên lý tối cao của vũ trụ.
Dần dần tuy có bị bách hại nặng nề, nhưng số người theo đạo vì niềm thân tín cũng tăng lên. Đến năm 312 thì hoàng đế Constantinô cải giáo theo đạo Kitô, và đạo Kitô được đưa lên làm đạo của nhà nước. Việc cải giáo là vấn đề thuộc về niềm thâm tín cá nhân, nhưng việc đưa một tôn giáo lên làm quốc giáo thì rất có thể là có dụng ý chính trị: dùng một tôn giáo duy nhất để thống nhất quốc gia, và để trị dân cho dễ. Nhà cầm quyền giúp đỡ cho tôn giáo bành trướng, ban phát đặc ân cho giáo sĩ cấp trên vào làm công việc nhà nước và làm tôi cho hoàng đế. Cũng như xưa kia Phật giáo được chính quyền hết lòng phò trợ thời hoàng đế Asoka bên Ấn độ, hay vào thời các triều Lý Trần ở Việt Nam vậy. Cái bất lợi cho tôn giáo là trong hoàn cảnh như thế, dân chúng theo đạo khi mà dân trí chưa cao, có thể là vì niềm thâm tín ít nhiều, nhưng chắc chắn một điều là làm theo như vua chúa thì vừa được yên thân, vừa có lợi là khác.
Cử chỉ của hoàng đế Constantinô đã làm cho đạo Kitô lại lẫn lộn tôn giáo với chính trị, như trong các văn hóa khác. Vướng vào đó, hàng giáo sĩ cao cấp được nhiều ân huệ, nhưng phải nhúng tay vào trong những việc trị nước. Cũng phải lâu lắm mới gỡ ra được, sau bao nhiêu cuộc giằng co giữa chính quyền và giáo quyền, và sau nhiều công cuộc cái cách trong nội bộ Giáo Hội? Vì thấy rằng trong tình trạng lẫn lộn đạo đời thì khó mà sống cho hợp với Phúc Âm, cho nên có một số người bỏ chốn đô thị mà đi tu hành trong sa mạc[7]. Và cũng từ đó các dòng tu, các dòng khổ tu, trong suốt lịch sử Giáo Hội, thường lên tiếng cảnh tỉnh, đòi phải cải cách, phải trở về nếp sống thanh bạch.
Như thế là từ Constantinô việc hội nhập văn hóa bắt đầu có điều thiếu sót.
Văn hóa Hy Lạp và Rôma định hình cho đạo Kitô như thế nào?
Chính vì đã thành công trong việc đi vào văn hóa của đế quốc Rôma như thế, cho nên đạo Kitô đã phát triển theo ba hình thức đặc biệt, mà sau này người ta gọi là hình thức Âu châu.
Một là chú trọng về mặt lý luận theo như văn hóa Hy Lạp, muốn tìm cho ra cái Lý trong trời đất, làm cho sự vật ăn khớp với nhau, thành một khối có mạch lạc và không mâu thuẫn, đồng thời cũng nhằm tới chỗ “tri hành nhất trí”. Vẫn biết văn hóa nào cũng biết đến cái Lý, nhưng cái đặc biệt của người Hy Lạp là họ quan niệm cái Lý không phải là của riêng của những bậc thượng trí, nhưng là của mọi người và chỉ có thể đạt được khi người ta bình đẳng đối thoại với nhau[8]. Khi người Hy Lạp theo đạo, thì vốn đã quen lý luận và đối thoại theo truyền thống lý luận và phê bình trong triết học của họ từ bốn thế kỷ, cho nên dĩ nhiên là họ suy nghĩ và trình bày tôn giáo mới theo đường lối tư tưởng đã quen như thế. Dùng cái lý sự triết học và tinh thần phê bình đã làm cho đạo Kitô tránh được những niềm tin vô lý sự, và người theo đạo cũng phải lấy lẽ mà suy xét, chứ không phải ai dạy gì cũng nghe, ai bảo gì cũng vâng. Kết quả là đạo Kitô đã phát sinh ra nhiều hệ thống lý thuyết đồ sộ về thần học. Cũng nên nói thêm là: đạo Kitô cũng áp dụng phép tu từ (rhétorique) của văn hóa Hy Lạp và Rôma vào việc giảng thuyết, để làm cho người nghe cảm phục.
Hai là chú trọng vào việc tổ chức cộng đồng theo như tinh thần pháp lý của người Rôma. Kết quả là đạo Kitô, nhất là trong Giáo Hội công giáo Rôma, đã có những bộ luật để tập trung và tổ chức cộng đồng cho có quy củ, có hệ thống chặt chẽ, theo nguyên tắc pháp lý. Cái ưu điểm ấy đã hạn chế được cái nạn trăm bè bảy mối, như ta thấy trong môn phái Tin Lành bên Hoa Kỳ ngày nay: không ai cấm được ai tự tiện đứng ra thành lập một Giáo Hội, và cho rằng mình mới thật là chính tông!
Ba là nghi lễ tôn giáo, tuy là do nguồn gốc Do Thái, nhưng đã theo như nghi lễ trong triều đình của hoàng đế mà phát triển ra những hình thức thật long trọng. Như thế cũng không phải là hoàn toàn vô lý, vì lẽ rằng Thiên Chúa là vị cao sang hơn hoàng đế bội phần, cho nên nghi lễ phụng tự cũng phải long trọng không kém.
Ba hình thức đó gắn liền với nhau, và thêm vào đó thì Giáo Hội công giáo Rôma lại chủ trương dùng tiếng La tinh là ngôn ngữ chung để thống nhất tư tưởng, tổ chức và lễ nghi. Có thể nói là trong việc hội nhập văn hóa thì đó là một thành công vừa lớn lại vừa lâu bền. Vì sau khi đế quốc Rôma sụp đổ ở Tây âu, thì các chi tộc lên tranh giành đế quốc, mà từ vua đến dân đều thiếu văn hóa, không biết đọc biết viết, cho nên muốn có văn hóa thì phải đi học chữ Latinh là ngôn ngữ do các tu sĩ dùng trong Giáo Hội. Vì thế mà vai trò của Giáo Hội đã trở thành quan trọng, Mater et Magistra, vừa là mẹ vừa là thầy, dạy cho các dân tộc, dạy cho họ biết đọc biết viết và thâu nhận di sản tôn giáo và di sản văn hóa thế tục cổ điển của người Hy Lạp và Rôma. Từ đó đạo Kitô đã thấm nhuần di sản văn hóa Âu châu trong hơn một nghìn năm: nghệ thuật, như hội họa, kiến trúc, điêu khắc, văn chương, âm nhạc, ca kịch, v.v., đều mang dấu vết đạo Kitô. Cho đến nỗi người ta cứ tưởng đó là đạo của riêng người Âu châu.
Điều thiếu sót vừa nói trên đây là Giáo Hội liên kết với nhà cầm quyền, trước thì là vì hoàn cảnh, sau thì quen đi, mà quên đi rằng đó là điều không nên. Kết quả không ngờ là: khi đạo Kitô nảy ra nhiều tông phái, mỗi tông phái lại bị chính quyền chi phối[9]. Rồi khi các nước đánh nhau, người ta gọi ngay là chiến tranh tôn giáo. Để tránh cái nạn đó, lý thuyết gia về nhân quyền là Grotius (Hugo de Groot, 1583- 1645), người Hòa-lan, đã chủ trương rằng từ nay vấn đề chính trị về nhân quyền phải được giải quyết etsi Deus non daretur, nghĩa là: như thể là không có Thiên Chúa, hay là: cho dù không có Thiên Chúa. Thế là lại trở về lập trường giáo tổ đạo Kitô, là phải tách rời tôn giáo với chính trị.
Ngoài ra, lối hội nhập văn hóa này còn có một nhược điểm quan trọng: nó là hình thức dùng trong giới giáo sĩ và tu sĩ có ăn học, chứ dân chúng thiếu học và không biết tiếng La tinh, thì không thể nào hiểu được những lý thuyết cao siêu về Thiên Chúa, những giới luật và những nghi lễ rườm rà[10]. Biết vậy cho nên, song song với giáo lý và lễ nghi chính thức, Giáo Hội công giáo đã đặt ra cho dân chúng một lối sùng đạo có tính cách bình dân, dễ hiểu, dễ thực hành, ví dụ như: đọc kinh lần hạt bằng tiếng nói thông thường, rước kiệu, hành hương, chung quanh việc tôn sùng Đức Bà Maria và các thánh. Tất cả được ghi vào các cuốn Sách Kinh, còn về giáo lý thì tóm tắt trong cuốn Sách Bổn. Khi đạo được truyền vào nước Việt Nam thì hai cuốn sách Thánh giáo kinh nguyện và Thánh giáo yếu lý đã được soạn ra bằng chữ Nôm tiếng Việt rất sớm. Thêm vào đó còn có các sách truyện các thánh và các sách ngắm, giúp suy niệm về niềm tin và lối hành đạo. Có lẽ người công giáo Việt Nam là những người Việt Nam đầu tiên được dùng các sách về đạo lý, viết ra bằng tiếng Việt (cả Nôm lẫn Quốc ngữ) một cách có hệ thống.
Sau cùng thì tuy đã thành công trong việc đi vào văn hóa đế quốc Rôma, nhưng đạo Kitô vẫn không đồng hóa với văn hóa đó. Đàng khác, chính cái thành công đó cũng lại là cái trở ngại khi cần phải đi ra ngoài văn hóa đó, để đi vào một văn hóa mới.
Lúc ra ngoài văn hóa
Có hai trường hợp làm cho ta thấy cần phải ra ngoài, để lại có thể đi vào. Một là khi các dân tộc ở Âu châu, như Ý, Đức, Pháp, Anh, v.v., đã học được văn hóa cổ điển Rôma, đã trưởng thành, đã thành lập văn hóa riêng và viết ra ngôn ngữ của mình, nhất là từ thế kỷ XV. Hai là khi muốn truyền đạo sang các nước ở ngoài Âu châu, như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam, v.v. Thế nhưng vẫn chưa hết. Chính ở Âu châu cũng có biến đổi rất quan trọng về văn hóa: đó là từ thế kỷ XVI trở đi, cá nhân đã dần dần ý thức được về lý tính và tự do, cho nên không còn muốn cho quyền bính tôn giáo nào chi phối đời sống thế tục, như chính trị, khoa học, triết học, luân thường đạo lý nữa. Và đó là lúc bắt đầu phong trào thế tục hóa (sécularisation), đi từ lớp trí thức rồi dần dần đi xuống tới lớp bình dân.
Cách mạng Pháp (1789) đã đánh đổ chế độ quân chủ, Giáo Hội công giáo cũng bị vạ lây. Do đó có phong trào bách hại tôn giáo. Vì đã quen với nề nếp đã có từ nghìn năm, nên Giáo Hội công giáo không thể thích nghi vào văn hóa mới đang bài xích tôn giáo ngay được. Đầu thế kỷ XX thì nhà nước và Giáo Hội tách rời nhau. Ngược lại, người ta không thấy tôn giáo dưới hình thức cũ còn là cần và thích thời, cho nên trí thức cũng như bình dân, có khá đông người đi ra ngoài đạo Kitô. Mà chính vì có phân biệt chính quyền với giáo quyền, cho nên có bỏ đạo cũng không sợ bị áp lực hay bị truy tố, như ngày nay ta còn thấy ở nhiều nước. Dần dần đi tới hiện tượng mà, như đã nói trên đây, nhà xã hội học Hervieu-Léger gọi là exculturation du catholicisme: đạo công giáo đi ra ngoài văn hóa Âu châu.
Hiện tượng đó, không phải là không có nhiều người trong Giáo Hội, ngay từ thế kỷ XIX, đã tiên đoán và đánh trống báo động. Nhưng thường thì họ không ở trong địa vị lãnh đạo, cho nên phần thì họ được ít người theo, phần thì họ bị cấp trên nghi kỵ và ngăn cấm. Thiết tưởng chỉ cần nhắc qua đến phong trào canh tân (modernisme) vào đầu thế kỷ XX, phong trào các linh mục làm công nhân ở Pháp, và đến một vài nhà tư tưởng và thần học, riêng ở nước Pháp thì có Pierre Teilhard de Chardin, Henri de Lubac, Yves Congar, v.v. là những người trong một thời gian khá lâu đã bị cấp trên làm khó dễ, cấm không cho phát biểu ý kiến. Nhưng những ý kiến mà họ cưu mang đã có kết quả: chính những vị như thế đã được cử làm chuyên viên trong Công đồng Vaticanô II.
Công đồng này được triệu tập chính vì Giáo Hội công giáo đã quyết định xét lại toàn bộ các vấn đề phải cập nhật hóa, sao cho thích thời, theo đúng như khẩu hiệu: Giáo Hội thời nào cũng phải cải cách (ecclesia semper reformanda). Vì rằng đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo, đạo có gần gũi với nếp sinh hoạt và văn hóa của con người, thì mới có thể làm con đường cho người ta đi.
- Chuyển biến và tác động của Công đồng trong đời sống Kitô hữu ở châu Âu
Bây giờ xin nói qua về việc thi hành Công đồng và về sự chuyển hướng trong suy tư thần học, sau đó về mặt thực hành sẽ trình bày một hướng đi đang thành hình.
Việc thi hành các quyết nghị của Công đồng
Việc cải cách bao giờ cũng gặp trở ngại do thói quen đã có từ nghìn năm. Muốn thi hành tinh thần đồng liêu trong ban giám mục đoàn, thì va chạm vào cái thói quen tập trung quyền hành về tín lý, lập pháp và lễ nghi ở trong tay một vị giáo hoàng là giám mục thành Rôma. Muốn đưa đạo vào đời, vào văn hóa, là việc phải lẽ, nhưng có người lại sợ rằng bỏ lối cũ đã quen thì có thể đi lạc đường. Ngoài ra các nhà chuyên môn nghiên cứu và suy tư về thần học, thường là ở bậc giáo sư đại học, cũng thường gặp trở ngại về phía một số giám mục tuy không chuyên môn nhưng lại có quyền kiểm duyệt. Về điểm này, chỉ xin nhắc đến tên một vài vị đã bị giáo triều Rôma làm khó dễ: Hans Kueng, Edward Schillebeeckx, Bernhard Haering, Gustavo Gutierrez, Leonardo Boff, v.v. Riêng cha Tissa Balasuriya, người đảo Sri-Lanka (Tích-lan), đi tu dòng Đức Bà Vô Nhiễm, thì vào ngày 2/1/1997 đã bị án loại ra khỏi giáo hội công giáo, vì viết một cuốn sách về Đức Bà (Mary and Human Liberation, 1990): cũng may là sau một năm thì được xét lại và được phá án.
Nói chung thì đức giáo hoàng Phao-lô thứ VI (1963-1978), là người đã kết thúc Công đồng, tuy có nghi ngại về những biến chuyển sau Công đồng, nhưng đã cố gắng thi hành các quyết nghị, nhất là đã cho hoàn thành Sách Lễ và Sách Các Phép mới. Còn đức giáo hoàng Gioan Phao-lô thứ II (1978-2005), thì tuy không tiếc lời ca tụng Công đồng, nhưng lại tổ chức tập trung quyền bính trong một tay mình cả. Dưới triều đại của ngài thì đã hoàn thành được bộ Giáo Luật mới (1983) và Sách Bổn (Giáo lý) của Giáo Hội Công giáo (1992). Nhưng cũng dưới triều đại này thì giám mục Marcel Lefèbvre bị loại ra khỏi Giáo Hội, vì không chấp nhận Công đồng, còn giám mục Jacques Gaillot thì bị cách chức (1995), vì đường lối mục vụ không được chấp nhận.
Một vài phương hướng thần học
Sau Công đồng thì các nhà thần học suy tư và nghiên cứu tự do hơn về các đề tài đã được nêu ra: về tổ chức và phẩm trật Giáo Hội, về đối thoại và gặp gỡ các Giáo Hội và tôn giáo khác, v.v. Ở đây tôi chỉ nhắc qua tên một vài nhà thần học mà tôi đã được đọc bằng tiếng Pháp, và thấy là đọc được, vì giúp cho giáo dân thay đổi được lối nhìn cho hợp Phúc Âm hơn, đồng thời vạch ra được trong mấy nước nói tiếng Pháp một lối sống đạo và truyền đạo thích thời.
Trước hết cũng nên nhắc đến tên mấy nhà thần học đã bị khó dễ trước Công đồng, nhưng từ Công đồng trở đi thì đã được hồi phục, như: Henri de Lubac, Yves Congar, Pierre Teilhard de Chardin.
Tôi không có ý nói đến những nhà thần học đã điều chỉnh lại quan niệm lệch lạc về Thiên Chúa và về đạo Chúa, vì có khá nhiều người, và vì tôi cũng không biết hết[11]. Tuy nhiên, ngày nay ai theo dõi một chút cũng thấy rằng đạo công giáo không quan niệm Thiên Chúa như là một “ông ba bị”, chỉ biết lấy phép thần thông để ra oai, chỉ biết xét nét và sẵn sàng ra tay trừng phạt, nhưng ngược lại, đã tìm cách chia sẻ thân phận làm người, gần gũi với loài người. Như thế là đi sát với những sự tích về người cha nhân từ kể trong Phúc Âm. Trái hẳn lại với những điều suy luận trừu tượng không có liên hệ đến đời sống, và với những quan niệm chịu ảnh hưởng của tôn giáo cổ sơ, đã đưa đến một thứ tôn giáo căn cứ vào thái độ sợ sệt (pastorale de la peur), làm cho người ta tuy có nghe nói đến Tin Mừng cứu độ, nhưng vẫn mang nặng cái mặc cảm tội lỗi, sợ bị trừng trị trong địa ngục, cũng như đó đây người ta đã sợ thập điện Diêm vương vậy.
Tôi để ý riêng về vấn đề Giáo Hội, vì những biến chuyển trong đời sống giáo hữu Âu châu đều tùy vào đó cả. Dĩ nhiên những tác giả mà tôi nêu ra đây chỉ là một số nhỏ, nhưng họ có thể làm tiêu biểu cho phương hướng mới.
Những nhà thần học như: Hans Kueng (Tuebingen), Edward Schillebeeckx (Nijmegen), Jean Rigal (Toulouse), Henri Denis[12] (Lyon), v.v. đã xuất bản nhiều sách về Giáo Hội. Họ căn cứ vào lịch sử để nói lên vì những lý do gì và trong những hoàn cảnh nào mà Giáo Hội đã biến chuyển, đi từ quan niệm là dân Chúa, cho đến lúc hàng giáo phẩm được lập ra để phục vụ cho dân Chúa, thế mà đã dần dần chuyển thành ra như là một loại công chức của giáo triều Rôma[13], làm cho không những giáo dân mất quyền ăn nói, mà cả hàng giám mục, linh mục cũng thành ra như chư hầu của vị giáo hoàng.
Ý thức được luồng gió mới, giáo dân Âu châu rất lấy làm phấn khởi, và đã đứng ra thành lập các hiệp hội để tham gia thảo luận, trao đổi ý kiến, để cùng định hướng cho đời sống của cộng đồng Giáo Hội. Có lẽ hiệp hội lớn nhất và có qui củ nhất là Ủy ban trung ương của giáo dân công giáo Đức (Zentralkomitee der deutschen Katholiken, Bonn). Ngoài ra còn có một vài phong trào muốn đi xa hơn như Integrierte Gemeinde và Wir sind Kirche (chúng tôi là Giáo Hội). Ở Pháp thì từ Hội trường các cộng đồng đạo Kitô (Forum des communautés chrétiennes), thì đã nảy ra một nhóm riêng, có ra một tạp chí liên lạc và trao đổi Croyants en liberté (17 số, 1990-1994), sau đó lại lập ra một tổ chức liên hiệp gần 50 tổ chức, có tạp chí thông tin và trao đổi gọi là Les réseaux des Parvis. Chrétiens en liberté pour d’autres visages d’Eglise, Paris, 1998.
Đấy là nói về những hiệp hội có tên tuổi, thường lên tiếng trong các cơ quan ngôn luận, chứ thực ra thì còn có nhiều hiệp hội đi sâu vào đời sống nội tâm để tu đức; ngoài ra giáo dân tham gia rất nhiều trong các xứ đạo, và đảm đang việc dạy giáo lý cho nhi đồng cũng như cho người lớn muốn tòng giáo, tổ chức tang lễ, v.v. Thế rồi lại có một số khá đông giáo dân đi học và lấy bằng cấp thần học. Chẳng hạn như ở Lyon và ở Lille thì khoa trưởng khoa thần học là giáo dân, còn ở khoa thần học Angers thì có một nữ tu dòng Đa- minh làm khoa trưởng. Viện trưởng viện đại học công giáo Lille hiện nay là một bà trạc độ hơn 50 tuổi.
Hoàn cảnh rất thuận tiện là vì số linh mục ngày càng sút xuống. Các giám mục phải tổ chức lại cơ cấu “tư giáo”, giao cho các linh mục trách nhiệm càng ngày càng nặng, mỗi vị phải coi hai, ba, hay mười, mười lăm xứ đạo, mà chưa nghĩ ngay đến việc giao trách nhiệm cho giáo dân. Đôi khi cũng có làm, nhưng về phía giáo quyền vẫn còn nhiều vị cứ coi là cực chẳng đã mới phải làm như thế. Ví dụ văn kiện Rôma ngày 15/8/1997 về Việc cộng tác giữa giáo dân và các linh mục, đã dạy rằng “tư giáo” là công tác của những vị đã có chức thánh, giáo dân phải có ủy quyền mới được làm[14]. Văn kiện này bị khá nhiều giám mục ở Đức và ở Áo và nhiều nhà thần học phản đối, vì lý do là chưa chắc đã hợp với tín lý, đồng thời lại không xét gì đến thực trạng các xứ đạo ở Âu châu. Ngày nay không ai nói đến văn kiện đó nữa.
Hiện nay các xứ đạo thường không còn do một cha chính xứ có toàn quyền sai bảo, nhưng do một ủy ban “tư giáo” (équipe d’animation pastorale) đảm nhiệm, mỗi ủy ban gồm có một linh mục và bốn giáo dân cộng tác với linh mục, hai nam hai nữ, được giám mục ủy nhiệm trong hai năm.
Những hoàn cảnh mới mà Công đồng chưa biết tới
Công đồng bế mạc được ba năm thì ở Âu Mỹ có cuộc cách mệnh văn hóa: năm 1968, thanh niên, nhất là trong giới sinh viên, đứng lên phản đối các thứ uy quyền.
Vẫn biết là uy quyền của Giáo Hội ở Pháp thì đã mất dần từ khi có Cách Mệnh Pháp năm 1789. Xã hội dân sự thì thành ra thế tục hóa, và đến năm 1905 thì nhà nước và Giáo Hội được tách rời ra như hai thực tế biệt lập: ở Pháp cũng như ở nhiều nước Âu châu thì không còn có quốc giáo, như hiện có trong nhiều nước khác, nhất là trong các nước theo Hồi giáo, hay là như có một số người đó đây vẫn đang mơ ước. Nhưng nay thì cả uy quyền của nhà nước cũng bị sút giá, lớp người làm thầy dạy học, kể cả ở cấp đại học, cũng mất uy quyền. Tất cả các uy quyền đều phải hạ bệ, các định chế thì bị nghi kỵ là áp chế tự do cá nhân. Cho đến nay xã hội Âu châu vẫn còn tìm tiêu chuẩn pháp lý và đạo đức rõ rệt để người ta có thể chung sống với nhau. Đó là một kinh nghiệm đã đánh mạnh vào tâm tư vị giáo sư Joseph Ratzinger, hiện nay là giáo hoàng Biển Đức thứ XVI. Mất uy quyền rồi thì từ nay ai nấy phải tìm gây lại uy tín nhờ vào sở trường và vào cách ăn ở của mình mà thôi.
Thêm vào đó thì công giáo lại bị khủng hoảng nội bộ: một số khá đông linh mục cũng hồi tục. Từ nay số chủng sinh học tập làm linh mục, số người vào nhà tập của các nhà dòng nam nữ, cũng đều xuống dốc. Do đó các chủng viện và nhà tập để trống đã được đổi thành những trung tâm tổ chức những khóa hội thảo, những lớp huấn luyện thích thời (hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa) về Thánh Kinh, giáo lý, về việc đối thoại giữa các tôn giáo. Những trung tâm đó ngày nay do giáo dân đảm nhiệm, có linh mục hay thầy dòng làm cố vấn về tôn giáo, và hoạt động có kết quả, thu hút được nhiều người đến học hỏi.
Từ mấy chục năm nay ở Pháp, tôi nhận thấy rằng đại đa số các chủng sinh đều vào nhà trường muộn, sau khi họ đã có nghề nghiệp làm ăn, hay là đã có bằng cấp đại học. Họ muốn làm linh mục không phải là vì ở ngoài đời họ không làm được nghề ngỗng gì. Tôi biết có người đã làm kỹ sư có lương cao, khi nghe tiếng Chúa gọi, họ biết rõ là họ sẽ chỉ sống bằng đồng lương tối thiểu, do một thiểu số người công giáo đóng góp cung cấp mà thôi, nhưng họ vẫn quyết định. Trong hoàn cảnh như thế, những người có chí thì càng có ý thức hơn.
Từ nay những người có ăn học, biết tự lập và ý thức được tự do như thế, không phải là hạng người bảo sao nghe vậy, không phải là đầy tớ để sai vặt. Muốn bảo được giáo dân, hàng giáo sĩ phải có uy tín, muốn bảo được các linh mục thời nay, hàng giám mục cũng phải có uy tín. Có uy tín mới thuyết phục được những con người tự do. Vì thế việc truyền đạo đang chuyển sang hướng mới.
Cũng nên chú ý là: chính vì tình trạng văn hóa Âu Mỹ: 1) đã phân biệt tôn giáo với các phạm vi thế tục khác, 2) đã đề cao tự do và trách nhiệm của cá nhân, 3) đã duy lý về mặt tư tưởng và 4) duy nghiệm về mặt thực hành, cho nên đòi phải có lối mục vụ mới như thế. Chứ ở những nước mà tôn giáo vẫn còn lẫn lộn với văn hóa và chính trị, người dân chưa ý thức được tự do, chưa tự lập về mặt suy tư, thì xã hội, tập tục và người cầm quyền định đoạt về tất cả nếp sống cũng như về tôn giáo, về quốc giáo.
Hướng đi đang thành hình
Hướng đi mới đã manh nha từ lâu, do sáng kiến của nhiều người có lòng ưu tư về đạo Chúa. Từ hơn mười năm nay nhiều giáo phận, như Tournai (Bỉ), Poitiers (Pháp), v.v. đã thí nghiệm hướng đi mới. Ở trong cùng một hoàn cảnh, cùng có một tinh thần phục vụ, lại cùng do một thần khí của Chúa hướng dẫn, cho nên những sáng kiến song song với nhau, dần dần sát cánh nhau và vạch ra một lối đi chung. Lối đi chung này đã được đem ra thí nghiệm ở nhiều nơi, nhưng về mặt lý thuyết thì cũng mới được trình bày một cách tổng quát, có mạch lạc, trong hai cuốn sách bằng Pháp văn, viết tập thể, gồm nhiều tác giả người Bỉ, Pháp và Canada, do Philippe Bacq và Christoph Theobald chủ trương, dưới một cụm từ còn mới mẻ là “pastorale d’engendrement”[15]. Trong công việc này các cha dòng Tên (Jésuites) đóng vai trò quan trọng, vì một là có liên hệ chặt chẽ với Viện nghiên cứu về phương pháp dạy giáo lý Lumen vitae (Bruxelles, Bỉ) của dòng Tên, hai là cha dòng Tên, Christoph Theobald, mới cho xuất bản về hướng đi mới một cuốn sách lý thuyết gồm hai tập[16].
Lối đi này vừa là hội nhập văn hóa, đi vào văn hóa mới, lại vừa là trở về nguồn đã có trong Phúc Âm. Tôi xin giới thiệu, nhưng không thể trình bày tỉ mỉ về hướng đi này, chỉ xin tóm tắt mấy điểm chủ chốt.
Một là: Nhận định lại tình thế.
Thoạt nhìn vào đạo công giáo ngày nay ở Âu châu, thì thấy không có vẻ gì là khả quan. Sau Cách Mệnh Pháp và sau khi tách rời tôn giáo với chính trị, người ta không cần bám vào tôn giáo mới làm ăn nên, mới lên thang trong xã hội. Mà ngược lại thì có. Cho nên uy quyền của Giáo Hội đã mất, số người giữ đạo cũng bớt đi nhiều. Trong khi đó thì thấy nhiều tôn giáo hay Giáo Hội khác đang ồ ạt lôi cuốn quần chúng, có vẻ là rất thịnh hành, căn cứ vào một vài khẩu hiệu đơn sơ, theo phương pháp chiêu hàng ngày nay. Có điều dị biệt thật là quan trọng, nhưng ít ai để ý trong khi so sánh, là người Âu châu đã ý thức được tự do cá nhân, tự do tôn giáo: ngày nay người ta theo đạo Kitô không còn phải là vì thói quen, vì áp lực xã hội[17], hay là vì quyền lợi, vì danh lợi, như trường hợp ở nhiều xã hội xưa nay. Hiện nay có nhiều người biết rõ như thế, nhưng vẫn xin tòng giáo, và nhẫn nại học tập hai năm, cho nên lễ nhập đạo của họ có ý nghĩa sâu xa, chứ không còn phải như kiểu “nước đổ đầu vịt” nữa. Như vậy cũng đủ thấy Giáo Hội công giáo không phải là không còn uy tín.
Những người chủ trương lối đi mới thì nhận định rằng đây là “một cơ hội mới cho Phúc Âm”, vì nó hợp với quyền tự do tôn giáo: tôn giáo không còn phải là một yếu tố mà nhà nước hay xã hội bắt buộc người ta phải theo, như các định chế hay tập quán thế tục khác. Cũng là hợp với ý của Đức Giêsu chủ trương tách rời tôn giáo với chính trị. Và cũng đúng như quan niệm của vị giáo phụ Tertullianô (thế kỷ II-III): “người ta là môn đồ của đức Kitô không phải là do bẩm sinh, nhưng là vì đã trở thành như thế (Christiani non nascuntur, fiunt) ”. Cho nên việc theo đạo là do niềm thâm tín của cá nhân, và việc truyền giáo là việc lấy nếp sống mà chứng thực, lấy lời lẽ mà thuyết phục từng người, chứ không phải là tuyên truyền ầm ĩ như chiêu hàng, để lôi cuốn từng loạt quần chúng, càng không phải là dùng áp lực bắt người dân phải theo.
Có mấy điều có vẻ đáng lo ngại, là: đạo công giáo, tuy trước đây đã định hình sâu đậm cho văn hóa Âu châu, nhưng nay cả người ngoại cuộc lẫn người trong cuộc (sécularisation interne) đều kể như là đạo đã ra ngoài văn hóa đó. Nhưng cũng phải nhận rằng những lối hội nhập trước đây đã thích thời trong văn hóa cũ, thì chưa hẳn là bây giờ còn thích thời. Vấn đề không phải là chú trọng vào những bản thống kê hiện nay về tình hình tôn giáo, theo một số tiêu chuẩn bề ngoài như xưa, rồi thất vọng trong tinh thần hoài cổ, mà không xét đến những hình thức sống đạo sâu xa của giáo dân đang nảy nở. Cho nên nay có cơ hội mới để trở về nguồn là Phúc Âm, và dùng lối mới để đưa Phúc Âm vào văn hóa mới, đang đề cao con người cá nhân biết suy nghĩ, biết phê bình và định đoạt lấy cho mình.
Hai là: Xét lại con đường đã đi [18].
Cần phải nhận định ngay là những hình thức sống đạo và truyền đạo trước đây là những nỗ lực hội nhập văn hóa đã thành công ở Âu châu.
“Gặp thời thế thế thì phải thế”. Thực vậy, từ thế kỷ V trở đi, đạo và đời hợp nhất ở Âu châu, tôn giáo không tách rời ra khỏi chính trị và văn hóa chung, cho nên người ta truyền đạt văn hóa theo lối “encadrement”, là tập cho ai nấy “vào khuôn vào phép” bề ngoài. Trong tổ chức “tư giáo”, thì khuôn phép của đạo Kitô gồm có ba yếu tố: a) một số tín điều cần phải biết, tóm tắt trong Kinh Tin Kính, và trong Sách Bổn; b) một số điều luật phải giữ trong đời sống cá nhân và trong tổ chức Giáo Hội; c) một số nghi lễ phụng tự phải cử hành cho phải phép, cho thành phép. Tất cả đều tựa vào Phúc Âm, chứ không phải do ai tự tiện đặt ra. Điều thiều sót là ít ai để ý đến kinh nghiệm và niềm thâm tín của cá nhân. Tuy nhiên, cũng như trong các xã hội khác, khi đa số dân chúng còn nghèo đói và thiếu học, thì dễ tin theo tôn giáo của những người lãnh đạo, hoặc là vì họ có uy tín, hoặc là vì họ có uy quyền hay võ lực bắt buộc phải theo, cho nên người ta “vào khuôn vào phép” đã có sẵn một cách rất tự nhiên.
Khi dân trí tới mức độ cao hơn, khi cá nhân có học thức, biết suy luận và tự do định đoạt lấy cho mình, thì tất nhiên phải trình bày tôn giáo sao cho hợp lý hợp tình. Loại văn “minh giáo” (apologétique) đã được phát triển ngay từ khi đạo được truyền vào xã hội Hy Lạp, thì lại càng thích thời. Từ Cách Mệnh Pháp trở đi, thì đạo công giáo đã phải nghĩ đến những đường lối mới để truyền đạo, nhất là để ý đến việc giáo dục thanh thiếu niên, và việc bênh vực cho lớp công nhân trong chế độ tư bản đang lên.
Sau Thế Chiến thứ II, thì đường lối “tư giáo” là đón tiếp (accueil): là phải gần gũi với người ta, tìm hiểu lối suy luận, ước vọng bên trong của những cá nhân tự do, mà không ai lấy khuôn phép bên ngoài mà bắt buộc được. Có một đường lối khiêm tốn hơn, mà tôi thấy các linh mục làm công nhân, cũng như hội dòng tiểu đệ và tiểu muội theo tinh thần Charles de Foucauld[19], đã dùng, là chôn vùi (enfouissement), nghĩa là làm chứng nhân sống đạo ở giữa lớp dân nghèo, một cách âm thầm như hạt giống chôn vùi trong đồng ruộng, như Đức Giêsu đã sống ở Nazareth (30 năm ở cùng Đức Mẹ), chờ ngày Chúa cho đâm hoa kết quả.
Vào năm 1996 thì Hội đồng Giám mục Pháp viết một lá thư cho giáo hữu[20] trong đó có đưa ra phương pháp “tư giáo” mới, là đề nghị (proposition). Đề nghị tức là muốn lên tiếng, chứ không im lặng nữa. Cũng là hợp lẽ, vì không nói ra thì ai biết mình muốn gì, nhưng đối với người có tự do, thì mình chỉ có thể đề nghị niềm tin của mình mà thôi. Thế nhưng các tác giả theo hướng đi mới thì lại cho rằng như thế vẫn còn là bất cập, vì với thái độ đó, mình vẫn còn vô tình cho rằng mình ở vị trí cao hơn, có những điều muốn chia sẻ với những người không biết, mình không hỏi han đối thoại, mà đã biết sẵn câu trả lời rồi!
Ngoài ra trong thư vừa nhắc tới còn đưa ra một phương pháp nữa là đưa đường (initiation): làm sao cho xứ đạo có một nếp sống cộng đồng trong tình anh em, rồi đưa đường cho người ta tham gia vào đó, cũng như vào các lễ nghi, để dần dần kinh nghiệm được thế nào là nếp sống của đồ đệ của Đức Giêsu (Xem trong thư, trang 99-100).
Vấn đề bây giờ không phải là lôi cuốn người ta vào khuôn vào phép của tổ chức Giáo Hội, như là những hội viên vô danh, nhưng là làm cho người ta phát huy được cá tính trong khi đối thoại, trao đổi với người khác, và cùng sinh lại thành người mới. Vì thế những người chủ trương hướng đi mới muốn là phải đi ngược qua những yếu tố “khuôn phép”, để trở về nguồn, trở về những câu truyện được kể lại trong Tin Mừng Phúc Am, có thể đem lại sinh khí cho đời người.
Ba là: Hướng đi mới.[21]
Như ai ấy đều biết, cái tình trạng mới của xã hội Âu châu bây giờ là: Tổ chức xã hội đã thế tục hóa, cho nên không còn phải là tay vịn cho tôn giáo nào cả, vì cá nhân đã tự lập, suy nghĩ và tự do định đoạt lấy cho mình về niềm tin tưởng. Trong tình trạng đa nguyên trong phạm vi tin tưởng, việc “tư giáo” không còn phải là sản xuất một loạt tín đồ giống nhau như cùng đúc theo một cái khuôn đã có sẵn.
Lối “tư giáo” theo hướng đi mới này gọi là “pastorale d’engendrement”. Chính từ ngữ tiếng Pháp dùng đây, tự nó cũng chưa rõ nghĩa. Dự định muốn đưa ra là: đối thoại, trao đổi với người khác, và cùng sinh lại thành người mới, trong niềm tin mới. Thoạt nhìn thì nó gợi cho ta hai chữ “born again”[22] của một nhóm Giáo Hội Tin Lành phát nguồn từ miền Nam Hoa Kỳ và lan sang Nam-Mỹ và Phi- châu. Nhưng về đạo lý và về phương pháp thì khác xa, cho nên các Giáo Hội Tin Lành đã có lâu đời ở Âu châu cũng lấy làm nghi ngại, vì như đã nói trên đây, có nhiều mục sư, mỗi ông đều có thể tự tiện đứng ra lập ra một Giáo Hội, truyền giáo ầm ĩ như trong hội chợ, theo kiểu chiêu hàng và kinh tài lối Mỹ, và lại còn hay dùng tôn giáo để làm chính trị nữa.
Tư tưởng làm nền tảng cho hướng đi mới ở đây là: phải căn cứ vào niềm tin tưởng tự nhiên mà ai sống ở đời cũng đã sẵn có, rồi mới cùng đào sâu thêm, làm cho người ta khám phá ra Tin Mừng Phúc Âm như là đã có mầm mống trong hướng mình ước vọng. Vì lẽ rằng: nếu tự nhiên mà đã không tin được những người chứng nhân mà mình trông thấy, thì làm sao có thể tin được vị Thiên Chúa mà chưa ai thấy bao giờ[23], nhưng chỉ nghe qua những chứng nhân mà thôi.
Ba tiêu chuẩn trong hướng đi đang thành hình
Hướng đi này được thành hình, khi người ta lấy quan điểm Phúc Âm mà nhìn vào xã hội. Vì thế có ba tiêu chuẩn cần phải liên kết với nhau: Tin Mừng Phúc Âm là tiêu chuẩn chính, Giáo Hội là chứng nhân loan báo Tin Mừng, và xã hội là môi trường hành động.
Thứ nhất: Tin Mừng Phúc Âm.
Tin Mừng mà Thiên Chúa muốn thông báo cho mọi người đó là gì? Đó là tin rằng: xét cho cùng thì đối với mọi người cuộc đời là tốt đẹp.[24] Thực vậy, đọc Thánh Kinh thì ta thấy là từ đầu đến cuối đều có cái nhìn lạc quan về cuộc đời. Từ đầu trong Sách Sáng Thế, ta đã thấy rằng tất cả các vật được tác tạo nên, thì Thiên Chúa đều bảo là tốt cả. Lịch sử dân Chúa có lúc thăng lúc trầm, nhưng bao giờ cũng có hi vọng tìm ra giải pháp tốt đẹp. Có lạc quan, có hi vọng, mới sống được.
Cuộc đời là tốt đẹp? Thực ra cái đó xem chừng không có gì là hiển nhiên cả: người ta có nhiều lý do để không tin như thế. Có điều là một việc xảy ra một cách tự nhiên hay tất nhiên, thì không ai nghĩ là đáng đưa tin, ví dụ: nước Ả-rập vừa bầu một người Ả-rập làm quốc trưởng. Trái lại nếu nước Ả-rập vừa bầu một người Do Thái làm quốc trưởng, thì đó là một việc rất đáng đưa tin. Kinh nghiệm của ta cho thấy là ở đời ta gặp nhiều cái không tốt, và nhà Phật, như ta biết, cũng đã tổng quát hóa kinh nghiệm hạn hẹp của tất cả chúng ta trong câu: vạn sự khổ, đời là bể khổ. Hiển nhiên quá. Nhưng xét cho cùng nếu mà cuộc đời đối với mọi người là tốt đẹp, thì đó thực là một tin đáng mừng, đáng thông báo. Có điều là khi phải chạm trán với thực tại, thì lại thấy rằng cái Tin Mừng đó rất là mong manh, rất khó tin! Lấy gì, lấy ai, mà bảo đảm được?
Tuy vậy nếu không có niềm tin, niềm hi vọng phổ thông lạc quan như thế, thì làm sao trong cõi người ta lại có những cố gắng để sống, để đối phó với bao nhiêu trở ngại? Nói thế khác, sống tức là tín cẩn vào cuộc sống, tuy biết là nó chưa hoàn hảo, vì từ khi sinh ra ta đã tín cẩn vào người khác rồi. Nếu không tin được vào ai, thì làm sao sống được, nếu không có hi vọng gì thì lấy đâu làm lẽ sống? Thà đi ra ngoài cuộc đời còn hơn.
Niềm tin này là niềm tin tự nhiên cần phải có để sống, nhưng chưa tất nhiên đã là niềm tin tôn giáo.
Thứ hai: cộng đồng Giáo Hội.
Nói đến Tin Mừng, thì cũng phải nói có ai đưa tin. Vấn đề bao giờ cũng là: người đưa tin có đáng tin hay không?
Người đưa tin đầu tiên là Đức Giêsu Kitô. Nếu cho đến nay đạo của Người còn được truyền bá, thì là vì đã có những người thấy là đáng tin, rồi truyền lại tiếp đi cho người khác. Ngoài cái nội dung Tin Mừng có thể làm cho người ta sống có ý nghĩa, thì còn có ba lý do đã làm cho người ta tín cẩn vào Người. Một là: Người có uy tín, vì nói sao làm vậy, mà không sợ lụy đến thân[25]. Hai là: Người biết chờ cho người khác dần dần nhận ra mình là ai, vì Người thường hỏi: thiên hạ nghĩ tôi là ai? các anh nghĩ tôi là ai? Ba là: niềm tin vào Đức Giêsu không phải là từ ngoài ép vào, nhưng từ trong thâm tâm tự do của người ta mà phát ra, sau khi đã nghe báo Tin Mừng; nói thế khác, Người không tấn công từ ngoài vào để bó buộc người đuối lý phải chịu phục, nhưng đánh thức niềm tin đã có sẵn bên trong, đang mặc nhiên hướng ra ngoài về ai khác (Thiên Chúa).
Nhưng cái niềm tin ấy cũng rất là mong manh. Vì khi Người còn bình sinh, thì chỉ có một thiểu số tín cẩn vào Người, còn đa số những chức sắc về phần đạo đều không tin, lại còn cho rằng Người đáng tội tử hình. Thế rồi cái thiểu số tin như thế cũng không có bề thế vững chãi: họ không phải là chức sắc có uy tín trong đạo Do Thái, cũng không phải là vương tướng có uy quyền trong đế quốc Rôma, lại còn gặp nhiều trở ngại. Tin là dám tin, dám hi vọng. Nhưng chính cái mong manh đó là bảo đảm cho tính cách tự do của niềm tin.
Cái chuỗi người cho đến nay đã kế tiếp nhau làm chứng nhân cho cái Tin Mừng rất mong manh mà Người giảng giải, trong những hoàn cảnh lúc thuận, lúc nghịch, đó là Giáo Hội của Người. Khi người ta đọc Kinh Tin Kính thì nói lên là mình tin Giáo Hội, tin hội thánh, là thân thể Chúa Kitô, tức là nơi Chúa Kitô hiện hình và loan báo Tin Mừng của Người. Tuy được Chúa hứa là sẽ cho Giáo Hội được trường tồn, nhưng Giáo Hội không phải là một pháo đài cố định. Thực ra Giáo Hội gồm những chứng nhân sống trong cái thân phận mong manh, có nhiều quyến rũ, cho nên chỉ là hình thức lịch sử chưa hoàn thành, nhưng đang cố gắng mang sứ mệnh là truyền bá cái Tin Mừng, có thể gây ra cho mọi người một nếp sống có ý nghĩa, có hi vọng. Thế nghĩa là Tin Mừng đã tồn tại, qua nhân chứng của những con người mà nhiều khi “lực bất tòng tâm”, nhưng muốn chia sẻ với người khác một lối nhìn và một lối sống trong các hình thức văn hóa khác nhau.
Thứ ba: xã hội.
Xã hội là môi trường sống, gồm tất cả tư tưởng, hành vi, ước vọng của người ta. Phải biết môi trường ấy là thế nào mới có thể đưa Tin Mừng cho thích hợp.
Như ta vừa thấy trước đây, trừ Đức Giêsu là người đầu tiên đưa Tin Mừng, thì những người đưa tin tiếp theo (Giáo Hội) không hoàn toàn vững tâm, vì chính cái Tin Mừng đó cũng khó tin. Chỉ biết một điều là nó hợp với hi vọng của người muốn đạt thân trong đời, vì nếu không tin, không tín cẩn được vào đâu, không hi vọng rằng dù sao đi nữa đời người cũng vẫn là tốt đẹp, thì khó mà tìm ra lý do để có can đảm đối phó với các trở ngại trong đời, nghĩa là trong cái xã hội biến chuyển mà không ai đoán trước được.
Người ta mong muốn một xã hội đại đồng, trong đó con người hòa hợp được với thiên nhiên và với người khác[26], nhưng cái mong muốn ấy vừa khó tin, vừa gặp nhiều trở ngại. Ví dụ nước Pháp đã nêu ra từ hơn hai thế kỷ cái khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ”, nhưng vẫn chưa thực hiện được nhiều, vì ai nấy đều có tính ích kỷ. Cái Tin Mừng mà đồ đệ Đức Giêsu cố gắng giới thiệu là: cái ước vọng đó có thể thực hiện được, vì cuộc đời là tốt đẹp, đồng thời cũng giới thiệu quan điểm có thể giúp thực hiện, là coi mọi người là anh em, vì cùng là con của một cha chung. Vì lẽ rằng nếu không có cha chung thì cũng không có anh em. Cái hi vọng đó tự nó vẫn là mong manh, khó tin, nhưng nó không phải là ảo vọng vì có những người đáng tin đã dám tin và làm như thế.
Đi vào thực hành
Đi theo hướng mới không phải là phế bỏ tất cả ba yếu tố của khuôn phép cũ, nhưng là tương đối hóa, để trở về nguồn là Thánh Kinh nói chung và Phúc Âm nói riêng. Tương đối hóa là chấp nhận rằng có nhiều thể thức sống đạo. Những yếu tố thần học và lễ nghi nào đã thích hợp với văn hóa cũ, nhưng không hợp với tâm thức người bây giờ, thì sẽ dần dần nhường chỗ cho những sáng kiến mới, làm cho người ta sống đạo một cách thích thời hơn.
Có điều nên chú ý là: khi đi truyền đạo thì các giáo sĩ Tin Lành thường đưa sách Phúc Âm ra giảng ngay từ đầu. Ngược lại, các giáo sĩ công giáo thì mang khuôn phép đã có sẵn ra dạy, là: Sách Bổn, Sách Kinh, Sách các phép, và ít sách nguyện gẫm. Đó là cái khuôn do người Âu châu sáng tạo ra trong văn hóa riêng của họ. Thành ra người công giáo Việt Nam trong mấy thế kỷ đã bị thiệt thòi, vì không được đọc thẳng lời Phúc Âm. Cho nên đạo công giáo ở bên ta khó tránh được một ít hình thức Tây phương. Dù sao thì trong cuộc giao lưu văn hóa, không có tôn giáo nào mà không nhận ảnh hưởng của văn hóa khác để làm giàu cho mình. Cho nên cái hình thức Âu châu, tuy là tương đối, nhưng cũng không phải là vô ích, vì nó thêm kinh nghiệm cho ta, tránh cho ta cái đầu óc hẹp hòi, làm cho ta ý thức được tính cách phổ biến của đạo Chúa.
Nếu ta nhìn vào Giáo Hội buổi sơ khai thì theo như Sách Công Vụ Tông Đồ ta thấy là sau khi Đức Giêsu khuất đi thì các đồ đệ đọc và suy gẫm Thánh Kinh, nhớ lại nếp sống của Người và được Thần Khí của Chúa giúp sức, nhưng họ phải tùy theo các biến cố bất ngờ trong xã hội chung quanh mà tìm ra đường lối hoạt động.
Đọc Thánh Kinh, đọc Phúc Âm không phải là đóng cửa đọc một mình, chờ Thánh Thần hay Thần Khí của Chúa soi sáng riêng cho mình. Như thế có cái nguy hiểm là mỗi người đọc một “phách”, rồi không ai chịu nghe ai, và người ngoại cuộc sẽ có thể nghĩ rằng tôn giáo chỉ là do mỗi người tự tạo ra cho mình. Đọc ở đây là đọc trong Giáo Hội (en Église), là cùng đọc với nhiều người khác (tính cách cộng đồng), và đặt lời Tin Mừng vào trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Có thế mới nhận thức được cái âm vang của Tin Mừng trong lòng mình và trong lòng người khác. Có thế, những điều ta nói lên mới thực là do niềm thâm tín của ta, chứ không còn phải là bài học thuộc lòng mà thiên hạ tới tấp nhồi sọ cho nhau. Rồi sau đó ta phản ứng bằng lời nguyện và bằng hành động thích hợp. Có thế ta mới thực là chứng nhân, là người làm chứng cho Tin Mừng. Vì người làm chứng không phải là người nhắc lại điều đã nghe, nhưng chứng thực về điều mình đã chứng kiến hay là tin chắc.
Dĩ nhiên là có nhiều ý kiến, nhưng có trao đổi với nhau mới tương đối hóa được cái nhìn chủ quan của mình. Đồng thời cũng phải so sánh với cái nhìn và hành động của những người trong Giáo Hội đã sống trong hoàn cảnh văn hóa khác ta (tính cách lịch sử). Trao đổi về những hình ảnh và quan niệm về Thiên Chúa, về nhân sinh, và về truyền thống, làm cho ta học lẫn nhau, kèm cho nhau, để giúp nhau tự nhận ra đường lối, giúp nhau sinh lại thành người mới theo tinh thần Phúc Âm. Đó là lối “tư giáo” gọi là “engendrement”. Tôi xin đề nghị tạm phiên dịch là “tương sinh”.
Có lẽ chính vì đã quá quen với lối “tư giáo” cũ, mà ta thường muốn người khác cũng tin và làm y như ta, và như thế ta truyền bá đức tin theo kiểu “đúc theo khuôn” hay là đòi phải bắt chước ta. Cần phải nhìn nhận một cách khiêm tốn là khi đi kèm cho người xin tòng giáo thì ta đánh thức niềm tin vào cuộc đời đã sẵn có, nhưng không biết trước được cái kết quả của sự cộng tác giữa Thần Khí có sức sáng tạo của
Chúa và quyết định tự do của người ấy.
“Tư giáo” theo lối “tương sinh” này bắt đầu được áp dụng đó đây, không những trong khi gặp gỡ những người xin tòng giáo, mà cả trong sinh hoạt của xứ đạo nữa. Giám mục Albert Rouet, giáo phận Poitiers, đã trình bày mười năm kinh nghiệm mới trong cuốn sách Một bộ mặt mới của Giáo Hội. Kinh nghiệm các cộng đoàn địa phương tại Poitiers[27]. Một ví dụ khác mà tôi biết, là sau hội nghị năm 2001 của lớp người trẻ, thì tổng giáo phận Lille đã thành lập một hiệp hội gọi là Fraternités Diocésaines des Parvis, huấn luyện cho các thành phần, để cùng sống đạo theo lối “tư giáo” này. Cho đến nay đã có 5 nhóm, mỗi nhóm gồm có một linh mục và dăm sáu người nam nữ, có người độc thân, có người có gia đình, mỗi nhóm được tòa giám mục chính thức giao cho trách nhiệm hoạt động “tư giáo” trong một xóm có nhà thờ. Lễ ngày chủ nhật thường lâu chừng một giờ rưỡi, vì có để ra thì giờ suy gẫm và trao đổi kinh nghiệm và ý kiến. Hiệp hội bắt đầu lan ra mấy giáo phận chung quanh.
Hiện nay có một việc rất đáng chú ý, đó là Thượng Hội đồng Giám mục tại Rôma trong tháng 10 năm 2008, để bàn về đề tài “Lời Chúa”. Các vấn đề đã được đề cập là: chỗ đứng của các chuyên gia về Thánh Kinh, việc phiên dịch Thánh Kinh, các bài giảng trong thánh lễ. Hội đồng cũng tiếp tay với đức giáo hoàng để nhấn mạnh vào ba nền tảng không thể rời nhau của đời sống của đồ đệ Chúa Giêsu, là: Lời Chúa, Lễ Đại-tạ (Eucharistia) và các việc bác ái. Hội đồng này rất quan trọng, vì nó sẽ có ảnh hưởng nhiều lên đời sống người công giáo toàn cầu.
(*) Vài nét về tác giả Trần Văn Toàn:
Học Triết học tại Đại học Công giáo Louvain, Bỉ, 1950 1954; Tốt nghiệp tiến sĩ triết học (Luận án về Karl Marx, Đại học Công giáo Louvain, 1960). Nghiên cứu Thần học Công giáo tại Lyon, 1954-56; tại Mayence (Mainze/ Đức, 1956-1958); tại Lille (gián đoạn, 1978-1983).
Tốt nghiệp Thạc sĩ Thần học Công giáo (Luận văn về thánh Ambroise xứ Milan, Lille, 1983).
Từng dạy học tại các Đại học Huế, Sài Gòn và Đà Lạt, 1960 1965; Đại học Lovanium (Kinshasa/Congo), 1965-1973; Đại học Công giáo Lille, 1973 -1996.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 63 (Tháng 1 & 2 năm 2011)
[1] Tiếng Pháp là “pastorale” (chăn dắt), tiếng Đức là “Seelsorge” (lo việc về phần linh hồn). Người công giáo Việt Nam dùng chữ “mục vụ” là dịch sát nghĩa tiếng Pháp. Tôi thấy nó làm sao ấy, vì lẽ rằng ta “dẫn dắt” người khác, chứ không có “chăn” ai cả. Vậy tôi xin tạm dùng chữ “tư giáo”.
[2] Sách viết về Công đồng này thì rất nhiều. Chỉ xin đơn cử một bộ sách về lịch sử Công đồng do Giuseppe Alberigo (Istituto per le scienze religiose, Bologna, Italia) đứng ra chủ trương, gồm 5 cuốn, do 26 tác giả chuyên môn cùng soạn. Bản Pháp văn của bộ sách đó thì do Etienne Fouilloux (Trung tâm nghiên cứu lịch sử tôn giáo, Lyon, Pháp) đảm nhiệm, cũng gồm 5 cuốn, in tại Paris, NXB Cerf, từ 1997 đến 2005, tất cả hơn 3600 trang. Sách sẽ được dịch ra nhiều thứ tiếng.
[3] Xem: Philippe Chanson, “Inculturation”, trong Dictionnaire oecuménique de missiologie. Cent mots pour la mission (sous la direction de Ion Bria, Philippe Chanson, Jacques Gadille, Marc Spindler), Paris, Cerf – Genève, Labor et Fodes Yaoundé, CLE, 2003, tr 165-170 . Đoạn văn trích dẫn là ở tr 165.
[4] Xem: Trần Văn Toàn, “Đó là lời Chúa”, Định Hướng, số 48, Mùa Đông 2006, tr 112-132.
[5] Xem: Tin Mừng theo thánh Mátthêu 22,21: “Bấy giờ Người bảo họ: Thế thì của Xê-da (= hoàng đế), trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
[6] Số là các thần linh được công nhận trong đế quốc thường chỉ là thần của riêng một dân tộc, chứ không có thần nào là thần của cả đế quốc. Vì thế hoàng đế Rôma là Augustô có quyền công nhận các thần linh, đã tự tôn chính mình lên hàng thần linh. Cũng như trong hoàn cảnh tương tự vua Minh Mạng đã tuyên bố: trẫm là chúa các thần.
[7] Thầy tu hành trong sa mạc gọi là ermite (eremita), là do tiếng Hy Lạp eremos có nghĩa là sa mạc.
[8] Triết học của Platon xuất hiện dưới hình thức những bài đối thoại.
[9] Ví dụ các tông phái Tin Lành thì bám vào nhà cầm quyền địa phương theo nguyên tắc: đất nào đạo ấy. Đó chính là lúc vua nước Anh là Henri VIII đã tự phong cho mình làm giáo chủ đạo Kitô ở nước Anh.
[10] Sau Thế chiến thứ hai, các lễ nghi tuy vẫn cử hành bằng tiếng La tinh, nhưng giáo quyền đã bắt đầu cho phiên dịch ra tiếng nói của giáo dân, để họ cho thể theo dõi và tham gia.
[11] Tôi chỉ xin giới thiệu một bộ sách của Adolphe Gesché (1926- 2005), giáo sư thần học ở đại học công giáo Louvain (Bỉ). Bộ sách tên là DIEU POUR PENSER, viết ra với mục đích là lấy cái ý niệm “Thiên Chúa” làm cơ hội để suy tư cho đáo lý về các vấn đề nhân sinh. Sách gồm 7 cuốn in tại NXB Cerf , Paris (1- Le Mal, 1993; 2- L’Homme, 1993; 3- Dieu, 1994; 4- Le Cosmos, 1994; 5- La Destinée, 1995; 6- Lr Christ, 2001; 7- Le Sens, 2003). Tác giả mất trước khi soạn xong cuốn thứ 8- La Foi.
[12] Sáng lập viên hiệp hội Jonas, căn cứ vào tình trạng “tư giáo” hiện thời, để đưa ra những đề nghị thiết thực, nhằm thực thi các quyết nghị của Công đồng. Xem: sách L’Avenir en face (Réflexions sur la crédibilité de la foi chrétienne et sur le ministère de l’Eglise), Paris, Desclée de Brouwer, 2002, 241 trang.
[13] Cuốn sách đã làm cho Eugen Drewermann không còn được làm giáo sư thần học công giáo ở đại học Paderborn (Đức) có nhan đề là Kleriker (= Hàng giáo sĩ), Olten, Walter-Verlag, 1989, thì người Pháp căn cứ vào nội dung mà dịch là Fonctionnaires de Dieu (= Công chức của Chúa), Paris, Albin Michel, 1993, 758 trang.
[14] Ví dụ số 12 trong văn kiện dạy rằng trong tang lễ phải có linh mục hay thầy phó tế “để cầu nguyện hẳn hoi cho người quá cố”: vì giáo dân không có chức thánh chỉ được làm khi thiếu người có chức thánh.
[15] Đó là: Une nouvelle chance pour l’Évangile (Một cơ hội may mắn mới cho Phúc Âm ). Vers une pastorale d’engendrement, trong tủ sách Théologies Pratiques, NXB: Lumen vitae NOVALIS Éd. de l’Atelier, 2004, 203 trang; và: Passeurs d’Evangile (Những người truyền đạt Phúc Âm). Autour d’une pastorale d’engendrement, Cũng các NXB trên đây, 2008, 231 trang.
[16] Theobald là người Đức, đi tu dòng Tên ở Pháp. Sách mới xuất bản là: Le christianisme comme style (Đạo Kitô xét như là một lối sống), Paris, Tủ sách Cogitatio Fidei, số 260 và 261, Paris, NXB Cerf, 2007, tất cả là 1110 trang.
[17] Hiện nay có nhiều nơi có quốc giáo, người ta kỳ thị những người theo đạo khác và xử tử hình những ai dám cãi giáo.
[18] Xem: Philippe Bacq, “Vers une pastorale d’engendrement”, trong sách Une nouvelle chance pour l’Evangile, 2004, trang 7-28.
[19] Trước khi làm giám mục giáo phận Huế thì linh mục Nguyễn Kim Điền đã làm việc ở miền Nam theo tinh thần đó.
[20] Proposer la foi dans la société actuelle / Lettre aux catholiques de France (Le rapport rédigé par Mgr Claude Dagens et adopté par l’assemblée plénière des évêques), Paris, Cerf, 1966, 130 trang.
[21] Xem: Christoph Theobald, “L’Evangile et l’Eglise”, trong sách Passeurs d’Évangile, 2008, trang 17-40. Và: Jean-Marie Donegani, “Inculturation et Engendrement du croire”, trong sách Une nouvelle chance pour l’Evangile, 2004, trang 29-45.
[22] Ý kiến này lấy từ lời Chúa dạy ông Nicôđêmô: “Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Gioan 3, 3).
[23] Ở đây là tôi bàn rộng ra câu nói của thánh Gioan: “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Lá thư I của Gioan, 5, 20).
[24] Xem: Theobald, Sđd, trang 20-22.
[25] Về lý do thứ nhất, A. Gesché giải thích: “Vị Thiên Chúa mà Đức Giêsu giới thiệu, thì không phải là vị thần mà chúng ta nghĩ, vị thần mà chúng ta bầy vẽ ra theo như những mơ ước trẻ con, vị thần mà các triết gia gọi là coi được” (trang 141). Vị Thiên Chúa đó không phải là tầm thường: vì như một người cha nhân từ, ngài phục hồi nhân phẩm cho những người mà thiên hạ coi là tội phạm, ngài lại cho rằng muốn làm điều thiện thì có khi phải gác ra một bên các điều cấm kỵ trong tôn giáo, v.v. Và ông thêm rằng: Vì có nhiều người không tin, cho nên niềm tin của ông thật là tự do, và niềm tin như thế đã làm cho ông tín cẩn hơn vào con người và được thêm can đảm để sống. Xem A. Gesché, “Pourquoi je crois en Dieu”, trong sách Dieu pour penser, tập III, tr 125-151.
[26] Thầy Khổng nói: nhân giả, nhân dã: chữ nhân (lòng nhân, hợp với nhân đạo) gồm có chữ nhị (là hai) và chữ nhân (là người); Cũng xem: Karl Marx, “Entfremdete Arbeit (lao động bị vong thân)” (M.E.G.A.,, I / 2, tr 363-375).
[27] Un nouveau visage d’Église. L’expérience des communautés locales de Poitiers, Paris, Bayard, 2004.