2020
Hướng dẫn Thiếu Nhi đọc và sống kinh Mân Côi
Hướng dẫn Thiếu Nhi đọc và sống kinh Mân Côi
Tháng 10, gọi là tháng Mân Côi, hay là tháng dành riêng để tôn kính Đức Mẹ Maria. Đặc biệt trong tháng này, Giáo Hội tha thiết kêu gọi mọi người Kitô hữu hãy đến cầu nguyện với Mẹ Maria qua việc siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày.Theo Đức Thánh cha Lêo III: “Muốn đứng vững trước những khó khăn, thách đố và cám dỗ của thời đại, chúng ta không có một phương thế nào hợp hơn là việc lần chuỗi Mân Côi thường ngày trong gia đình, giáo xứ, nhà nguyện và ngay cả trong lớp học giáo lý…..”
Có lẽ cảm nghiệm được việc lần chuỗi Mân Côi có sức mạnh kỳ diệu trong đời sống Kitô hữu, nên ban giáo lý của một số giáo xứ đã tổ chức một vài phương thức giúp các em Thiếu Nhi trong giáo xứ, không chỉ siêng năng đọc kinh Mân Côi mà còn thêm lòng yêu mến và Sùng kính Mẹ Maria nữa.
Khi bước vào tháng Mân Côi, ban giáo lý cũng như các anh chị Giáo lý viên khuyến khích các em đọc kinh Mân Côi, không nhất thiết phải đòi các em đọc cả chuỗi 50, hay 10 kinh nhưng có thể là 5 hoặc 3, thậm chí 1 kinh kính mừng trong ngày cũng được. Mục đích tập giúp các em ngay từ còn nhỏ biết nhớ đến Đức Mẹ qua việc đọc kinh Mân Côi mỗi ngày.
Để kinh Mân Côi đi vào đời sống kitô hữu của các em, ngay trong lớp học giáo lý, có thể là trước khi bắt đầu hay sau khi kết thúc lớp học, các anh chị giáo lý viên nên tập cho các em cầu nguyện kết hợp với việc đọc kinh Mân Côi, nhằm khơi lên trong các em lòng yêu Đức Mẹ trong tháng Mân Côi.
Ngoài ra, anh chị giáo lý nên hướng dẫn các em đọc kinh Mân Côi mỗi khi thức dậy vào buổi sáng, và giải thích cho các em hiểu ý nghĩa của việc đọc kinh dâng mình khi thức dậy là dâng một ngày sống mới của bản thân các em và gia đình lên Chúa và Mẹ Maria. Xin các Ngài đồng hành và trợ giúp một ngày sống mới bình an: các em trở nên ngoan ngoãn, học giỏi; công ăn việc làm của cha mẹ và anh chị luôn gặp nhiều thuận lợi trong cuộc sống.
Đừng để kinh Mân Côi gieo vào đầu các em là chỉ để cầu xin ơn thôi, mà kinh Mân Côi còn là lời kinh tạ ơn Chúa và Mẹ Maria. Do vậy, các anh chị giáo lý viên cần hướng dẫn các em biết tạ ơn Chúa qua một ngày sống bằng việc đọc kinh Mân Côi trước khi đi ngủ. Lời kinh trong giây phút này là lời tha thiết tạ ơn Chúa và Mẹ Maria, đã ban cho các em và gia đình trải qua một ngày sống, dẫu rằng ngày sống hôm đó đã phải đối diện với nỗi vui buồn, đau khổ và hạnh phúc, thành công và thất bại nhưng các em vẫn luôn tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh sống.
Không chỉ hướng dẫn các em đọc và sống kinh Mân Côi, ban giáo lý còn dành thời gian giúp các em học hỏi để hiểu biết thêm về cuộc đời của Mẹ Maria; Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ nhân loại như thế nào; Mẹ đã sống một cuộc đời xin vâng ra sao; Mẹ được Thiên Chúa ban cho đặc ân gì; Mẹ đã làm bao nhiêu phép lạ không chỉ có ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới nữa, cụ thể là phép lạ Mẹ hiện ra với ba trẻ nhỏ ở Fatima qua lời nhắn nhủ nhận loại “ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi”.
Người ta thường nói, khi yêu hoặc quý mến ai, ta sẽ dành nhiều thời gian cho ngườì ấy. Cũng vậy, khi các em được học và hiểu biết về Đức Mẹ, các em sẽ yêu mến Mẹ nhiều hơn, để từ đó các em cũng yêu mến việc siêng năng đọc kinh Mân Côi mỗi ngày.
Ước mong, việc hướng dẫn đọc và sống Kinh Mân Côi cho các em Thiếu Nhi đang trong giai đoạn khởi đầu bước vào học hỏi đời sống đức tin, sẽ mang lại nhiều hữu ích cho đời sống tâm linh của các em sau này. Hy vọng, mai sau, các em lớn lên sẽ trở thành những Kitô hữu không chỉ Sùng Kính Mẹ Mân Côi mà còn biết truyền bá Kinh Mân Côi cho người khác nữa.
Sr. Nguyễn, op
2020
Giáo hội và diễn đàn Internet
Có thể nói rằng thế giới trực tuyến (thế giới của Internet) là một phần thiết yếu của cuộc sống con người trong thế kỷ 21, vì ảnh hưởng quá lớn rộng và sâu đậm của nó. Nó tạo ra cả một nền văn hoá mới mang tính toàn cầu. Cuộc sống của người Công giáo cũng không thoát khỏi tầm ảnh hưởng và nền văn hoá bao trùm của Internet. Do đó, một câu hỏi được đặt ra: người Công giáo phải sử dụng Internet như thế nào cho đời sống đức tin của mình? Câu hỏi này liên quan đến một câu hỏi khác: Giáo Hội Công giáo nghĩ gì về Internet và muốn sử dụng nó như thế nào cho sinh hoạt của Giáo Hội?
Giáo Hội đã có một văn kiện mang tên “Đạo đức trên Internet”. Nhưng Giáo Hội không chỉ thấy trên Internet có những chuyện đúng và những điều sai, mà còn nhận ra biết bao điều ích lợi – kèm theo cũng không ít thách đố – mà Internet có thể mang đến cho công việc mục vụ và tông đồ của mình. Vì thế, khi phổ biến Huấn thị “Đạo đức trên Internet” vào ngày 22.2.2002, thì cũng cùng ngày đó, Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội đã công bố Huấn thị “Giáo Hội và Internet” với lược đồ như sau:
- Dẫn nhập
Cách thức tiếp cận phương tiện truyền thông của Giáo Hội (1-4)
- Cơ hội và thách đố của Internet
– Ích lợi và thuận lợi (5)
– Truyền thông trong nội bộ Giáo Hội (6)
– Giáo dục và đào tạo (7)
– Vấn nạn cho Giáo Hội (8)
– Nghiên cứu học hỏi (9)
III. Đề nghị và kết luận
– Sử dụng với óc sáng tạo (10)
– Những nhóm đặc biệt (11-12)
Phân tích những nét chính yếu mà Huấn thị “Giáo Hội và Internet” muốn truyền đạt đến mọi người là điều cần làm. Những phân tích này, đối chiếu với Sứ điệp “Internet: Diễn đàn mới để Loan Báo Tin Mừng” của Đức Gioan Phaolô II (cũng được gửi đi vào năm 2002) và Sứ điệp “Sự thật, Việc Loan báo và Cuộc sống thực trong thời đại kỹ thuật số” của Đức Bênêđictô VI (năm 2011), sẽ giúp người tín hữu nhớ được mình cần làm gì để sử dụng hữu hiệu phương tiện Internet cực mạnh này cho đời sống đức tin hằng ngày của mình và cho công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
Khởi đi từ phần dẫn nhập, Huấn thị “Giáo Hội và Internet” nói đến quan điểm tích cực của Giáo Hội về Internet, nói về hành trình truyền thông của nhân loại, và những mục đích Giáo Hội nhắm tới khi sử dụng Internet.
- Quan điểm tích cực
“Ngay cả khi lên án những lạm dụng quá đáng”, Giáo Hội vẫn coi Internet và các phương tiện truyền thông là “những quà tặng của Thiên Chúa”, là “những phát minh kỹ thuật kỳ diệu”.
Sự quan tâm của Giáo Hội đối với Internet biểu hiện đặc biệt sự quan tâm xưa nay của Giáo Hội đối với các phương tiện truyền thông xã hội. Khi coi các phương tiện truyền thông là một kết quả của tiến trình khoa học trong lịch sử, nhờ đó loài người “ngày càng tiến xa hơn trong việc khám phá ra những nguồn lực và những giá trị trong toàn thể vũ trụ”, Giáo Hội thường bày tỏ niềm xác tín của mình rằng các phương tiện truyền thông ấy, nói theo ngôn ngữ của Công đồng Vatican II, chính là “những phát minh kỹ thuật kỳ diệu”, đã đóng góp rất nhiều để thoả mãn các nhu cầu của con người và có thể còn đóng góp nhiều hơn nữa.
Như thế, Giáo Hội đã tiếp cận các phương tiện truyền thông với một thái độ căn bản là tích cực. Ngay cả khi lên án những lạm dụng quá đáng, các văn kiện của Hội đồng Toà Thánh về Truyền thông Xã hội vẫn phải đau đớn thú nhận rằng “nếu chỉ có thái độ kiểm duyệt về phía Giáo Hội thôi… thì chưa đủ và cũng chẳng thích hợp”.
Khi trích dẫn Tông thư “Miranda Prorsus” của Đức Giáo hoàng Piô XII, năm 1957, Huấn thị mục vụ “Hiệp thông và Tiến bộ”, ban hành năm 1971, cũng nhấn mạnh điểm ấy: “Giáo Hội coi các phương tiện truyền thông là “những quà tặng của Thiên Chúa”, mà theo kế hoạch quan phòng của Ngài, chúng sẽ liên kết mọi người trong tình huynh đệ và nhờ đó giúp mọi người cộng tác vào kế hoạch của Chúa để hưởng ơn cứu độ”. Đây vẫn là quan điểm của chúng tôi, và cũng là quan điểm của chúng tôi về Internet. (số 1)
- Hành trình Truyền thông của nhân loại
Giáo Hội nhìn lịch sử truyền thông của con người tựa như một cuộc hành trình dài, khởi đi từ sự truyền thông tuyệt vời trong vườn Địa Đàng, sau đó đổ vỡ do tội Adam, dẫn đến đỉnh cao bế tắc tại tháp Babel, và được khôi phục lại trong Lễ Hiện Xuống nhờ cuộc Vượt Qua với khuôn mẫu truyền thông trọn hảo của Đức Kitô. Sự khôi phục đang tiếp diễn cho đến ngày nay, và Internet được đặt nằm trong bối cảnh ấy.
Như Giáo Hội hiểu, lịch sử truyền thông của con người tựa như một cuộc hành trình dài, đưa con người “đi từ dự phóng tự kiêu của tháp Babel và từ sự sụp đổ khiến cho mọi người hồ đồ lẫn lộn và không hiểu nhau” (x. St 11,1-9) đến ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Thánh Thần ban xuống ơn ngôn ngữ, như một cách khôi phục lại sự truyền thông, mà mục tiêu tập trung vào Đức Giêsu và nhờ sự hoạt động của Thánh Thần”. Chính trong cuộc đời, sự chết và sống lại của Đức Kitô, “việc truyền thông giữa con người với nhau sẽ tìm được lý tưởng và khuôn mẫu cao đẹp nhất trong Thiên Chúa làm người và làm anh em với chúng ta”.
Các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay chính là những yếu tố văn hoá đóng một vai trò nhất định trong lịch sử. Như Công đồng Vatican II đã nhận xét: “dù chúng ta phải cẩn thận phân biệt những tiến bộ trần gian với sự phát triển của vương quốc Đức Kitô”, chúng ta vẫn phải nhìn nhận “những tiến bộ ấy có liên quan một cách mật thiết với Nước Chúa, khi mà chúng góp phần làm cho xã hội loài người được trật tự hơn”. Nhìn các phương tiện truyền thông xã hội dưới ánh sáng này chúng ta sẽ thấy chúng “đóng góp rất nhiều vào việc mở rộng và làm giàu tâm trí con người, cũng như phát triển và củng cố nước Chúa”.
Điều này đặc biệt đúng với Internet, là phương thế dùng để tạo ra những sự thay đổi có tính cách mạng trong thương mại, giáo dục, chính trị, báo chí, quan hệ giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn hoá này với nền văn hoá khác – những thay đổi này không chỉ giới hạn trong việc con người liên hệ với nhau như thế nào, mà còn là con người hiểu thế nào về cuộc sống của mình. (số 2)
- Hai mục đích
Giáo Hội sử dụng Internet với hai mục đích:
– Sử dụng đúng đắn mạng Internet để phục vụ cho sự phát triển, công bằng và hoà bình trên thế giới.
– Thể hiện bản chất của Giáo Hội là hiệp thông và truyền thông, bắt nguồn từ sự hiệp thông và truyền thông của Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội đề cập đến hai mục đích đối với Internet. Một là để cổ vũ sự phát triển và sử dụng đúng đắn mạng Internet hầu giúp con người được phát triển, giúp xã hội được công bằng và thế giới được hoà bình – nói chung là giúp xây dựng xã hội ở cấp địa phương, quốc gia và cộng đồng thế giới trong tinh thần liên đới và vì ích lợi chung. Đánh giá tầm quan trọng to lớn của việc truyền thông xã hội, Giáo Hội tìm cách “đối thoại cách chân thành và kính trọng với những người có trách nhiệm về các phương tiện truyền thông” – một sự đối thoại trước hết nhằm định hình chính sách truyền thông.. “Về phía Giáo Hội, muốn đối thoại như thế, cần phải nỗ lực hiểu biết các phương tiện truyền thông – mục đích, trình tự, hình thức và thể loại, những cơ chế bên trong và những thể thức làm việc – và cần phải hỗ trợ cũng như khuyến khích những ai tham gia công tác truyền thông. Dựa trên sự hiểu biết và nâng đỡ đầy thiện cảm ấy, người ta có thể đưa ra những đề nghị có ý nghĩa, nhằm gỡ bỏ những trở ngại đối với sự tiến bộ của con người và đối với việc rao giảng Tin Mừng”.
Nhưng Giáo Hội cũng quan tâm tới việc truyền thông trong Giáo Hội và do Giáo Hội. Việc truyền thông ấy không dừng lại ở chỗ có những thao tác kỹ thuật, vì nó “bắt đầu trong sự hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và trong việc các ngôi ấy liên lạc với chúng ta”, cũng như bắt đầu từ chỗ chúng ta ý thức rằng sự truyền thông của Ba Ngôi Thiên Chúa đã “vươn ra ngoài để đến với loài người: Ngôi Con chính là Lời được Chúa Cha “nói ra” từ đời đời; rồi trong Đức Giêsu Kitô và qua Ngài, là Con và là Lời đã thành xương thành thịt, Thiên Chúa truyền thông bản thân mình và ơn cứu độ cho mọi người”.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục truyền thông cho loài người thông qua Giáo Hội, là người cưu mang và là người giữ gìn mạc khải của Thiên Chúa, cũng là người duy nhất được Ngài giao cho nhiệm vụ chính thức giải thích lời Ngài thông qua công tác giảng dạy của mình. Ngoài ra, bản thân Giáo Hội cũng là sự “hiệp thông” (communio), một sự hiệp thông của những con người và những cộng đoàn Thánh Thể xuất phát từ sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa và mô phỏng sự hiệp thông ấy; và vì thế, hiệp thông là bản chất của Giáo Hội. Đây chính là lý do mạnh hơn mọi lý do khác giải thích tại sao “việc truyền thông của Giáo Hội phải là việc truyền thông mẫu mực, phản ánh các tiêu chuẩn cao nhất của trung thực, trách nhiệm, nhạy cảm với các quyền của con người và những nguyên tắc cũng như những chuẩn mực khác có liên quan”. (số 3)
- Internet và Phúc âm hoá
Huấn thị nhắc lại lời của ĐTC Phao lô VI: Giáo Hội “sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Chúa, nếu Giáo Hội không biết sử dụng các phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng”; và lấy từ lời khuyên dạy của Đức Gioan Phaolô II để nhắn nhủ các tín hữu phải dùng Internet để đưa Sứ điệp Tin Mừng ăn sâu vào “văn hoá mới” do Internet tạo ra.
Cách đây ba thập niên, Huấn thị “Hiệp thông và Tiến bộ” (Communio et Progressio) đã chỉ ra rằng “các phương tiện truyền thông hiện đại chính là những phương tiện mới mẻ giúp mọi người đối diện với thông điệp Tin Mừng”. Đức Phaolô VI nói rằng Giáo Hội “sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Chúa”, nếu Giáo Hội không biết sử dụng các phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng. Đức Gioan Phaolô II đã gọi các phương tiện truyền thông là “đất thánh đầu tiên của thời đại mới” và đã tuyên bố rằng “nếu chỉ sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến thông điệp Kitô giáo và giáo huấn chính thức của Giáo Hội thì chưa đủ. Còn phải làm sao đưa thông điệp ấy ăn sâu nào nền “văn hoá mới” do các phương tiện truyền thông tạo ra”. Điều ấy ngày nay còn quan trọng hơn nữa, vì các phương tiện truyền thông bây giờ không những ảnh hưởng tới nhận thức của con người về cuộc sống mà còn có thể nói rằng “kinh nghiệm con người bây giờ chính là kinh nghiệm thu nhận được từ các phương tiện truyền thông”.
Tất cả những điều vừa nói đều áp dụng được cho Internet. Cả khi thế giới truyền thông xã hội “thỉnh thoảng có gây xung đột với thông điệp Kitô giáo, đó vẫn là phương tiện đem lại cho chúng ta những cơ hội có một không hai để chúng ta loan báo chân lý cứu độ của Đức Kitô cho toàn thể gia đình nhân loại. Hãy nhìn những khả năng tích cực của Internet trong việc cung cấp thông tin tôn giáo và giảng dạy, vượt mọi rào cản và ranh giới. Có được một cử toạ đông đảo như thế, đó là điều vượt xa óc tưởng tượng của những vị đã rao giảng Tin Mừng trước chúng ta… Người Công giáo không nên lo sợ đến nỗi không dám mở rộng cánh cửa truyền thông xã hội cho Đức Kitô, để Tin Mừng của Người có thể được nghe thấy từ trên nóc nhà thế giới”. (số 4)
- Những cơ hội
Phần chính của Huấn thị (5-9) được dùng để mô tả những cơ hội và thách đố của Internet.
Trong số 5, Huấn thị kể ra vô số cơ hội tốt đẹp mà Internet cống hiến cho Giáo Hội trong công tác mục vụ và tông đồ. Đó là: loan báo, làm chứng, liên kết, hiệp thông, thông tin tức thời đến mọi nơi, tạo nguồn cảm hứng cực mạnh…
“Việc truyền thông trong Giáo Hội và do Giáo Hội chủ yếu là việc truyền đạt Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Đó là loan báo Tin Mừng như những lời có giá trị ngôn sứ và có sức giải phóng cho hết mọi người trong thời đại chúng ta; là làm chứng cho sự thật của Thiên Chúa và cho phẩm giá siêu việt của con người trước tình trạng tục hoá triệt để; là liên kết với mọi người có niềm tin để làm chứng chống lại xung đột và chia rẽ, làm chứng cho công bình và hiệp thông giữa các dân tộc, các quốc gia và các nền văn hoá”.
Vì muốn loan báo Tin Mừng cho những người đã được đào tạo theo nền văn hoá truyền thông thì phải cẩn thận lưu ý tới các đặc điểm của chính các phương tiện truyền thông ấy, nên hiện nay Giáo Hội rất cần hiểu biết Internet. Điều này thật cần thiết để Giáo Hội có thể truyền thông cách hiệu quả với mọi người – nhất là với người trẻ – vì mọi người hôm nay đang ngụp sâu trong kinh nghiệm công nghệ mới này, cũng như cần thiết để Giáo Hội sử dụng công nghệ mới ấy cho tốt.
Các phương tiện truyền thông đem lại cho chúng ta những điều thuận lợi và bổ ích quan trọng cả về mặt tôn giáo: “Chúng mang đến tin tức và thông tin về các sự kiện tôn giáo, những tư tưởng tôn giáo và những nhân vật tôn giáo; chúng đóng vai trò như những cỗ xe phục vụ việc Phúc Âm hoá và huấn giáo. Mỗi ngày chúng đem lại nguồn cảm hứng, sự khích lệ và những cơ hội thờ phượng cho những người bị ràng buộc ở nhà hay các cơ sở”. Nhưng trên hết và trước hết, còn có một số lợi ích khá đặc biệt của riêng Internet. Nó cho phép con người có thể tiếp cận trực tiếp và nhanh chóng với những nguồn tôn giáo và tâm linh quan trọng – như những thư viện, bảo tàng và các nơi thờ phượng quan trọng, hay các văn kiện của Huấn quyền Giáo Hội, các tác phẩm của các giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội, cũng như kho tàng khôn ngoan tôn giáo qua các thời đại. Nó có khả năng đáng kể là có thể rút ngắn khoảng cách và sự cô lập để giúp chúng ta tiếp xúc với những người thiện chí có cùng ý hướng, làm thành những cộng đoàn ảo của đức tin để khích lệ và nâng đỡ nhau. Giáo Hội có thể phục vụ cả người Công giáo lẫn người không Công giáo bằng cách chọn lựa và truyền đạt những dữ kiện hữu ích qua phương tiện truyền thông này.
Internet có liên quan tới nhiều hoạt động và chương trình của Giáo Hội – như Phúc Âm hoá, bao gồm cả tái Phúc Âm hoá lẫn tân Phúc Âm hoá, và việc truyền giáo đúng theo truyền thống “đến với dân ngoại”, huấn giáo và giáo dục dưới những hình thức khác, thông tin, hộ giáo, điều hành và quản trị, tư vấn mục vụ dưới một vài hình thức và linh hướng. Mặc dù không thể lấy thực tế ảo của không gian tin học thay thế cho những cộng đoàn thật sự có quan hệ liên vị, cho các bí tích và phụng vụ mang nặng tính nhập thể, cho việc loan báo Tin Mừng trực tiếp và tức thời, nhưng Internet có thể bổ sung cho các hoạt động ấy, thu hút con người đạt tới kinh nghiệm đầy đủ hơn về đời sống đức tin, đồng thời làm giàu thêm cho đời sống tôn giáo của những người sử dụng Internet. Internet cũng cung cấp cho Giáo Hội thêm một phương tiện để liên lạc với những tập thể đặc thù như thiếu niên và thanh niên, người già và người không thể rời khỏi nhà, người sống ở vùng xa, hội viên của các đoàn thể tôn giáo – tức là những người có thể khó liên lạc và tiếp xúc.
Càng ngày càng có nhiều giáo xứ, giáo phận, dòng tu, các cơ sở có liên quan với Giáo Hội, các chương trình và tổ chức đủ loại sử dụng Internet một cách rất hữu hiệu cho những mục đích vừa kể và nhiều mục đích khác nữa. Đã có nhiều dự án mang tính sáng tạo do Giáo Hội bảo trợ đang có mặt ở nhiều nơi mang tầm cỡ quốc gia và khu vực. Toà Thánh đã hoạt động rất tích cực trong lĩnh vực này từ vài năm nay và vẫn đang tiếp tục mở rộng cũng như phát triển mạng Internet. Các tập thể có liên quan với Giáo Hội chưa tiến hành tham gia các thực tế ảo cũng đang được khuyến khích xem lại khả năng thực hiện việc ấy sớm hơn. Chúng tôi hết sức cổ vũ việc trao đổi quan điểm và thông tin về Internet giữa những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này với những người mới làm quen.”
- Internet và Công luận trong Giáo Hội
Internet giúp Giáo hội thực hiện một điều quan trọng mà Công đồng Vatican II và Giáo Luật đặc biệt nhắc đến, đó là đối thoại hai chiều trong Giáo Hội. Thực hiện truyền thông hai chiều và quan tâm đến công luận là những cách để Giáo Hội thể hiện bản chất của mình là Hiệp thông. Internet cung cấp phương tiện công nghệ hết sức hữu hiệu để thực hiện viễn tượng ấy.
Giáo Hội cũng cần tìm hiểu và sử dụng Internet như một công cụ truyền thông trong nội bộ của mình. Muốn làm điều ấy, cần phải nhận thức rõ tính cách đặc biệt của Internet, là phương tiện truyền thông trực tiếp, tức thời, tác động hỗ tương và cho người sử dụng được tham gia.
Tác động hỗ tương hai chiều của Internet đã xoá dần sự phân biệt xưa nay giữa người truyền thông và người tiếp nhận những điều được truyền thông, và tạo ra một tình trạng, nếu chưa thực hiện được thì ít là có khả năng làm như thế, theo đó ai ai cũng có thể vừa làm người truyền thông vừa làm người tiếp nhận. Đây không còn là sự truyền thông một chiều, từ trên xuống như thời xưa nữa. Vì càng ngày càng có nhiều người quen với tính cách ấy của Internet trong các lĩnh vực khác của cuộc sống, nên Giáo Hội mong rằng họ cũng sẽ như thế trong những gì liên quan tới tôn giáo và Giáo Hội.
Công nghệ thì mới, nhưng ý tưởng này không phải chỉ mới có đây. Công đồng Vatican II đã từng nói rằng mọi thành phần trong Giáo Hội nên bày tỏ cho các chủ chăn của mình biết “các nhu cầu và các ước nguyện của mình một cách tự do và tin tưởng, phù hợp với con cái Thiên Chúa và anh em của Đức Kitô”. Thật ra, tùy theo sự hiểu biết, khả năng chuyên môn hay địa vị của mình, người tín hữu không những có thể mà đôi khi còn có bổn phận “bày tỏ ý kiến của mình về những gì có liên quan đến ích chung của Giáo Hội”. Huấn thị “Hiệp thông và tiến bộ” còn lưu ý rằng là một “cơ thể sống động” như Giáo Hội “cần đến công luận để tiếp tục động thái vừa cho vừa nhận giữa các chi thể với nhau”. Mặc dù các chân lý đức tin “không thể được giải thích một cách tuỳ tiện”, Huấn thị vẫn ghi nhận “đó cũng là một lĩnh vực rộng lớn cho các thành phần Giáo Hội bày tỏ quan điểm của mình”.
Quan điểm tương tự cũng được trình bày trong Bộ Giáo luật, cũng như trong các văn kiện gần đây hơn của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội. Huấn thị “Thời đại mới” gọi sự truyền thông hai chiều và công luận là “một trong những cách để Giáo Hội thực hiện cách cụ thể đặc tính Giáo Hội là ‘sự hiệp thông’ ”. Tài liệu “Đạo đức trong truyền thông” cũng nói: “Dòng thông tin và quan điểm hai chiều giữa chủ chăn và tín hữu, việc tự do phát biểu về những gì nhạy cảm liên hệ đến tình trạng an sinh của cộng đoàn và đến vai trò của Huấn quyền trong việc cổ vũ tự do phát biểu, cũng như nêu ý kiến một cách có trách nhiệm trước công luận đều là những cách biểu lộ quan trọng cho ‘một quyền căn bản là quyền đối thoại và thông tin trong nội bộ Giáo Hội’”. Internet sẽ cho chúng ta phương tiện công nghệ hết sức hữu hiệu để thực hiện viễn tượng ấy.
Nếu thế, đây chính là một dụng cụ có thể đem ra sử dụng trong việc hành chính và quản trị về nhiều mặt. Bên cạnh việc mở nhiều kênh cho công luận có nhiều cơ hội phát biểu, chúng tôi còn muốn nói tới những việc như tham khảo các nhà chuyên môn, chuẩn bị các cuộc họp, cộng tác trong và giữa các nhà thờ cũng như trong và giữa các tổ chức tu trì, ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế.
- Internet và Giáo dục
Huấn thị nhấn mạnh đến việc giáo dục qua Internet, đặc biệt là việc huấn luyện giới trẻ biết cách làm việc thành thạo trong “thế giới ảo”, biết phê bình dựa theo những tiêu chuẩn luân lý lành mạnh, biết tìm kiếm điều tốt đẹp trên Internet, và biết dùng các công nghệ mới để bản thân mình được phát triển toàn diện và người khác được ích lợi.
Giáo dục và huấn luyện là một lĩnh vực khác nữa có nhiều triển vọng và nhu cầu đối với Internet. “Hiện nay ai ai cũng cần một hình thức tiếp tục giáo dục qua các phương tiện truyền thông, bằng cách tự học hoặc tham dự một chương trình có tổ chức hoặc cả hai. Việc giáo dục qua phương tiện truyền thông không chỉ dạy cho chúng ta biết một số kỹ thuật mà còn giúp chúng ta hình thành nên một số tiêu chuẩn thẩm mỹ và phán đoán luân lý cách trung thực, là một khía cạnh trong việc đào tạo lương tâm. Thông qua các trường học và các chương trình đào tạo của mình, Giáo Hội nên cung cấp việc giáo dục theo loại này”. Giáo dục và huấn luyện về Internet nên được xếp thành một phần trong chương trình giáo dục truyền thông đầy đủ dành cho mọi thành phần trong Giáo Hội. Khi lập kế hoạch mục vụ cho truyền thông xã hội, chúng ta hãy cố gắng hết sức để dự trù việc huấn luyện này trong chương trình đào tạo chủng sinh, linh mục, tu sĩ, giáo dân làm mục vụ như giáo viên, cha mẹ, sinh viên”.
Cách riêng, các bạn trẻ cần được giáo dục “không chỉ để trở thành những Kitô hữu tốt biết tiếp nhận thông tin, mà còn là những Kitô hữu tích cực biết tận dụng mọi sự hỗ trợ cho công tác truyền thông mà mình có thể tìm thấy trong các phương tiện truyền thông… Như thế, các bạn trẻ sẽ trở thành những công dân đích thực của thời đại truyền thông xã hội, một thời đại vừa mới bắt đầu” – một thời đại trong đó các phương tiện truyền thông được coi là “một phần của nền văn minh chưa được triển khai hoàn toàn, với những hậu quả mà bây giờ chúng ta chỉ hiểu một cách chưa trọn vẹn”. Dạy Internet và công nghệ thông tin mới bao gồm nhiều thứ chứ không phải chỉ nhằm dạy cho biết các kỹ thuật. Người trẻ cần phải học cho biết cách làm việc thành thạo trong thế giới của các thực tế ảo, đưa ra những phê bình có suy nghĩ chín chắn dựa theo những tiêu chuẩn luân lý lành mạnh để biết mình phải tìm kiếm điều gì trong các phương tiện ấy, cũng như biết dùng các công nghệ mới để bản thân mình được phát triển toàn diện và người khác được ích lợi. (số 7)
- Một số tiêu cực của Internet
Huấn thị nhắc đến một số tiêu cực trên Internet: nhiều trang web đối nghịch với đức tin và luân lý, bôi nhọ các tập thể tôn giáo và sắc tộc, chủ trương “tương đối hoá” mọi sự, và những trang web tự nhận là Công giáo nhưng có cách giải thích giáo lý lệch lạc, và những thực hành tôn giáo lập dị.
Nhìn sâu xa hơn, “thế giới của các phương tiện truyền thông đôi khi có thể rất vô tình, thậm chí đối nghịch cả với đức tin và luân lý Kitô giáo. Một phần là vì văn hoá của các phương tiện truyền thông bị thấm nhiễm sâu xa một cảm thức điển hình của thời kỳ hậu hiện đại là: chân lý duy nhất có giá trị tuyệt đối là chẳng có chân lý nào tuyệt đối hay nếu có thì trí khôn của con người cũng không thể nào tiếp cận được, và vì thế, chúng hoàn toàn không thích đáng”.
Trong số những vấn đề đặc biệt do Internet đặt ra có vấn đề: có những địa chỉ truy cập chỉ nhằm mục đích bôi nhọ và tấn công các tập thể tôn giáo và sắc tộc. Một số trong các địa chỉ ấy nhắm tới Giáo hội Công giáo. Cũng như tranh ảnh khiêu dâm và bạo lực trong các phương tiện truyền thông, những địa chỉ thù nghịch của Internet chính là “những phản ánh bề mặt đen tối của bản tính con người đã bị tội làm cho hư hỏng”. Nếu để tôn trọng sự tự do phát biểu, đôi khi chúng ta cũng phải chịu đựng những tiếng nói hận thù tới một mức nào đó, thì nhu cầu tự điều hoà công nghiệp truyền thông và khi cần, sự can thiệp của chính quyền, cũng nên đặt ra và bắt mọi người phải tuân thủ một số giới hạn hợp lý trong việc lựa chọn những điều có thể nói ra.
Sự sinh sôi nảy nở quá nhiều địa chỉ web tự nhận là Công giáo đặt ra cho Giáo Hội một vấn đề khác. Như chúng tôi đã nói, các tập thể có liên quan tới Giáo Hội nên có mặt trên mạng Internet một cách sáng tạo; những cá nhân và những tập thể dù không chính thức nhưng có động cơ tốt và có thông tin đầy đủ, chủ động hoạt động theo ý mình, đều có quyền có mặt trên mạng. Nhưng ít ra có thể nói rằng, thật khó phân biệt được giữa những cách giải thích giáo lý lệch tâm, những việc thực hành tôn giáo lập dị, với việc ủng hộ một ý thức hệ mang nhãn hiệu “Công giáo” có lập trường đích thực của Giáo Hội. Dưới đây chúng tôi xin đưa ra một cách giải quyết vấn đề. ( số 8)
- Những cẩn trọng đối với Internet
Huấn thị nhắc nhở phải cẩn trọng:
– Không được coi những chân lý tôn giáo như những gói hàng có sẵn trên Internet rồi tha hồ lựa chọn theo thị hiếu của mình.
– Không có bí tích trên Internet.
– Cần hướng dẫn dân chúng đi từ “thực tế ảo” sang “cộng đồng có thật”.
Một số vấn đề khác cần phải được suy nghĩ nhiều. Đối với các vấn đề này, chúng tôi hối thúc việc tìm tòi và nghiên cứu liên tục, chẳng hạn như việc “triển khai một quan điểm nhân học và một nền thần học về sự truyền thông”, và bây giờ cần đặc biệt nghiên cứu như vậy về Internet. Dĩ nhiên, song song với việc tìm tòi và nghiên cứu, có thể và nên xúc tiến cả kế hoạch mục vụ tích cực về việc sử dụng Internet.
Một lĩnh vực cần nghiên cứu có liên quan tới đề xuất sau đây: việc cho lựa chọn rộng rãi các sản phẩm tiêu thụ và các dịch vụ có sẵn trên Internet có thể có tác dụng lan đến lĩnh vực tôn giáo, khuyến khích người ta tiếp cận các vấn đề thuộc về đức tin với tinh thần “tiêu thụ”. Các dữ kiện trên Internet cho thấy, một số người truy cập các địa chỉ trên mạng liên quan đến tôn giáo có thể hành động như những người mua sắm hoang phí, xem xét và lựa chọn những gói hàng tôn giáo có sẵn phù hợp với thị hiếu của mình. “Khuynh hướng của một số người Công giáo hiện nay là lựa chọn để theo” – lựa chọn những giáo huấn mình thích trong toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội để thi hành – và đây là một vấn đề thật sự được ghi nhận trong những bối cảnh khác chắc chắn cần phải có thêm nhiều thông tin nữa, để tìm hiểu xem vấn đề này có bị Internet làm trầm trọng thêm hay không và nếu có thì tới mức nào.
Tương tự như thế, thực tế ảo của không gian tin học cũng gây ra một số hậu quả đáng lo cho tôn giáo cũng như cho các lĩnh vực khác của cuộc sống. Thực tế ảo không thể nào thay thế sự hiện diện thật của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, không thể nào thay thế thực tại bí tích của các bí tích khác và sự thờ phượng chung của một cộng đồng gồm những con người có máu có thịt hẳn hoi. Không có bí tích trên Internet; thậm chí nếu như nhờ ơn Chúa, những kinh nghiệm tôn giáo có thể trải nghiệm trên Internet được thì các kinh nghiêm ấy cũng chưa đủ, nếu bị tách khỏi sự tương tác trong thế giới thật của người có kinh nghiệm ấy với những người chưa có đức tin, Đây là một khía cạnh nữa của Internet đòi chúng ta phải nghiên cứu và suy nghĩ. Đồng thời, trong kế hoạch mục vụ người ta cũng cần xem xét làm sao hướng dẫn dân chúng đi từ thực tế ảo sang cộng đồng có thật, làm thế nào thông qua việc giảng dạy và huấn giáo, chúng ta có thể dùng Internet để giữ gìn và nuôi dưỡng họ sống những điều cam kết của người Kitô hữu. ( số 9)
- Sử dụng Internet với óc sáng tạo
Trong phần kết luận, Huấn thị nhắc mọi người thuộc đủ mọi cấp độ trong Giáo Hội không được rụt rè mà phải biết tích cực sử dụng Internet một cách sáng tạo để thi hành trách nhiệm và giúp Giáo Hội chu toàn sứ mạng.
Những người có tôn giáo, cũng như các thành phần có liên quan trong cộng đồng Internet rộng lớn, có những bận tâm hợp pháp riêng, nhưng tất cả đều mong muốn tham gia vào tiến trình điều khiển sự phát triển phương tiện truyền thông này trong tương lai. Khỏi cần nói cũng biết công việc này nhiều khi đòi họ phải điều chỉnh lại nếp suy nghĩ và cách hành động của mình.
Cũng quan trọng không kém khi mọi người thuộc đủ mọi cấp độ trong Giáo Hội biết sử dụng Internet một cách sáng tạo để thi hành trách nhiệm và giúp Giáo Hội chu toàn sứ mạng. Nhìn thấy vô số khả năng tích cực do Internet mang lại mà vẫn rụt rè vì sợ công nghệ này hay vì một lý do nào khác thì thật là không thể chấp nhận được. “Các phương pháp tạo thuận lợi cho việc truyền thông và đối thoại giữa thành phần của Giáo Hội có thể thắt chặt dây liên kết giữa họ với nhau. Nhờ tiếp cận các thông tin cách tức thời mà Giáo Hội có thể đẩy xa việc đối thoại của mình với thế giới đương thời… Giáo Hội cũng có thể dễ dàng cho thế giới biết những niềm tin của mình, giải thích lý do tại sao mình có lập trường thế này hay thế nọ về một vấn đề hoặc một sự kiện nào đó. Giáo Hội có thể nghe rõ hơn tiếng nói của dư luận quần chúng và tiếp tục thảo luận không ngừng với thế giới chung quanh; bằng cách đó, Giáo Hội sẽ tham gia nhạy bén hơn vào công cuộc tìm kiếm chung để khám phá ra những giải pháp cho nhiều vấn đề cấp bách của nhân loại”. (số 10)
- Bổn phận của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội
Huấn thị nhắc các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải tận dụng tiềm lực của thời đại điện toán để phục vụ Chúa và cộng đoàn, giúp cho các trang web công giáo đi đúng lập trường của Giáo Hội.
Những ai đang ở trong cương vị lãnh đạo trong mọi ngành, mọi cấp của Giáo Hội cần hiểu biết các phương tiện truyền thông, ứng dụng những hiểu biết ấy vào việc thiết lập kế hoạch mục vụ về truyền thông xã hội, cùng với những chính sách và những chương trình cụ thể trong lĩnh vực này, đồng thời biết sử dụng thích hợp các phương tiện ấy. Nếu cần, bản thân các vị ấy cũng nên học hỏi về các phương tiện truyền thông. Thật vậy, “Giáo Hội sẽ được phục vụ tốt hơn, nếu càng ngày càng có nhiều người nắm giữ chức vụ và thi hành phận sự nhân danh Giáo Hội được huấn luyện về việc truyền thông”. Điều này áp dụng cho các phương tiện truyền thông xưa cũng như cho Internet. Các vị lãnh đạo Giáo Hội bị buộc phải sử dụng “cho hết tiềm lực của thời đại điện toán để phục vụ ơn gọi vừa mang tính nhân bản vừa siêu việt của con người, nhờ đó tôn vinh Thiên Chúa Cha là nguồn của mọi điều tốt đẹp”. Các vị nên dùng công nghệ đáng chú ý này vào các lĩnh vực khác nhau để thi hành sứ mạng của Giáo Hội, đồng thời khai thác các cơ hội cho phép mình cộng tác đại kết và cộng tác liên tôn trong việc sử dụng Internet.
Một khía cạnh đặc biệt của Internet, như chúng ta đã thấy, có liên quan tới tình trang các địa chỉ mạng không chính thức mang nhãn hiệu “Công giáo” xuất hiện quá nhiều tới mức đôi khi làm chúng ta phải bối rối. Nếu có một hệ thống kiểm tra tự nguyện ở cấp địa phương và quốc gia, dưới sự giám sát của các đại diện Huấn quyền Hội Thánh, có lẽ sẽ giúp chúng ta thẩm định các địa chỉ này về mặt nội dung giáo thuyết và giáo lý. Đây không phải là áp đặt một hình thức kiểm duyệt nhưng chỉ là giúp những người sử dụng Internet có được những chỉ dẫn đáng tin cậy để biết đâu là lập trường đích thực của Giáo Hội. (số 11a)
- Bổn phận học hỏi cách sử dụng Internet
Mọi thành phần Dân Chúa được nhắc nhở phải học cách sử dụng Internet trong công tác mục vụ của mình.
Các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân làm mục vụ nên được học hỏi về các phương tiện truyền thông để hiểu biết hơn về ảnh hưởng của truyền thông xã hội trên cá nhân cũng như trên xã hội, đồng thời giúp họ có được một một phong thái truyền thông, có thể đáp ứng được cảm quan và bận tâm của quần chúng đang sống trong văn hoá truyền thông. Ngày nay, khi nói như thế là bao gồm cả việc học cách sử dụng Internet trong công tác của mình. Tất cả những ai đang làm công tác mục vụ đều sẽ thu lượm được lợi ích từ những địa chỉ mạng giúp mình cập nhật thần học và có những đề xuất mục vụ.
Đối với những vị trực tiếp tham gia vào các phương tiện truyền thông của Giáo Hội, có lẽ không cần nói họ phải được huấn luyện chuyên nghiệp về việc này. Tuy nhiên, họ cũng cần được đào tạo về mặt giáo thuyết và tâm linh nữa, vì “muốn làm chứng cho Đức Kitô, cần phải gặp gỡ đích thân Ngài và cần phải tăng cường mối quan hệ cá nhân giữa mình với Chúa nhờ cầu nguyện, tham dự bí tích Thánh Thể và bí tích Hoà Giải, đọc va suy gẫm Lời Chúa, học hỏi giáo lý Giáo Hội, và phục vụ người khác”. (số 11b)
- Bổn phận dạy Internet của các trường học Công Giáo
Huấn thị nói đến nghĩa vụ cấp bách của các trường học Công giáo trong việc huấn luyện và nghiên cứu về Internet.
Huấn thị “Hiệp thông và Tiến bộ” đã nói tới “nghĩa vụ cấp bách” của các trường Công giáo là huấn luyện các nhà truyền thông và các người tiếp nhận truyền thông xã hội theo đúng các nguyên tắc Kitô giáo. Lời nhắn nhủ này vẫn còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Trong thời đại Internet, với công cụ có tầm hoạt động và ảnh hưởng hết sức rộng lớn, nhu cầu ấy càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ.
Các trường đại học, cao đẳng, trung học, và các chương trình giáo dục các cấp cần phải cung cấp các khoá đào tạo cho các nhóm khác nhau – “từ chủng sinh, linh mục, tu sĩ nam nữ, cho tới các giáo dân ở cấp lãnh đạo… giáo viên, phụ huynh và sinh viên học sinh” – cũng như cung cấp các khoá đào tạo cao hơn về công nghệ truyền thông, về chính sách truyền thông cho các cá nhân đang chuẩn bị làm việc truyền thông cách chuyên nghiệp hay chuẩn bị giữ các vai trò đưa ra quyết định, kể cả những người làm việc trong địa hạt truyền thông cho Giáo Hội. Ngoài ra, chúng tôi xin giao các vấn đề và thắc mắc đã nói trên đây cho các học giả và các nhà nghiên cứu của các bộ môn có liên hệ tại các cơ sở đào tạo cấp cao của Giáo Hội. (số 11c)
- Bổn phận của cha mẹ về Internet
Cha mẹ có bổn phận quan trọng là hướng dẫn và giám sát con cái trong việc sử dụng Internet. Muốn thế, họ phải nghiên cứu Internet nhiều hơn nữa.
Vì ích lợi của con cái, cũng như vì ích lợi của bản thân mình, các bậc phụ huynh cần phải “học tập các kỹ năng để làm những khán giả, thính giả và độc giả biết phân định, trở thành mẫu mực biết sử dụng cách khôn ngoan các phương tiện truyền thông tại nhà mình”. Vì sử dụng Internet nhiều hơn, trẻ em và thanh thiếu niên hiện nay thường thành thạo hơn cha mẹ chúng, nhưng cha mẹ vẫn có bổn phận quan trọng là hướng dẫn và giám sát con cái trong việc sử dụng Internet. Nếu muốn như vậy, họ phải học tập về Internet nhiều hơn những gì cho tới nay họ đã học, và việc này lúc nào cũng tốt.
Cha mẹ giám sát cũng có nghĩa là phải bảo đảm rằng công nghệ thanh lọc chương trình được đưa vào trong các máy vi tính mà con cái sử dụng, khi điều ấy có thể làm được về mặt tài chính cũng như về mặt kỹ thuật, hầu bảo vệ chúng càng nhiều càng tốt khỏi hình ảnh khiêu dâm, khỏi những hình thức khai thác tính dục và những mối đe doạ khác. Không nên cho phép sử dụng Internet mà không giám sát. Cha mẹ và con cái nên trao đổi với nhau về những gì xem được và những gì trải nghiệm được trong không gian ảo; đồng thời việc chia sẻ với các gia đình khác theo đuổi cùng những giá trị và cùng những bận tâm với mình cũng sẽ rất ích lợi. Nghĩa vụ căn bản của các cha mẹ ở đây là giúp con cái trở thành những người biết sử dụng Internet một cách có nhận định và có trách nhiệm chứ không trở thành những người nghiện Internet đến nỗi không còn quan tâm tiếp xúc với những người cùng trang lứa và với cả thiên nhiên. (số 11d)
- Với trẻ em và giới trẻ
Trẻ em và giới trẻ cần được đào tạo để sử dụng Internet giúp cho đời sống của mình và người khác thêm phong phú, chống lại chủ nghĩa phi văn hoá. Thậm chí họ còn được mời gọi chịu đựng cả sự bách hại để thể hiện chân lý và sự thiện trên không gian ảo của Internet.
Internet là cửa mở cho ta thấy một thế giới đầy hào hứng và quyến rũ, với một ảnh hưởng giáo dục rất lớn. Nhưng không phải mọi sự ở bên kia cánh cửa đều an toàn, lành mạnh và chân thật. “Trẻ em và thanh thiếu niên cần được đào tạo về các phương tiện truyền thông, chống lại con đường dễ dãi là thụ hưởng mà không biết phê bình, không chiều theo áp lực của bạn bè và những hình thức khai thác mang tính thương mại”. Người trẻ được đào tạo như thế để sử dụng Internet cách đúng đắn là nhờ chính bản thân mình, nhờ cha mẹ, gia đình và bạn bè, nhờ các chủ chăn và thầy cô, sau cùng là nhờ ơn Chúa.
Internet trao vào tay người trẻ ở một độ tuổi quá sớm cái khả năng vô hạn để làm điều tốt hay làm điều xấu cho bản thân mình và cho người khác. Nó có thể giúp làm cho đời sống của người trẻ được phong phú thêm, vượt xa những gì mà các thế hệ trước dám mơ tưởng, và đến lượt mình, người trẻ cũng được Internet cung cấp khả năng để giúp đời sống của người khác thêm phong phú. Nhưng nó cũng có thể dìm người trẻ vào trong chủ nghĩa tiêu thụ, trong cơn mê với những hình ảnh khiêu dâm và bạo lực, hay tình trạng cô lập bệnh hoạn.
Người trẻ, như thường nói, là tương lai của xã hội và Giáo Hội. Việc sử dụng tốt Internet có thể giúp người trẻ chuẩn bị để lãnh các trách nhiệm trong xã hội lẫn Giáo Hội. Nhưng điều này không tự động xảy ra. Internet không chỉ là một phương tiện giải trí và làm thoả mãn người tiêu thụ. Nó còn là một dụng cụ giúp ta hoàn thành các việc hữu ích. Người trẻ phải học nhìn ra điều ấy và sử dụng đúng như thế. Trong không gian ảo của Internet, nếu không nhiều hơn thì ít là cũng bằng bất cứ nơi đâu, người trẻ có thể được mời gọi để chống lại làn sóng của chủ nghĩa phi văn hoá, thậm chí họ còn được mời gọi chịu đựng cả sự bách hại vì chân lý và sự thiện. (số 11e)
- Các đức tính cần có
Huấn thị nói đến một số đức tính cần có khi sử dụng Internet, đó là: khôn ngoan, công bằng, mạnh mẽ, can đảm và tiết độ.
Sau cùng, chúng tôi xin đề xuất một số đức tính mà mọi người cần vun trồng nếu muốn sử dụng tốt Internet; muốn thực tập các đức tính này chúng ta cần dựa vào và được hướng dẫn bởi thái độ biết đánh giá nội dung của Internet một cách hiện thực.
Khôn ngoan là đức tính cần có để thấy rõ những gì hàm chứa – tức là tiềm năng làm ra điều tốt và điều xấu – trong phương tiện truyền thông mới mẻ này, và biết đáp ứng cách sáng tạo những thách đố và những cơ hội do phương tiện này tạo ra.
Công bằng là đức tính cần có, đặc biệt là công bằng khi hoạt động để xoá bỏ “sự chia cách kỹ thuật số” – xoá bỏ khoảng cách giữa người giàu thông tin và người nghèo thông tin trong thế giới hôm nay. Muốn thế, cần phải dấn thân phục vụ ích lợi chung của thế giới, nghĩa là, sự liên đới toàn cầu.
Mạnh mẽ, can đảm cũng là điều cần có. Nghĩa là phải biết đứng lên bảo vệ sự thật trước chủ nghĩa tương đối hoá trong tôn giáo và luân lý, bảo vệ tinh thần vị tha và quảng đại trước chủ nghĩa hưởng thụ cá nhân, bảo vệ sự thanh cao trước đam mê nhục dục và tội lỗi.
Và cũng cần có đức tiết độ – tức là có kỷ luật tự giác khi tiếp cận với phương tiện Internet nổi bật này, để sử dụng nó cách khôn ngoan và chỉ nhằm vào việc tốt.
- Diễn đàn Internet
Gần một tháng trước khi hai Huấn thị “Đạo đức trên Internet” và “Giáo Hội và Internet” được công bố, ĐTC Gioan Phaolô II cũng đã gửi đi Sứ điệp “Internet: Diễn đàn mới để Loan Báo Tin Mừng” vào ngày 24-1-2002, nhân dịp tổ chức Ngày Thế giới Truyền thông thứ 36. Ngài đã mô tả “Diễn đàn Internet” như sau:
Internet quả là một “diễn đàn” mới, hiểu theo nghĩa của Rôma cổ, là một địa điểm công cộng nơi đó các việc chính trị và thương mại được tiến hành, các bổn phận tôn giáo được chu toàn, nhiều sinh hoạt xã hội được diễn ra, và những gì tốt đẹp nhất và tệ hại nhất trong bản tính nhân loại được phô bày ra.
Đây là một khoảng không gian của thành phố đông đúc và hối hả, phản ánh nền văn hoá bao quanh, đồng thời tạo nên một nền văn hoá cho riêng mình.
Điều đó cũng đúng với không gian Internet (cyberspace), được xem như là một lĩnh vực mới mở ra vào lúc khởi đầu thiên niên kỷ mới. Giống như những lĩnh vực mới của các thời đại khác, nó cũng đầy những nguy cơ và hứa hẹn, và không thiếu vắng sự mạo hiểm đã đánh dấu những thời kỳ thay đổi lớn lao khác.
Đối với Giáo hội, thế giới ảo mới mẻ này mời gọi một cuộc cuộc mạo hiểm lớn lao là sử dụng năng lực của nó để loan báo Sứ điệp Tin Mừng. Vào lúc khởi đầu của thiên niên kỷ mới, thách đố này nằm ở trung tâm ý nghĩa của việc tuân theo mệnh lệnh “Hãy ra khơi!” của Chúa: Duc in altum! (Lc 5,4). (số 2)
Sứ điệp nhắc nhớ: Ở những nơi thiếu vắng những sách vở tài liệu thánh kinh, thần học, và giáo huấn của Hội Thánh, Internet có thể được coi là một nguồn cung cấp bổ sung quý giá:
… Internet cũng có thể cung cấp một hình thức “đi bước tiếp theo” mà việc loan báo Tin mừng đòi hỏi. Đặc biệt, khi đời sống kitô hữu cần đến những chỉ dẫn và giáo lý vững chắc trong một nền văn hoá không mang lại những trợ giúp, thì có lẽ đây là nơi sẽ nhờ Internet mà được cung cấp những trợ giúp quí báu. Đã sẵn có trên mạng biết bao nguồn thông tin, tài liệu và giáo dục về Giáo hội, lịch sử và truyền thống, giáo thuyết và dấn thân của Giáo hội trong mọi lãnh vực trên mọi nơi của thế giới. Vì thế, rõ ràng rằng, trong khi Internet không thể thay thế kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa mà chỉ đời sống sinh động, phụng vụ và bí tích mới có thể trao tặng, chắc chắn nó cũng có thể cung cấp một bổ sung và trợ lực vô song cho việc chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô trong cộng đoàn và nâng đỡ người mới tin trong cuộc hành trình đức tin vừa mới bắt đầu. (số 3)
- Không chạy theo số đông
Khi tham gia diễn đàn Internet, người ta có cám dỗ muốn uốn nắn sự thật theo thị hiếu để có nhiều followers (người theo đọc) và nhiều comments (trao đổi bình luận). Điều này càng ngày càng rõ nét và thịnh hành, nên trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền Thông thứ 45, ĐTC Bênêđictô XVI lên tiếng:
Chúng ta phải ý thức rằng giá trị của sự thật mà chúng ta muốn chia sẻ không phải do được nhiều người ưa thích hay chú ý. Chúng ta phải làm cho sự thật ấy được biết đến một cách toàn vẹn, thay vì tìm cách làm cho người ta chấp nhận nó hay làm dịu nó đi. Sự thật ấy phải trở nên lương thực hằng ngày chứ không phải là một điều hấp dẫn thoáng qua. Chân lý Tin Mừng không phải là vật để tiêu thụ hay sử dụng một cách hời hợt, nhưng là một ân huệ đòi hỏi sự đáp trả tự do. Ngay cả khi được loan báo trong không gian ảo của mạng lưới Internet, Tin Mừng cũng đòi hỏi nhập thể vào thế giới thực và nối kết với những khuôn mặt thực của anh chị em chúng ta – những người mà chúng ta chia sẻ cuộc sống hằng ngày. Những tương quan nhân bản trực tiếp vẫn luôn là nền tảng cho việc thông truyền đức tin!
Như vậy, một thập niên sau khi công bố những văn kiện đầu tiên của Giáo Hội về Internet, Giáo Hội vẫn thấy nguy cơ chìm đắm trong thế giới ảo và chạy theo những vinh quang ảo còn rất lớn. Và ngày một lớn hơn. Do đó Đức Giáo Hoàng đương kim mới gửi đi Sứ điệp “Sự thật, Việc Loan báo và Cuộc sống thực trong thời đại kỹ thuật số” với ba nét chính:
- Internet: tích cực và tiêu cực
Internet là hiện tượng đặc trưng của thời đại chúng ta. Nó điều khiển những phát triển quan trọng về văn hóa và xã hội. Nó làm thay đổi cả chính sự giao tiếp, và tạo ra sự biến đổi văn hóa rộng lớn.
Internet có thể góp phần làm thỏa mãn niềm khao khát muốn biết về ý nghĩa cuộc đời, muốn khám phá sự thật và tạo sự hiệp nhất. Tham gia mạng xã hội Internet như vậy không chỉ là trao đổi dữ liệu, nhưng còn là chia sẻ, tạo ra những tương quan liên vị mới mẻ. Tuy nhiên việc tham gia này lại có nguy cơ tạo ra tính ảo của chính hữu thể người tham gia. Sự chú ý dễ bị phân mảnh và bị mất hút trong một thế giới “khác” với thế giới họ đang sống.
- Nguyên nhân và mục đích tham gia mạng xã hội
Đức Thánh Cha mạnh mẽ mời gọi tham gia vào mạng xã hội Internet vì:
– mạng lưới này là một phần của cuộc sống con người,
– mạng lưới này đóng góp vào sự phát triển.
Kitô hữu cần tham gia mạng xã hội Internet:
– để loan báo Chúa Kitô với hình thức truyền thông vừa tôn trọng vừa truyền cảm;
– để làm cho thế giới mạng không trở thành một công cụ phi nhân cách hóa con người, mưu toan thao túng cảm xúc con người hay cho phép kẻ mạnh nắm độc quyền các ý kiến của người khác;
– để tìm kiếm chân lý và hiệp thông, truyền thông cách liêm chính và trung thực.
- Cách thức tham gia mạng xã hội
Kitô hữu tham gia mạng xã hội Internet để loan báo Tin Mừng. Loan báo Tin Mừng trên Internet không chỉ có nghĩa là diễn tả nội dung tôn giáo, nhưng còn là làm chứng một cách kiên định, qua bản lý lịch trên mạng, qua cách thức chia sẻ những chọn lựa, những ưu tiên, những phán đoán phù hợp hoàn toàn với Tin Mừng.
Phải ý thức rằng giá trị của sự thật mà chúng ta muốn chia sẻ không phải do được nhiều người ưa thích hay chú ý. Phải làm cho sự thật ấy được biết đến một cách toàn vẹn, thay vì tìm cách làm cho người ta chấp nhận nó hay làm dịu nó đi. Sự thật ấy phải trở nên lương thực hằng ngày chứ không phải một điều hấp dẫn thoáng qua. Sự thật ấy phải được nối kết với những khuôn mặt thực của những anh chị em đang sống chung quanh ta.
- Đức Kitô: mẫu mực và đối tượng của rao giảng trên Internet
Để kết thúc, cả bốn văn kiện: Sứ điệp “Internet, Diễn đàn mới để Loan Báo Tin Mừng”, Huấn thị “Đạo đức trên Internet”, Huấn thị “Giáo Hội và Internet” và Sứ điệp “Sự thật, Việc Loan báo và Cuộc sống thực trong thời đại kỹ thuật số” đều nhắc đến Đức Kitô. Huấn thị “Giáo Hội và Internet” mô tả Đức Kitô như là nhà truyền thông trọn hảo, là mẫu mực của hoạt động truyền thông, và là đối tượng rao giảng trên Internet.
Khi suy nghĩ về Internet, cũng như về các phương tiện truyền thông xã hội khác, chúng tôi nhớ rằng Đức Kitô chính là “nhà truyền thông trọn hảo” – là chuẩn mực và mẫu mực cho Giáo Hội khi tiếp cận việc truyền thông, cũng như là nội dung mà Giáo Hội phải thông truyền cho thế giới. “Ước chi các người Công giáo đang tham gia vào thế giới truyền thông xã hội biết rao giảng sự thật của Đức Kitô một cách mạnh dạn hơn bao giờ hết, rao giảng từ mọi nóc nhà, để mọi người có thể nghe được tình thương, là trọng tâm của thông điệp mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho mọi người nơi Đức Kitô, hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn thế.” (số 12)
Làm cho Đức Kitô hiện diện trên Internet để Ngài trở thành ánh sáng xua tan dần những sức mạnh của bóng tối đang hoành hành trên Internet; và nhờ có Ngài mà thế giới mạng Internet thực sự “có hồn”, có tính nhân vị, có phẩm giá cao cả. Đấy cũng là một trong những nghĩa vụ thiết thực và cấp bách của người Kitô hữu hôm nay.Lm. Giuse Mạnh Hữu
2020
Hãy chiến đấu từng bước với mặt tối của chúng ta
Hãy chiến đấu từng bước với mặt tối của chúng ta
Kể từ tuổi niên thiếu đầu tiên của tôi, tôi chưa bao giờ từ bỏ tham vọng cá nhân thân thiết nhất này: chiến đấu chống lại bóng tối của mình, nhìn nó, soi xét bản thân để thấy nó rõ ràng. Bốn mươi năm nay tham vọng này vẫn trong tôi –dù không phải lúc nào tôi cũng dành đủ thì giờ cần thiết cho nó. Nhiều tuần tôi rất xem trọng nó, xa các khuấy động bên ngoài, rồi nhiều tháng tôi bỏ bê nó. Sau đó, với một chút nhói lòng, tôi lại xem trọng nó, cầm cây viết lên. Tôi lắng nghe bản thân, để nghe tận đáy lòng, tận sâu thẳm tâm hồn, không để nội tâm xáo trộn trồi lên bề mặt.
Giữa tiếng kêu vang từ lòng dạ, với các mối bất hòa nhỏ nhoi trong tâm hồn, tôi thực hành bài tập trị liệu lắng nghe này, nó mang lại cho tôi cảm giác hài lòng rõ ràng – hài lòng tựa như đi khám bác sĩ, cuối cùng bác sĩ cho biết các lý do bệnh và kê toa thuốc để uống.
Chúng ta luôn mơ mình có sức khỏe tốt hơn. Có phải, trong âm thầm, không làm dáng, không tô điểm, chúng ta biết con người thật của mình chăng? Là con người thật của tôi, là một loại sự thật của ánh sáng lướt qua để phân biệt rõ hơn giữa các điểm yếu bị phớt lờ và các điểm mạnh giả định, giữa các điểm yếu ngấm ngầm và sự kiêu ngạo thay thế cho sự chắc chắn. Làm gì với nó đây? Chúng không có ở đó à? Có nên đánh giá chúng mà không quá nhân nhượng không? Và một khi công việc kiểm tra này xong, đối với chúng và đối với tôi, tôi phải thẳng thắn nhất có thể. Tôi nợ sự thẳng thắn này. Tốt hơn: nó có lợi. Nếu không, hiểm nguy mắc bệnh là rất lớn mà không thể biết tên bệnh và chữa trị nó một chút. Và khi căn bệnh này là nỗi buồn kéo dài, hơi hướm của gian ác hoặc lãnh vực của bóng tối mở rộng, không đối phó với nó là để cho nó có cơ sở, là thể xác và tâm hồn từ chức.
Cuối cùng, chúng ta nói về nữ nhà văn Anh Virginia Woolf (1882-1941), bà bị nỗi buồn đeo dai dẳng nhiều năm cho đến lúc bà không buồn chống lại nữa, cuối cùng bà bị nỗi buồn tràn ngập. Bóng tối quá mạnh. Bà đã chết đuối ở đó. Vì vậy, để tránh cái chết từ từ do nước dâng, cái chết gặm nhắm từ bên trong, cái chết ăn mòn ăn lần như căn bệnh ung thư của những suy nghĩ quái quỷ, cuối cùng một buổi sáng, Virginia Woolf đã kết thúc đời mình bằng cách bỏ các viên đá lớn vào túi và đi đến một cái hồ gần nhất. Bà bước xuống, túi nặng trĩu, đi xa hơn về phía trước. Bà muốn tự tử ư? Thực sự là không – mặc dù trông là như vậy. Trước tiên bà muốn giải thoát mình khỏi cái chết nội tâm khủng khiếp đã ở trong bà, đến mức nó chiếm hết chỗ và trục xuất chính bà. Đến một lúc nào đó, bà xa lạ với chính mình, với những cơn gió điên cuồng này thổi vào người. Tất nhiên, bà đã quen với tất cả những suy nghĩ đen tối. Cho đến lúc đó, bà đã sống với chúng. Nhưng đến một thời điểm, bà biết, với một xác quyết không lay chuyển, bà không thể giữ chúng lại được nữa – như một người giữ con chó giận dữ cho đến khi dây xích bị đứt. Nỗi thống khổ của việc bị nuốt chửng đã trở nên phổ biến. Nỗi lo âu bị nghiền nát thắng thế. Sắp tới đây, nỗi lo này sẽ thích thú ăn tim, ăn gan, ăn tâm hồn bà. Nếu bà không đi ra ngoài để gặp cái chết, thì các nút thắt độc địa này nuốt trọn bà, đến tận cùng các hỗn loạn vô tận của một số lý do làm xáo trộn.
Các câu chuyện về cân bằng bấp bênh của các nhà văn thì không thiếu, họ đi trên bờ vực và dễ dàng gục ngã bất cứ lúc nào. Nguồn gốc: một lay động tâm hồn, một vết nứt tâm trí không ngừng lớn lên. Vết nứt bí mật bị chôn vùi dưới đáy sâu, dưới cái chóng mặt của các vực thẳm và của cái hố đen tối, họ sợ nhưng lại cuốn hút họ.
Bài tập nho nhỏ về vệ sinh thiêng liêng
Làm thế nào để sửa chữa hoặc, ít nhất, bít lại phần đen tối thân thiết này? Làm thế nào chúng ta phân biệt được phần nào làm chúng ta yếu đuối khi nó bị lòng thù hận cai trị và phần nào nó làm chúng ta nhạy cảm với các mảnh mờ ảo hiện diện trong từng con người, khi họ được hương vị của huyền nhiệm các sự vật cai trị?
Làm thế nào để cự lại với phần xấu này trong tôi? Làm thế nào để thắng thế?
Tâm hồn tựa chiếc lông
Giáo phụ Cassien nói với chúng ta. Tất cả tùy thuộc chúng ta, chúng ta có để chiếc lông phất phơ trong gió, bị ướt vì độ ẩm xấu không. Vậy chúng ta tìm cách làm sao giữ nó luôn được nhẹ nhàng, khô ráo để có thể bay. Tôi có xem xét tâm hồn tôi, nó có quá nặng nề, quá ẩm ướt, chất chứa quá nhiều đam mê xấu xa không?
Xem xét mớ lộn xộn trong hóc hẻm tâm hồn
Mớ lộn xộn là chế độ tồn tại bình thường của chúng ta. Sự lẫn lộn ngự trị. Nhưng để nhẹ nhàng và để tránh phần độc hại cai trị, hồi tâm là việc cần thiết. Làm thế nào để tôi xem xét mà không tự hài lòng? Làm thế nào để tôi phân biệt được các hạt mầm lành mạnh và bóng tối đang kéo tôi vào cảnh khốn cùng?
Từng bước chống các bóng đen nặng nề của chúng ta
Một tu sĩ đáng kính nói, “Tôi xin bạn, chúng ta nhận chìm các suy nghĩ (xấu) cũng như chúng ta nhận chìm các hành động (xấu)”. Các suy nghĩ thấp hèn dính chúng ta vào các đam mê xấu, vào bóng tối độc hại và chúng phải bị đánh bại. Tôi phải làm gì để chống lại chúng?
Marta An Nguyễn dịch
2020
Đi tu để làm gì?
Từ trước tới nay, trên một số trang mạng Công giáo, độc giả thấy xuất hiện những bài viết có liên quan tới người tu hành và đời sống tu trì. Chẳng hạn như: Bài “Đời sống tu trì: sướng hay khổ?” (conggiao.info), bài “Đi tu để hiến thân hay tiến thân?” (tgpsaigon.net), bài “Đừng đi tu để hưởng thụ” (dongten.net), bài “Đi tu có khó không?” (dongten.net), bài “Đi tu là gì?” (dongten.net), bài “Đi tu hay sống đời thánh hiến” (simonhoadalat.com) vv…
Lần này, cũng liên quan tới đề tài “Tu trì”, chúng tôi xin mạn phép nêu câu hỏi: “Đi tu để làm gì?” và rất mong được quý vị độc giả đón nhận phần chia sẻ của chúng tôi dưới dây.
Xin nhắc lại, ngày 25-8-2020, trong bài giảng thánh lễ phong chức sáu tân linh mục tại giáo phận Phát Diệm, Đức TGM Giu-se Nguyễn Năng đã nhắc nhở các tân linh mục phải làm sao để trở thành hiện thân của Chúa Giê-su là Đầu và là Mục Tử của Giáo Hội. Ngài đã nhắn nhủ như sau:
Ngày hôm nay, chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa bởi vì có 6 người anh em chúng ta được tuyển chọn tham dự vào chức Tư Tế Thừa Tác. Không phải bỗng dưng mà các thầy này tiến lên, nhưng mà được Chúa kêu gọi và tuyển chọn. Chỉ một mình Chúa là Mục Tử, nhưng mà Chúa Giêsu ngày hôm nay đã lên Trời rồi, Ngài không còn hiện diện hữu hình giữa chúng ta nữa. Nhưng mà, Ngài muốn có những người tiếp nối sứ mạng của Chúa. Cho nên, trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Chúa đã nói với các Tông Đồ “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Như Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu, ngày nay Chúa Giêsu cũng sai các con đi, sai các con đi để tiếp nối sứ mạng của Chúa, mà không phải chỉ là tiếp nối, mà còn trở thành hiện thân của Chúa. Là dấu chỉ của Chúa ở giữa dòng đời này. Để làm việc đấy, thì Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ.
Và hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban Chúa Thánh Thần cho các con, để các con được thánh hiến, được đổi mới từ bên trong. Bởi vì linh mục không phải là một người công nhân, không phải là một nhân viên làm công tác xã hội, mà là hiện thân của Chúa. Cho nên Chúa Thánh Thần biến đổi các con từ bên trong, để làm cho các con trở nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu. Chính vì thế, tất cả các con đây, ngày hôm nay, nhờ việc đặt tay và nhờ lời nguyện Thánh Hiến các con trở thành hiện thân của Chúa, là dấu chỉ của Chúa.
Cho nên cả cuộc đời của chúng ta, bản thân của chúng ta, lối sống của chúng ta, lời ăn tiếng nói của chúng ta, cách cư xử của chúng ta, cách phản ứng của chúng ta, cách giải quyết vấn đề của chúng ta, cách phục vụ của chúng ta, tất cả phải làm sao để cho thấy Chúa Giêsu trong con người của các con. Người ta nhìn vào đời sống của các con người ta thấy Chúa Giêsu và người ta có thể thốt lên rằng: quả thật đây là người Mục Tử của Chúa, quả thật đây là hình ảnh của Chúa Giêsu, là linh mục thật chứ không phải là linh mục giả. Cho nên các con phải cố gắng từng ngày nên hoàn thiện hơn.[1]
Ngày trước, với não trạng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, người ta rất coi trọng việc đi tu, coi đó như là một bước đường để “thăng quan tiến chức”. Ngày chịu chức hay ngày khấn dòng thường được coi là dịp để “Vinh quy bái tổ”! Đó là chuyện của ngày trước, nhưng ngày nay thiết nghĩ điều đó vẫn còn để lại dư âm không ít. Và đây cũng có thể là động cơ chính đối với một số ứng viên đứng trước sự chọn lựa theo hay không theo ơn gọi tu trì.
LM Tôma Vũ Quang Trung S.J, trong bài thuyết trình tại Đại hội tu sĩ toàn quốc lần II năm 2008 với đề tài “Nhận định ơn gọi tu trì” đã liệt kê ra 10 động lực vô thức thường hay tiềm ẩn dưới những giá trị tốt đẹp của bình diện ý thức, trong đó xin liệt kê mấy động lực điển hình sau:
Ước muốn phát triển bản thân: Một bạn trẻ có thể được thôi thúc bước vào đời tu như một con đường tiến thân mở ra một bảo đảm tương lai cho bản thân. Lúc ấy, đời tu như một môi trường thuận lợi để phát triển các tài năng cá nhân. Việc phục vụ trở nên một cơ hội phô trương cái tôi trước mặt mọi người. Đặc biệt, trong bối cảnh hôm nay của Giáo hội Việt Nam, nhiều bạn trẻ gõ cửa các nhà dòng, tu hội là để có cơ hội học hành tốt hơn, thậm chí chỉ là để được đi ra nước ngoài. Khi mục tiêu này trở thành đích nhắm của ơn gọi, người ta sẵn sàng chấp nhận uốn mình vào kỷ luật đời tu trong thời gian huấn luyện để ráng “nín thở qua sông”. Qua tới bờ bên kia, họ trồi lên khỏi mặt nước và tiếp tục con đường của riêng mình!
Thoát khỏi cảnh nghèo: Ơn gọi tại Việt Nam hôm nay đa số phát xuất từ những gia đình nghèo ở miền quê. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến việc theo đuổi ơn gọi của ứng sinh. Kinh nghiệm thiếu thốn về đời sống vật chất khi còn ở gia đình có thể biến việc theo đuổi ơn gọi như một bù trừ nhằm thoát khỏi cảnh nghèo đói. Đời tu được xem như bảo đảm chắc chắn về đời sống vật chất và sự an toàn cho tương lai. Khi có được những điều mình tìm kiếm, đời tu cũng sẽ chẳng còn ý nghĩa!
Tìm kiếm sự kính trọng, danh dự: Đời tu có thể bị biến tướng thành một cuộc tìm kiếm ngấm ngầm hư danh của thế gian nơi những thành công của các công việc tông đồ. Lời khen, tiếng chê của người khác dễ gây ảnh hưởng trên quyết định chọn lựa của ứng sinh trong sứ mạng phục vụ. Đặc biệt, yếu tố danh dự gia đình dễ gây ảnh hưởng lớn đến quyết định theo đuổi ơn gọi của ứng sinh, làm cho ứng sinh mất đi thái độ tự do nội tâm cần thiết trong việc nhận định, tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong cuộc đời mình.
Xét như vậy thì không phải tất cả những ai mang danh tu sĩ linh mục đều dấn thân theo ơn gọi đúng như ý Chúa. Họ có thể đi tu theo ý riêng của mình hay theo sự thúc đẩy của người khác.
Ngược lại, có những người chấp nhận đời tu như một dấn thân thực sự, họ không coi việc tu hành như một nghề nghiệp để kiếm tiền hay an thân hưởng lợi. Họ chấp nhận sống nghèo vì Tin Mừng và sẵn sàng hiến thân hi sinh vì Chúa, vì Hội thánh, vì nhân loại.[2]
Xét như vậy, ngoài việc đáp lại tiếng Chúa mời gọi, người theo Chúa cần luôn luôn định hướng cho mình mục tiêu rõ ràng, chân thực, đó là đi tu để làm gì, đi tu cho ai và vì ai. Bởi vì trên thực tế ta có thể thấy không ít người bề ngoài mang danh nghĩa “dâng mình cho Chúa” nhưng thực chất là muốn bước vào đời tu để thỏa mãn danh vọng. Cũng có người lúc đầu thì có ý ngay lành, nhưng sau vì sự cuốn hút và hấp dẫn của những ưu đãi trong đời tu hành, đã đánh mất lý tưởng ban đầu, sa đà vào cuộc sống dễ dãi, hưởng thụ.
Trở lại đề tài nêu trên, “Đi tu để làm gì?”, xin mạn phép đưa ra 3 câu trả lời, như sau: 1- Đi tu để đáp lại lời mời gọi theo Chúa; 2- Đi tu để phục vụ chương trình cứu rỗi của Chúa; 3- Đi tu để trở nên chứng nhân của Tin Mừng.
I.- ĐI TU ĐỂ ĐÁP LẠI LỜI MỜI GỌI THEO CHÚA
Chúng ta xác tín một điều này là, đi tu là đáp lại lời mời gọi của Chúa, là từ bỏ tất cả để theo Chúa. “Các anh hãy theo tôi…” (x. Mt 4, 18-22; Mc 1, 16-20; Lc 5, 1-11; Ga 1, 35-42). Nhưng tự hỏi, theo Chúa để làm gì? Chúa nói rõ hơn, đó là: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” (Mt 4, 19-20).
Như vậy lời mời gọi của Chúa nhắm đến ba điều cơ bản: một là theo Chúa, hai là từ bỏ tất cả và ba là đánh lưới người.
1.1- Theo Chúa: Người đi tu trước hết là người theo Chúa, trở nên môn đệ của Chúa. Khi tự nguyện theo Chúa, họ không thể theo một ai khác, không thể theo một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào đó. Người theo Chúa sẽ chọn Chúa là thần tượng, là thầy dạy, là mẫu gương sống động cho mình trong suốt cuộc đời tu trì. Người theo Chúa lúc đầu chỉ là nghe tiếng Chúa và đáp trả bằng việc lên đường theo Chúa. Sau đó, chính Chúa sẽ huấn luyện, đào tạo họ rồi dần dần biến đổi họ để họ trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Người môn đệ đồng hóa với Thầy mình. Chính thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm này: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” (Gl 2, 20)
Thực vậy, “Đi tu không phải là theo một người nào đó trong nhà dòng. Đó cũng chẳng phải là hành trình đi một mình. Trên hết đó là tiến trình lắng nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi, sau đó, đáp lời để bước theo Ngài (sequela Christi). Khao khát của người tu sĩ là được ở với Ngài. Trong mối tương quan này, người tu sĩ hiểu hơn về Thiên Chúa. Với họ, việc bước theo Đức Giêsu là quan trọng nhất, vì khi đó, họ sẽ đi đúng đường. Ngược lại, những ai đi tu mà vắng bóng Đức Giêsu, người ấy chẳng thể hạnh phúc an bình trong nhà Dòng.”[3]
Một khi đã theo Chúa, người tu trì không được phép nhìn lại phía sau, luyến tiếc quá khứ, lo lắng cho hiện tại và sợ hãi tương lai. Tin Mừng thánh Luca thuật lại như sau:
“Ðức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Ðức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Ðại Thiên Chúa.” Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Ðức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(Lc 9, 59-62)
Trong buổi tiếp kiến sáng 1-6-2017, dành cho 100 tham dự viên khóa họp toàn thể của Bộ giáo sĩ, tiến hành dưới quyền chủ tọa của ĐHY Tổng trưởng Benjamino Stella, ĐTC Phan-xi-cô đã có dịp nhắn nhủ các linh mục trẻ như sau: “Chúng ta chỉ có thể là những người “đánh cá người”, nếu trước tiên chúng ta nhìn nhận mình đã được sự dịu dàng của Chúa thu hút. Ơn gọi của chúng ta bắt đầu khi, rời bỏ lãnh vực cá nhân chủ nghĩa và những dự phóng bản thân của chúng ta, chúng ta tiến bước trong cuộc “du hành thánh”, phó thác cho Đấng là Tình Yêu đã tìm kiếm chúng ta và Tiếng Nói đã làm rung động tâm hồn chúng ta.”[4]
1.2- Từ bỏ tất cả: Có thể nói, “từ bỏ” vừa là mệnh lệnh vừa là điều kiện của người theo ơn gọi tu trì. Đây, Lời Chúa quá rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 26-27); “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 33)
Ngày nay, người ta nói nhiều đến thái độ “buông bỏ” trong đời sống thường ngày, coi đó như một điều kiện để được sống an nhiên, hạnh phúc. Càng buông bỏ nhiều bao nhiêu, ta càng cảm thấy nhẹ nhõm, thảnh thơi bấy nhiêu.
Nhưng cái triết lý buông bỏ ấy không là gì so với yêu cầu từ bỏ mà Chúa đòi hỏi nơi môn đệ. Sự từ bỏ của người theo Chúa không chỉ là từ chối một đời sống theo ý riêng hay một số quyền lợi nào đó, mà là một sự buông bỏ toàn diện, khiến mình trở nên bé nhỏ, nghèo hèn và trống rỗng. Sự từ bỏ đích thực sẽ khiến cho người theo Chúa được thảnh thơi bước vào môi trường đào tạo của Chúa, ở đó mọi dự phóng cá nhân sẽ được thay thế bằng thánh ý nhiệm mầu của Chúa. “Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa” (Tv 39).
Quả thực, người môn đệ, nhờ từ bỏ theo giáo huấn của Chúa mà có thể tập trung vào Đức Ki-tô, chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, và vì Ngài mà họ sống và hoạt động. Bên cạnh đó, từ bỏ đích thực cũng là để sống phục vụ vị tha, không tìm vui sướng nào ngoài vui sướng được liên kết mật thiết với Đức Ki-tô, như lời Ngài phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành”. (Ga 15, 5)
1.3- Công việc “đánh lưới người”: Khi Chúa chọn và gọi các môn đệ đi theo Ngài, Ngài nói rõ công việc mà họ sẽ đảm nhận, “Đánh lưới người”. Nghe thì có vẻ kỳ lạ, nhưng Chúa đã dùng cách nói rất thực tế và một cách loại suy, để họ dễ hiểu. Họ phải đi tìm chỗ nào có con người, nhất là những người nghèo khổ, tội lỗi, bị bỏ rơi, để quăng lưới, để đánh bắt. Chúa không đưa họ vào đền thờ để tu luyện và giảng dạy. Chúa cũng không đem họ lên núi, xuống đồng bằng hay vào các dinh thự…Ngài dẫn họ đến với dân chúng.
Địa chỉ mà môn đệ cần tìm đến, đó là những con người cần nghe Tin Mừng, cần được cứu rỗi. ĐTC Phan-xi-cô đã từng nói: “Hãy ra khỏi bản thân mình để loan báo Tin Mừng, nhưng để làm điều này, các con phải ra khỏi chính mình để gặp gỡ Đức Giêsu. Có hai con đường để ra đi: một là hướng về gặp gỡ Đức Giêsu, hướng về tính siêu việt; đường kia là hướng về tha nhân để loan báo Đức Giêsu. Hai con đường này đi đôi với nhau. Nếu bạn chỉ thực hiện một trong hai thì chẳng ích lợi gì.”; “Cha muốn một Hội Thánh ra đi truyền giáo nhiều hơn, một Hội Thánh không quá tĩnh lặng. Một Hội Thánh xinh đẹp khi biết ra đi.”
Công việc “Đánh lưới người” buộc các môn đệ phải ra đi, dù có mưa bão, dù có sóng to gió lớn, vì họ biết rõ rằng một khi chấp nhận theo Chúa để phục vụ Tin Mừng thì phải hy sinh, phải vất vả, phải cực nhọc. Theo Chúa có nghĩa là vác thánh giá của chính mình và của những ai Chúa trao phó mình. Chúa đã nói: “Mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11). Khi nói về tính cách tự nguyện hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, Chúa Giê-su nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được. Nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10, 18).
ĐGM GB. Bùi Tuần, Giáo phận Long Xuyên, trong bài viết “Hy sinh mạng sống mình”, đã chia sẻ như sau:
Chúa Giêsu kêu gọi các mục tử hãy biết hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, không phải chỉ những lúc cần bảo vệ chiên khi có sói tấn công chiên, mà còn cả những lúc tự nguyện, khi sự hy sinh mạng sống của mình có lợi cho chiên, để họ được cứu độ. Đã hẳn, bổn phận của người mục tử là biết chăn nuôi, biết bênh vực, biết dẫn dắt, biết quy tụ. Nhưng không phải chỉ có thế. Chúa Giêsu còn nhấn mạnh đến việc hy sinh mạng sống. Như thế, việc hy sinh mạng sống là đức tính cao quý nhất của người mục tử theo mẫu gương Chúa Giêsu. Hy sinh mạng sống mình, đó là dấu chỉ chắc chắn nhất, để nhận ra ai là mục tử đích thực, mà Chúa Giêsu mong muốn.[5]
II.- ĐI TU ĐỂ PHỤC VỤ CHƯƠNG TRÌNH CỨU RỖI CỦA CHÚA
Chúng ta đều biết rằng, đi tu không phải để LÀM một nghề gì đó. Ơn gọi linh mục, tu sĩ không phải là một nghề nghiệp. Đi tu không phải là tham gia một nghề nghiệp, có biên chế, có lương bổng, có thăng quan tiến chức. Đi tu không làm quan mà là đầy tớ phục vụ Chúa và cộng đoàn cứu rỗi của Ngài.
ĐGM Phê-rô Nguyễn Soạn, giáo phận Qui Nhơn, trong bài giảng đề tài “Khủng hoảng trong đời sống linh mục”, đã chia sẻ như sau:
Trong khi thi hành mục vụ, các linh mục thích đi vào chính trị, thích làm các công tác chuyên môn ở đời, muốn làm bác sĩ, kỹ sư, phi hành gia, nhà xã hội, nhà văn v.v… Trong lúc đó người ta cần nơi chúng ta không phải là điều họ có, mà là điều họ không có. Jean Guitton có lần viết trong báo Le Christ au Monde: “Chúng tôi không cần các linh mục làm những việc như chúng tôi, mà các linh mục làm sao làm các điều ấy có hiệu năng như chúng tôi được. Chúng tôi là những nhà chuyên môn. Còn các linh mục phải lo những chuyện của mình như bận đọc kinh, bận dâng lễ và các công tác mục vụ khác nữa. Điều chúng tôi cần, là đời sống chứng tá và các lời rao giảng của các linh mục…” [6]
Những người được Chúa Giê-su gọi và chọn vào hàng ngũ những người tu trì là để phục vụ cho chương trình cứu độ mà Chúa Cha đã trao cho Ngài. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Mối bận tâm của người môn đệ là thi hành ý Chúa và làm những gì Chúa mong đợi. Người môn đệ cần hiểu Chúa muốn gì nơi mình và mình phải làm gì đúng với ý Chúa.
Người môn đệ là người được chọn và sai đi để loan báo và làm chứng cho Tin Mừng, cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giê-su đã long trọng trao phó sứ vụ tông đồ cho các môn đệ Chúa chọn: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…” (x. Mt 28, 18-20; Mc 16, 15). Và “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trong anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (x. Cv 1, 8).
Một tác giả đã chia sẻ như sau: Là linh mục, chính là trở nên như Giêsu, vị linh mục đầu tiên và hoàn hảo nhất. Đó là con người gắn với Cha không ngơi, và nhờ đó mà luôn có lòng thương cảm dành cho con người, luôn thao thức trước đồng lúa mênh mông không người gặt và đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt. Họ thổi vào nhân gian luồng gió mới, họ đánh thức con người khỏi giấc mộng mê muội của những cái mau qua. Họ chiếu sáng thế giới bằng ánh sáng nhân đức và sưởi ấm lòng người bằng ngọn lửa yêu thương.
Có thể nói, linh mục là người mang Thiên Đàng xuống trái đất này và đưa con người lên cao đụng chạm với Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu, họ ý thức rằng họ đến “để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”; họ gắn kết cuộc đời mình với mọi con người dù người đó có giàu sang hay nghèo khổ, thánh thiện hay tội lỗi, cao sang hay hèn kém. Họ đảm bảo cho người ta hạnh phúc Nước Trời “anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”; họ trao ban bình an, sự tha thứ và đưa người ta đến cuộc sống mới tươi đẹp hơn “cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.[7]
Ai cũng biết rằng, việc phục vụ chương trình cứu rỗi của Chúa phải là mối bận tâm hàng đầu của người Chúa chọn. Tuy nhiên, đây đó tín hữu chúng ta có thể thấy những sự việc không phù hợp. Nhiều vị đam mê vào những việc không phải là nhiệm vụ chính của mình, như xây cất, kinh doanh, mở mang phong trào, xây dựng đoàn thể, tổ chức du lịch kết hợp hành hương vv… Các vị coi đó như là những nhiệm vụ trọng tâm của mình.
Khi Đạo chỉ quy chiếu vào những việc hình thức, bề ngoài thì điều đó sẽ khiến cho Đạo của Chúa mất đi sức sống nội tại, sức sống biến đổi thế giới bằng tình thương cứu độ, bằng tinh thần nghèo khó của Tin Mừng và qua những gương sáng của nếp sống từ bỏ. Đức cố HY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Làm chứng về Đức Tin trước mặt mọi người, thì quan trọng hơn tìm cách thoả mãn thị hiếu của họ” (Trích trong Mười điều răn của LM).
LM Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP., trong bài viết có tựa đề “Đạo sinh hoạt” khi bàn về việc giáo sĩ và tu sĩ khẳng định mình trong sinh hoạt, đã nhận định như sau:[8]
Giới giáo sĩ và tu sĩ VN đang có rất nhiều nỗ lực để canh tân sinh hoạt tôn giáo. Giáo hội VN, nói chung, vẫn còn khá nhiều ơn gọi và vẫn còn một nguồn giáo sĩ, tu sĩ tương đối trẻ, năng động, để có thể xoay xở trong những sinh hoạt tôn giáo nhằm thu hút sự tham gia của người Ki-tô hữu. Quả thật, hiện nay, chính những nỗ lực sáng tạo, đổi mới hình thái sinh hoạt tôn giáo cho hấp dẫn hơn, sinh động hơn, đang là sức mạnh chính yếu để giữ gìn nếp sống đạo trong Giáo hội VN.
Tuy nhiên, trong bầu không khí chung của một thứ “đạo sinh hoạt”, phần lớn giáo sĩ và tu sĩ có lẽ cũng không thoát được tâm thức chung. Khả năng khẳng định mình trong sinh hoạt Giáo hội đã trở thành “giá trị” lớn trong lòng Giáo hội VN và chính “giá trị” ấy đang tác động sâu xa trong mọi lãnh vực, cả trong ý nghĩa ơn gọi.
Do đó, tầng lớp giáo sĩ và tu sĩ nhận thấy trách nhiệm chính yếu của mình là đảm nhận những tổ chức và sinh hoạt trong Giáo hội, và ngầm hiểu rằng điều làm nên “sức sống” của Giáo hội VN cũng chính là những sinh hoạt và tổ chức sầm uất… Nhiều giáo sĩ và tu sĩ bận tâm chuẩn bị những “kỹ năng” cần thiết trong sinh hoạt của Giáo hội nhiều hơn là bận tâm sống giá trị Tin Mừng. Nhiều giáo sĩ và tu sĩ nỗ lực làm cho tổ chức phụng vụ được hấp dẫn và lôi cuốn chứ không mấy ưu tư cần làm gì để nuôi dưỡng đức tin chân chính và thật sự loan báo Tin Mừng cứu độ.
III.- ĐI TU ĐỂ TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN CỦA TIN MỪNG
ĐTC Phao-lô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”.
Nhà tu hành có thể là chứng nhân bằng nhiều cách, trong mọi hoàn cảnh và mọi thời đại. Trong khi các linh mục, tu sĩ kêu gọi mọi tín hữu phải trở nên ánh sáng, phải là muối men cho đời, thì trước đó các ngài phải là gương sáng để lời giảng dạy của các ngài được thuyết phục hơn. Người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo.”
Ở đây, xin bàn đến khía cạnh chứng nhân về sự phục vụ hết mình và về đời sống khó nghèo theo Tin Mừng của người theo Chúa.
3.1- Chứng nhân về sự dấn thân hết mình phục vụ
Như trên đã nói, Đức Giê-su tuyển chọn môn đệ không phải làm quan cai trị thiên hạ, nhưng là làm đầy tớ phục vụ dân Thiên Chúa. Đức Giê-su đã nhấn mạnh: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10, 42-45).
Tông thư “Pastores Dabo Vobis” của Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II về việc đào tạo linh mục (số 22-23) đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau: “Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh-mục-Mục-Tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình
toàn thể cộng đoàn và từng thành viên”.
Phục vụ là cung cách làm việc và hành xử của một đầy tớ chứ không phải của ông chủ. Hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ đã minh họa rõ ràng về điều đó. Và còn hơn thế nữa, đối với Chúa, tột cùng của phục vụ là hy sinh mạng sống và chịu chết vì đàn chiên. Cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh hùng hồn cho điều đó. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8); “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13).
Cha Antoine Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Khi dấn thân vào đời sống phục vụ, linh mục chấp nhận sự sống mình phải chịu tiêu hao đi vì người khác. Cộng đoàn tín hữu là một gia đình trong đó linh mục được sai đến để chăm sóc, lo lắng và làm gương. Ngài luôn tự nhủ rằng việc ngài đến là “để phục vụ”. Người phục vụ luôn luôn là người chịu thiệt thòi, lo trước cái lo của dân Chúa và vui sau cái vui của họ. Nếu ngày đưa đón cha về nhận giáo xứ mới, lòng đầy nỗi hân hoan, vui sướng bao nhiêu thì những ngày sau đó, là một núi công việc đang chờ đợi bàn tay và khối óc của linh mục. Nỗi lo lắng của ngài không phải là an hưởng bản thân mà là gánh vác công việc cộng đoàn, ở đó bao con người đang mong đợi và cần sự hiện diện của ngài.
Linh mục sẽ luôn luôn phải thao thức về các nhu cầu của cộng đoàn, qua đó ngài biết nên làm gì và làm như thế nào để họ “được sống và sống dồi dào”. Sự hy sinh của linh mục không chỉ là chịu đựng một vài khó khăn trong vấn đề ăn uống, nhà ở, phương tiện này nọ mà là “chỉ có một sự cần”, đó là làm sao mình phải bé nhỏ, tiêu hao đi để cho Đức Ki-tô lớn lên trong cộng đoàn. Làm sao để Tin Mừng thực sự lan tỏa trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội-đoàn-nhóm tín hữu. Làm sao hạn chế được những chia rẽ, bất hòa, hành xử cục bộ, bè phái…để mọi người sống hiệp nhất yêu thương như Chúa đã dạy. Nguyên chỉ với những thao thức đó thôi, linh mục cũng đã phải “tự tiêu hao” biết bao dự phóng, bao sáng kiến, bao lo toan, bao kế hoạch riêng tư…Nói cách khác, khi lo cho người khác được lớn lên, linh mục sẽ hy sinh chính bản thân ngài.
ĐTGM Giu-se Nguyễn Chí Linh đã có lần chia sẻ như sau: “ ‘Yêu mến giáo dân như Đức Kitô, trao cho họ tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì họ nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô’ (Pastores dabo vobis). Tôi nghĩ rằng đây là bí quyết để linh mục huấn luyện con tim mục tử của mình có được sự nhạy cảm của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn đám đông không người chăn dắt mà chạnh lòng thương. Phải đạt cho tới trình độ hễ nhìn thấy dân là thương. Theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, đám đông luôn là một đàn chiên bơ vơ. Họ cần đến mục tử chăn dắt họ, họ cần đến linh mục. Nếu không tạo được một con tim mục tử, tự khắc chúng ta sẽ biến mình thành một tên Pharisiêu đã bị Chúa Giêsu lên án là chất lên vai người khác những gánh nặng mà chính mình không vác được”.[9]
3.2- Chứng nhân đời sống khó nghèo vì Tin Mừng
Sự khó nghèo của môn đệ trong đời sống tận hiến là khó nghèo tự nguyện vì Tin Mừng. Họ đi theo Chúa, bỏ lại tất cả, thì không có lí do gì mà lại luyến tiếc của cải trần gian cả. Chấp nhận sống nghèo theo giáo huấn của Chúa, người môn đệ sẽ đạt được ba điều lợi ích sau:
– Sống nghèo để được hoàn toàn tự do chuyên lo việc của Chúa và của Hội thánh.
– Sống nghèo để làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Ki-tô.
– Sống nghèo để thông cảm và chia sẻ sự túng thiếu của những người nghèo.
ĐGM GB. Bùi Tuần, giáo phận Long Xuyên, trong tập “Truyền giáo”, tài liệu tĩnh tâm các linh mục Tổng giáo phận Saigon năm 1990 đã viết: “Khi Chúa Giê-su sai các tông đồ đi làm nhiệm vụ Lời Chúa, Người bảo các ông đừng mang theo nhiều hành lý, dù đó là quần áo, tiền bạc. Chúa muốn các môn đệ ra đi với thái độ nghèo, không những nghèo về thái độ khiêm tốn bên trong, mà cũng nghèo cả về vật chất nữa. Bởi vì thái độ nghèo về vật chất chính là một hành trang tinh thần có giá trị lớn tăng bản lãnh cho người làm nhiệm vụ Lời Chúa. Nó giúp cho môn đệ Chúa làm chứng được phần nào mầu nhiệm thánh giá cứu độ và tám mối phúc thật là những điều quan trọng của Lời Chúa”.
Vậy thì khi dấn thân theo ơn gọi tận hiến, người môn đệ của Chúa tự nguyện chấp nhận sống nghèo, xem như đó là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi tận hiến, như ý Chúa muốn và như Hội thánh mong đợi. Chính ĐTC Phan-xi-cô đã khẳng định: “Tôi ước muốn một Giáo hội nghèo và cho người nghèo.” Ngoài các Ki-tô hữu nói chung, thì thành phần nòng cốt các linh mục, tu sĩ nói riêng, là những nhân tố cần thiết giúp xây dựng và củng cố một Hội thánh nghèo và chính họ cũng trở thành nơi nương tựa bám víu của những người nghèo hèn khốn khổ trong xã hội.
Thực vậy, “Đức nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores Dabo Vobis 30)”.[10]
Quả vậy, nhờ đời sống nghèo đích thực theo tinh thần của Tin Mừng Ki-tô giáo, môn đệ sẽ an tâm sống cuộc đời hiến tế của mình theo gương thầy chí thánh Giê-su. Cái lo của họ chắc chắn sẽ không hướng hoàn toàn về việc phải ăn gì, uống gì, mặc gì, nhà cửa ra sao…(x. Mt 6,25-34), trái lại, mối bận tâm chính của các ngài chính là cố gắng trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô, cố gắng để trở thành con người sinh ích lợi cho mình và cho người khác. Và sự đòi hỏi chính yếu đặt ra cho người theo Chúa, đó là tinh thần dứt khoát từ bỏ như lời Ngài đã chỉ dạy: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24); và “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy.” (Lc 14,33) ./.
[8] LM Nguyễn Trọng Viễn OP – Đạo sinh hoạt – NS. CGvDT số 308 trang 12-13
[9] Đức TGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên linh mục Giáo phận Đà Lạt từ ngày 16 đến 22-02-2009, simonhoadalat.com
[10] LM An-rê Đỗ Xuân Quế OP – LM và của cải trần gian –
Aug. Trần Cao Khải