2020
Đức Giêsu Kitô – Đường tôi tớ
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (11)
Đức Giê-su Ki-tô
ĐƯỜNG TÔI TỚ
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 11 năm 2020
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng Mười vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Khiêm Hạ. Tháng Mười Một này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Tôi Tớ. Người đã khởi đầu con đường này bằng việc trút bỏ chính mình để thi hành sứ mệnh của Thiên Chúa giữa trần gian. Trong thân phận con người, Đức Giê-su đã trở thành Người Tôi Tớ của Thiên Chúa để yêu thương và phục vụ nhằm khôi phục phẩm giá mọi người, đồng thời, giúp mọi người trở thành con cái Thiên Chúa.
Thông thường, khái niệm ‘tôi tớ’ (servant) chỉ người phục vụ, hầu hạ hoặc người được ủy thác để làm những công việc của chủ mình, đặc biệt là phục vụ bàn ăn. Người tôi tớ luôn sẵn sàng vâng phục, thi hành ý muốn của chủ, trao đổi, tiếp xúc với chủ cũng như những người khác bằng trái tim cháy bỏng, ánh mắt thông hiểu và đôi tay chai sạn. Tất cả những gì mà người tôi tớ thực hiện nhằm đem lại sự dễ chịu cho chủ hay người mình chăm sóc. Khái niệm ‘tôi tớ’ còn được sử dụng theo nghĩa rộng hơn, chẳng hạn như tôi tớ nhân dân hay tôi tớ mọi người.
Trong Giáo Hội Công Giáo, Tôi Tớ Thiên Chúa (Servus Dei, Servant of God) là bậc đầu tiên trong tiến trình phong thánh. Từ bậc Tôi Tớ Thiên Chúa, tiến trình điều tra bắt đầu để tìm hiểu những nhân đức trổi vượt của người được đề nghị tuyên phong hiển thánh. Sau bậc Tôi Tớ Thiên Chúa là bậc Đáng Kính (Venerable), Chân Phước (Blessed) và Hiển Thánh (Saint). Chúng ta cũng cần phân biệt tước hiệu Tôi Tớ Thiên Chúa của người trong tiến trình được phong thánh với tước hiệu Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ (Servus Servorum Dei, Servant of the Servants of God), một trong những tước hiệu của các Đức Giáo Hoàng. Người đầu tiên dùng tước hiệu này là thánh Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả (540-604, thi hành tác vụ Mục Tử Giáo Hội hoàn vũ trong khoảng thời gian 590-604). Đây là tước hiệu diễn tả sự khiêm hạ của người kế vị thánh Phê-rô trong Giáo Hội do Đức Giê-su thiết lập. Từ thế kỷ XII trở đi, tước hiệu này được hầu hết các Đức Giáo Hoàng sử dụng.
Hình ảnh ‘chủ – tớ’ thường được dùng trong Kinh Thánh để chỉ tương quan giữa Thiên Chúa và con người, trong đó Thiên Chúa là ‘Chủ’, con người là ‘tớ’. Các nhân vật điển hình trong Kinh Thánh như Nô-ê, Áp-ra-ham, Gia-cóp và con cháu ông, Mô-sê, Đa-vít, Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se, thánh Gio-an Tẩy Giả được gọi là các tôi tớ Thiên Chúa. Chẳng hạn, Lời Chúa trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Còn ngươi, hỡi Gia-cóp, tôi tớ của Ta, đừng sợ hãi” (Gr 46,28). Tác giả Thánh Vịnh 123 viết: “Như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta” (Tv 123,2). Đức Ma-ri-a nói với sứ thần Gáp-ri-en: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Các tôi tớ Thiên Chúa trong Kinh Thánh là hình ảnh báo trước sự xuất hiện của Đức Giê-su, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa và cũng là Người Tôi Tớ của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người.
Khoảng 700 năm trước Đức Giê-su, ngôn sứ I-sai-a đã loan báo về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,2-5). Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, lịch sử nhân loại chưa từng ghi nhận người tôi tớ nào như I-sai-a diễn tả ở trên. Nói cách khác, những lời đó đã được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Chính thánh Phê-rô cũng đã khẳng định như thế khi viết: “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em…Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành“ (1 Pr 2,21-24).
Ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su không chỉ là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa (Servant of God) mà còn là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa (the Suffering Servant of God), bởi vì Người đã mang lấy toàn bộ những khiếm khuyết, tội lỗi và sự chết của nhân loại. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su diễn tả mình là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa để thông phần với những đau khổ của nhân loại hơn là thực thi những chiến công hiển hách nhằm minh chứng quyền năng của Người. Câu hỏi đặt ra là tại sao gia đình nhân loại phải cần đến Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa? Thưa, tại vì con người không có khả năng giải thoát mình khỏi tất cả các hình thức đau khổ và sự chết. Chỉ có Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa mới có thể làm được những điều đó.
Đức Giê-su là Thiên Chúa, nhưng Người diễn tả uy quyền của Người trong thân phận Người Tôi Tớ qua sự cảm thông, chia sẻ, phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ, cùng cực, bị áp bức và muôn hình thức đau khổ khác. Uy quyền của Đức Giê-su khác với uy quyền của những người đương thời, chẳng hạn, khác với uy quyền của tầng lớp lãnh đạo thuộc đế chế Rô-ma đang cai trị vùng Pa-lét-tin. Uy quyền của Đức Giê-su khác với uy quyền của những người lãnh đạo dân sự hay tôn giáo trong xã hội Do-thái. Trong khi các vị lãnh đạo dân sự hay tôn giáo Do-thái xem mình như là những người quan trọng, ‘những hoàng tử’ của dân tộc, Đức Giê-su diễn tả mình như Người Tôi Tớ tận tình hiến thân phục vụ mọi người.
Để diễn tả tương quan giữa con người và Thiên Chúa cách cụ thể hơn, Đức Giê-su cũng đã dùng hình ảnh ‘chủ – tớ’. Chẳng hạn, Người dạy các môn đệ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng thi hành tác vụ của mình để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ” (Lc 12,35-37). Người cũng nói với họ cần phải phục vụ chủ mình cách chân tình, khiêm tốn: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,9-10). Đối với Đức Giê-su, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại khi tận tình phục vụ anh chị em mình bằng trái tim đầy lòng thương xót.
Đức Giê-su còn dùng hình ảnh ‘chủ – tớ’ để diễn tả tình yêu thương trắc ẩn giữa con người với nhau. Dụ ngôn ‘tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót’ cho chúng ta hiểu biết điều đó (Mt 18,23-35). Theo dụ ngôn này, tên đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng (khoảng 60 triệu ngày công). Vì thương cảm hoàn cảnh túng thiếu, vua đã tha nợ cho ông. Tuy nhiên, khi gặp đồng bạn mắc nợ ông chỉ một trăm quan tiền (khoảng 100 ngày công) thì ông lại bóp cổ đồng bạn bắt trả nợ bằng được. Cuối cùng thì câu chuyện cũng đến tai vua và tên đầy tớ phải chịu cực hình vì không biết thương xót người khác như đức vua đã thương xót ông. Quả thật, ông là đầy tớ của vua, nhưng lại là chủ nợ của đồng bạn. Đáng lẽ, tình yêu của đức vua phải được chia sẻ và lan tỏa tới đồng bạn của ông. Tuy nhiên, vì nhỏ nhen ích kỷ, ông đã đối xử tàn nhẫn với đồng bạn mình và phải gánh lấy hậu quả xứng hợp.
Trong xã hội Do-thái thời Đức Giê-su, những người lãnh đạo, chẳng hạn như các luật sĩ, biệt phái không bao giờ quan tâm đến vai trò tôi tớ, vai trò phục vụ của mình. Họ xem mình là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, được sinh ra để ăn trên ngồi trốc. Não trạng của họ luôn là não trạng ‘kẻ cả’ như thể họ được sinh ra là để được tôn vinh chứ không tôn vinh ai, để lãnh đạo chứ không phục vụ ai, để ra lệnh chứ không vâng lời ai, để giảng dạy chứ không học hỏi ai, để lên tiếng chứ không lắng nghe ai. Họ luôn ‘giữ khoảng cách’ với những người thuộc các tầng lớp thấp kém hơn mình, nhất là những người mà họ xem là ngoại bang, tội lỗi. Hình ảnh của họ hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Đức Giê-su, Người Tôi Tớ. Trong thời gian ba năm Người rao giảng Tin Mừng cách công khai cũng là thời gian Người dấn thân thi hành vai trò tôi tớ phục vụ, đặc biệt, lời nói và việc làm của Người luôn đi đôi với nhau.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ mình. Đối với các nền văn hóa trên thế giới, đặc biệt vùng Pa-lét-tin, vua rửa chân cho dân, thầy rửa chân cho trò, chủ rửa chân cho tớ là điều không thể tưởng được. Tuy nhiên, với Đức Giê-su, điều khó tin đã trở thành hiện thực. Chúng ta biết rằng thời Đức Giê-su, đường sá bụi bặm, thông thường khi chủ nhà đi đâu về thì tôi tớ rửa chân cho chủ nhà hay khi chủ nhà mời bạn bè tới dự tiệc, thì chủ nhà cũng sai tôi tớ rửa chân cho họ để tỏ lòng hiếu khách. Trong bối cảnh Đức Giê-su và các môn đệ mừng Lễ Vượt Qua, không có ai là tôi tớ cả và Đức Giê-su đã tự mình trở thành tôi tớ rửa chân cho các môn đệ. Với Đức Giê-su, trật tự vua – dân, thầy – trò, chủ – tớ đã hoàn toàn thay đổi.
Việc Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ diễn tả sự gần gũi của Thiên Chúa với con người. Điều này có nghĩa rằng Thiên Chúa không còn ở xa con người nữa, Thiên Chúa không chỉ giam hãm mình trong thế giới linh tượng như một số triết gia Hy-lạp chủ trương. Thiên Chúa đích thật là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Với Đức Giê-su, Thiên Chúa ở gần con người hơn con người có thể tưởng nghĩ, bởi vì, qua việc rửa chân, Thiên Chúa đã đụng chạm đến da thịt con người. Thiên Chúa gần gũi con người hơn con người gần gũi anh chị em thân thuộc. Theo ngôn ngữ của thánh Au-gút-ti-nô, Thiên Chúa ở gần con người hơn con người với chính mình.
Việc Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ diễn ra trong bối cảnh Người chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn. Thông thường, trước cảnh bi thương sắp xảy đến, ai cũng lo lắng, buồn sầu và có những hành xử tiêu cực. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho chúng ta thấy rằng Người không hành xử theo cách đó. Trái lại, Người diễn tả tình yêu phục vụ của Người ở mức độ cao cả nhất. Cũng trong biến cố này, Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể và công bố Giới Răn Mới, Giới Răn Yêu Thương, yêu thương đến nỗi gọi các môn đệ của mình là bạn, yêu thương đến nỗi chết cho bạn hữu của mình (Ga 15,13-15).
Đức Giê-su không chỉ rửa chân cho ‘các môn đệ tốt lành’, mà còn rửa chân cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, môn đệ phản bội. Người ta tranh luận nhiều về mục đích Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Đức Giê-su. Có người cho rằng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Đức Giê-su vì mục đích tốt là để Đức Giê-su sớm ra tay quyền lực tiêu diệt mọi quân thù. Nhờ đó, Ít-ra-en sẽ trở nên hùng cường với Đức Giê-su là Vua, còn các môn đệ trở thành những bậc vị vọng trong đất nước. Tuy nhiên, cho dù là mục đích tốt thì việc Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Thầy mình là không thể chấp nhận được, bởi vì ‘mục đích tốt không biện minh cho phương tiện xấu’. Đức Giê-su đã cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt cơ hội để hoán cải nhưng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt vẫn cố chấp theo chương trình mà bản thân định sẵn. Việc Đức Giê-su rửa chân cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là bài học quý giá cho chúng ta, bởi vì, chúng ta thường yêu thương, phục vụ những người đối xử tốt với chúng ta, chứ không yêu thương, phục vụ những người đối xử xấu với chúng ta.
Phao-lô là khuôn mặt phản diện của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Sau khi gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh, ngài được biến đổi hoàn toàn. Ngài đã nhận thức được bổn phận của mình trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Với Phao-lô, Đức Giê-su không chỉ là Người Tôi Tớ mà còn là Người Nô Lệ. Đức Giê-su mang lấy thân phận nô lệ để giải phóng con người khỏi các hình thức nô lệ, đặc biệt, nô lệ tội lỗi và sự chết. Hơn ai hết, Phao-lô là người diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su cách ngắn gọn và đầy đủ nhất: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Hai động từ rất quan trọng trong trích đoạn này là ‘trút bỏ’ và ‘mặc lấy’. Đây là hai động từ chính yếu diễn tả chương trình Đức Giê-su giữa lòng thế giới. Trong nhãn quan của Phao-lô, Đức Giê-su vừa ‘trút bỏ vinh quang’, vừa ‘mặc lấy thân nô lệ’ nữa. Những tôi tớ hay nô lệ khác trong xã hội loài người không ‘trút bỏ’, không ‘mặc lấy’, không phải tự mình trở thành tôi tớ hay nô lệ như Đức Giê-su.
Chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su có thể ‘trút bỏ vinh quang’ và ‘mặc lấy thân phận’ của bất cứ hạng người nào đó trong môi trường nhân loại, chẳng hạn như một vị vua, một vị hoàng tử, một vị tướng lãnh, một vị tư tế hay một thường dân. Câu hỏi đặt ra là ‘tại sao Đức Giê-su lại mặc lấy thân nô lệ?’. Thưa, tại vì con người trở thành nô lệ của tội lỗi và sự chết, do đó, Đức Giê-su mặc lấy thân nô lệ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết, không chỉ là sự chết thể lý (chết tự nhiên) hay sự chết luân lý (phạm tội trọng) mà còn là sự chết vĩnh cửu. Điều này diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa và đường lối đặc biệt của Người đối với tất cả mọi người. Đức Giê-su vô tội, nhưng đã mang lấy thân phận tôi tớ, thân phận nô lệ để liên đới với con người trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt trong đau khổ và sự chết.
Những diễn tả của thánh Phao-lô về Đức Giê-su giúp chúng ta nhớ lại câu chuyện Giu-se, một trong mười hai người con trai của Gia-cóp trong Cựu Ước. Giu-se bị các anh mình bán sang Ai-cập như một nô lệ (St 37,1-36). Tuy nhiên, Thiên Chúa đã biến sự dữ thành sự lành, Giu-se đã được trọng dụng và trở nên người quan trọng của triều đình Ai-cập. Trong cảnh đói kém, dân Do-thái đã tới tận Ai-cập tìm kiếm lương thực, thực phẩm để nuôi sống các thành viên trong đại gia đình. Tương tự như vậy, nhưng với mức độ kỳ diệu và huyền nhiệm hơn, Đức Giê-su đến trần gian, Người đã mặc lấy thân phận nô lệ (Pl 2,7). Người đã bị Giu-đa bán với giá ba mươi đồng bạc (Mt 26,15). Nhờ Giu-se, con cháu nhà Gia-cóp được cứu khỏi cảnh chết đói, nhờ Đức Giê-su, toàn thể nhân loại được cứu khỏi cảnh chết đời đời. Như vậy, ‘Giu-se, Giê-su’ là hình ảnh và thực tại, hình ảnh Giu-se tiên báo thực tại Giê-su, Đấng thực hiện chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Trong tư cách là Tôi Tớ của con người, Đức Giê-su đã phục vụ con người, đem lại cho con người niềm vui, hạnh phúc và bình an. Nếu không có sự phục vụ của Đức Giê-su, con người không thể nào đạt được niềm vui, hạnh phúc và bình an đích thực. Đức Giê-su thể hiện mình là Người Tôi Tớ cho đến tận cùng, không chỉ tận cùng hành trình trần thế của Người, mà còn tận cùng hành trình trần thế của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cũng như muôn vật muôn loài. Người nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Hiệu quả của chương trình Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện vẫn tiếp tục lan rộng trong môi trường nhân loại và toàn thể thế giới thụ tạo.
Như đã được trình bày ở trên, thánh Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả là người đầu tiên dùng tước hiệu Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ (Servus Servorum Dei) để nói về vai trò của ngài đối với Giáo Hội. Trong Kinh Thánh, Đức Giê-su không nói rằng Người là Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ. Tuy nhiên, căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người diễn tả điều đó. Tước hiệu ‘Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ’ mà thánh Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả dùng có thể xem như là kết quả việc ngài suy niệm về Đức Giê-su. Bởi vì, hơn tất cả mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, Đức Giê-su là Người Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ, bởi vì Người đã phục vụ những người nghèo nhất trong số các người nghèo, những người bất hạnh nhất trong số các người bất hạnh, những người tội lỗi nhất trong số con cháu A-đam và E-và.
Đức Giê-su có nhiều tước hiệu và đa số là những tước hiệu cao quý. Những tước hiệu này thường được dùng cho những bậc vị vọng trong xã hội loài người, chẳng hạn như ‘vua’, ‘hoàng tử’, ‘đấng giải phóng’. Thật là khập khiễng khi con người dùng các tước hiệu như thế để diễn tả Đức Giê-su, bởi vì Người là Vua, Hoàng Tử, Đấng Giải Phóng nhưng Người không giống bất cứ vị vua, hoàng tử, hay đấng giải phóng nào đó trong dòng lịch sử nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng các tước hiệu để diễn tả Đức Giê-su cần phải là ‘các tước hiệu kép’. Chẳng hạn, Đức Giê-su là Vua nhưng là Vua Tôi Tớ (Servant King). Đức Giê-su là Hoàng Tử nhưng Hoàng Tử Tôi Tớ (Servant Prince). Đức Giê-su là Đấng Giải Phóng nhưng là Đấng Giải Phóng Tôi Tớ (Servant Liberator). Có như vậy, chúng ta mới có thể hiểu được đầy đủ hơn căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người trong chương trình Thiên Chúa, bởi vì trong mọi hoàn cảnh Đức Giê-su đều diễn tả mình là Người Tôi Tớ phục vụ mọi người, phục vụ cho đến tận cùng.
Noi gương Đức Giê-su, các môn đệ của Người qua muôn thế hệ không ngừng suy niệm, học hỏi và thực thi tác vụ tôi tớ của Đức Giê-su. Chẳng hạn, Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta minh định rằng ‘hoa trái của tình yêu là phục vụ’. Mẹ đã thực hiện điều đó bằng cuộc đời hy sinh phục vụ theo mẫu gương Đức Giê-su. Mẹ ít khi loan báo Tin Mừng bằng lời nói nhưng bằng việc làm. Nhiều người theo Đạo Hin-du (Hinduism, Ấn Độ Giáo) làm chứng rằng Mẹ không bao giờ nói với họ hãy trở về với niềm tin Ki-tô Giáo. Tuy nhiên, những công việc Mẹ làm đã giúp họ hiểu biết hơn về Đức Giê-su và giáo huấn của Người. Chính hành động tôi tớ, hành động phục vụ những người nghèo nhất trong những người nghèo của Mẹ đã nói lên tất cả. Như thế, ai phục vụ người khác theo gương Đức Giê-su như Mẹ Tê-rê-xa, người đó đã thực sự sống trong tình yêu của Đức Giê-su và sự phục vụ đó chính là ‘tình yêu được diễn tả qua hành động’. Theo Mẹ Tê-rê-xa, cách thức phục vụ của Mẹ có thể thực hiện trong bất cứ không gian, thời gian hay hoàn cảnh nào của xã hội loài người.
Trong những thập niên gần đây, môn học hay triết lý Lãnh Đạo Phục Vụ (Servant Leadership) đang được giảng dạy khá phổ biến ở nhiều trường học trên thế giới. Người ta tranh luận với nhau xem ai là người khởi xướng môn học này. Quả thật, hơn ai hết, Đức Giê-su đã mặc lấy và diễn tả thân phận tôi tớ, thân phận nô lệ cách đầy đủ nhất. Hơn nữa, Người đã dạy các môn đệ: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,25-27). Trong Bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giê-su nói: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15). Đức Giê-su đã để lại cho các môn đệ thân thương của mình cũng như tất cả mọi người trong gia đình nhân loại môn học hay triết lý Lãnh Đạo Phục Vụ cách thiết thực nhất.
Chúng ta biết rằng mô hình ‘lãnh đạo chuyên quyền’ là mô hình lãnh đạo khá phổ biến trong xã hội loài người từ trước tới nay. Mô hình này đem lại một số hiệu quả nhất định, chẳng hạn như duy trì tôn ti trật tự hay bảo đảm sự ổn định trong các hình thái xã hội. Tuy nhiên, mô hình này dễ bị lạm dụng và hậu quả là phẩm giá con người bị vi phạm, sự tự do và sáng tạo của con người bị kìm hãm. Với mô hình này, người hay nhóm người lãnh đạo khó nhận ra mình hay nhận ra những người khác để biến đổi bản thân và giúp người khác biến đổi nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện. Mô hình ‘lãnh đạo phục vụ’ đòi hỏi người hay nhóm người đứng đầu luôn quan tâm, chăm sóc, phục vụ mọi người. Nhờ đó, người hay nhóm người đứng đầu thấu hiểu, cảm thông và làm quen với những người dưới quyền mình, đồng thời, khuyến khích họ phát huy tiềm năng bản thân cũng như tinh thần sáng tạo nhằm đem lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng.
Chúng ta đang sống trong ‘thế giới phẳng’, thế giới mà mọi người đều có cơ hội để học hỏi lẫn nhau, bổ sung cho nhau và cùng nhau chia sẻ những hoa trái chung của toàn thể gia đình nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta thấy ‘nhiều sự không phẳng’ trong thế giới phẳng, chẳng hạn như sự không phẳng về phẩm giá con người, về điều kiện sinh hoạt, về đời sống kinh tế, về an sinh xã hội và về vô số lĩnh vực khác nữa. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại có nhiều sự không phẳng trong thế giới phẳng? Thưa, tại vì các hình thức chủ nghĩa, chẳng hạn như chủ nghĩa ích kỷ, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa lãnh đạm, chủ nghĩa tương đối đang hoành hành trong gia đình nhân loại. Não trạng ‘ăn trên ngồi trốc’ vẫn luôn bám chặt vào tâm trí con người. Đặc biệt, con người không ý thức đủ rằng mình là tôi tớ của nhau để yêu thương và phục vụ lẫn nhau.
Con cháu A-đam và E-và không thích ‘thân phận tôi tớ’ nhưng thích ‘thân phận ông chủ’. Chẳng hạn, nhiều vị tướng lãnh hay vua chúa trong dòng lịch sử nhân loại từng nuôi hoài bão rằng mọi người, mọi dân tộc trên thế giới sẽ là nô lệ của mình, của dân tộc mình. Tuy nhiên, họ đã lìa trần và hoài bão không bao giờ trở thành hiện thực. Trong bối cảnh hiện tại cũng thế, một số vị lãnh đạo không ngừng cố gắng tìm cách để bản thân mình và quốc gia mình trở thành ‘chủ’ chứ không phải ‘tớ’ của các quốc gia khác. Não trạng cạnh tranh để phân định vai trò ‘chủ-tớ’ đã dẫn đến biết bao hệ lụy tàn khốc cho gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nhận định rằng bao lâu các thành viên trong gia đình nhân loại không trở thành tôi tớ của nhau thì bấy lâu những bất công, bất hòa trong gia đình nhân loại vẫn còn tiếp diễn.
Câu chuyện ‘chủ – tớ’ không phải là câu chuyện xa xưa, câu chuyện đã đi vào dĩ vãng mà là câu chuyện của thế giới đương đại. Sự phân biệt sắc tộc, màu da, tôn giáo, chính kiến đang là thách đố lớn lao cho hầu hết các nước trên thế giới. Ai cũng nhận thức và biết rõ rằng con người bình đẳng về phẩm giá. Thế nhưng, thông thường ai cũng muốn mình có địa vị cao hơn, đáng tôn trọng hơn, đáng sống hơn người khác. Nhiều người mang trong mình những não trạng như thể ‘họ đáng hiện hữu hơn người khác’, ‘hồn họ lớn hơn hồn người khác’, ‘họ đáng sở hữu nhiều hơn người khác’. Chính những não trạng như thế dẫn tới nhiều hậu quả tai hại và đẩy hàng triệu người vào các hình thức nô lệ mới.
Chúng ta nhận thức rằng trong cuộc sống hằng ngày, tùy từng khoảng không gian và thời gian, mỗi người đều là tôi tớ của ai đó, của hiện tượng hay biến cố nào đó. Chúng ta có thể là tôi tớ của Thiên Chúa trong hoàn cảnh này, nhưng lại là tôi tớ của tội lỗi trong hoàn cảnh khác; tôi tớ phục vụ mọi người trong lúc này, nhưng lại là tôi tớ những tính hư nết xấu trong lúc khác. Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi ‘mình đang là tôi tớ của ai?’ Tôi tớ của Thiên Chúa theo khuôn mẫu Đức Giê-su hay tôi tớ của ma quỉ, thế gian, xác thịt? Tôi tớ của sự thật, sự lành hay tôi tớ của bóng đêm sự dữ và các thế lực phản nghịch lại chương trình tình yêu Thiên Chúa? Chắc chắn rằng người môn đệ Đức Giê-su không thể ‘làm tôi hai chủ’ nên chúng ta cần thường xuyên suy ngẫm và trả lời cho những câu hỏi đó trong hành trình sống của mình.
Là môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta luôn được mời gọi trở nên những chứng nhân của Đức Giê-su, Đường Tôi Tớ. Câu hỏi đặt ra là ‘bằng cách nào?’ Thưa, bằng cách suy niệm và thực thi giáo huấn của Đức Giê-su trong đời sống mình. Kinh nghiệm cho biết chúng ta không gặp khó khăn trong sự nhận thức rằng, vì yêu thương, Đức Giê-su đã đi Đường Tôi Tớ để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta lại gặp muôn vàn khó khăn trong hành trình theo Đường Tôi Tớ của Người để đến với Thiên Chúa và đến với mọi người. Bởi vì, theo Đường Tôi Tớ đồng nghĩa với việc chúng ta ‘trút bỏ chính mình’ và ‘mang lấy thân phận tôi tớ’ để phục vụ Thiên Chúa qua việc phục vụ mọi người, nhất là những người yếu đuối mọn hèn mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
Ai không trở thành tôi tớ của Thiên Chúa theo khuôn mẫu Đức Giê-su thì cũng không được chia sẻ tình yêu, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Thời cánh chung, Thiên Chúa phán xét mỗi người không dựa trên kiến thức, sự nổi tiếng hay những việc lớn lao mà mỗi người hoàn thành trong hành trình dương thế, nhưng dựa trên tình yêu thương và sự quan tâm phục vụ của mỗi người đối với anh chị em đồng loại. Đức Giê-su liệt kê những công việc cụ thể mà ai cũng có thể làm được, chẳng hạn như ‘cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng thăm người tù tội’. Trong hình thức xã hội nào, chúng ta cũng có thể gặp gỡ những người như thế. Chúng ta giúp họ chỉ vì họ cần giúp đỡ, chứ không phải giúp họ để được thưởng công mai ngày. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho chúng ta biết rằng khi chúng ta giúp đỡ những người như vậy là giúp đỡ chính Người (Mt 25,31-46). Thông thường, chúng ta hay để ý đến những người quan trọng, nổi tiếng và đóng góp nhiều cho những người đó hơn là chia sẻ cho những người yếu thế, đơn côi, nghèo khổ. Như vậy, theo Đường Tôi Tớ của Đức Giê-su, chúng ta hãy quan tâm phục vụ ‘những người rốt hết’, ‘những người không tên’ trong môi trường sống của chúng ta.
Từ những xem xét, đánh giá và khai triển trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng Đức Giê-su đã đi Đường Tôi Tớ để đến với thế giới thụ tạo, đến với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Là Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su đã hạ mình trở thành Người Tôi Tớ Đau Khổ để phục vụ con người. Những ai nhận Đức Giê-su là Thầy, là Bạn của mình luôn được mời gọi đi Đường Tôi Tớ để phục vụ Thiên Chúa qua việc phục vụ anh chị em mình. Hơn nữa, trong mọi hoàn cảnh, Đường Tôi Tớ cần phải được loan báo và làm chứng bởi các môn đệ trung tín của Đức Giê-su. Chúng ta xác quyết rằng ‘nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống’ mà nhân loại đang đồng tâm hiệp lực xây dựng chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả mọi người luôn ý thức mình là tôi tớ của Thiên Chúa và tôi tớ của nhau theo khuôn mẫu Đức Giê-su trong hành trình dương thế này.
2020
Làm chủ bản thân, không chỉ sống cho riêng mình
“Chúng ta không thể chỉ sống cho bản thân. Có hàng ngàn sợi dây buộc ta với đồng loại.” Herman Melville
Giáo hội luôn thừa nhận: “Người trẻ làm phong phú Giáo hội và thế giới bằng nhiều cách”
“Trước hết bằng việc nên thánh: “Hương thơm thánh thiện tỏa ra từ đời sống lành thánh của biết bao người trẻ có thể băng bó các vết thương của Giáo hội và của thế giới, và đưa chúng ta trở lại với tình yêu viên mãn mà chúng ta đã được kêu gọi từ thuở đời đời” (Tông huấn Chúa Kitô đang sống, số 50).
“Đồng thời, các bạn trẻ cũng thể hiện sự thánh thiện qua việc sống đức ái trong gia đình và trong xã hội. Nhiều người trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động giáo xứ hoặc dấn thân vào các hoạt động bác ái xã hội.”
“Các phong trào vì môi trường ngày càng phổ biến mà thành phần đông đảo là người trẻ. Tất cả làm nên sức sống trẻ trung của Giáo hội, đồng thời là sự dấn thân cụ thể để Phúc âm hóa xã hội và thế giới, mở rộng Triều đại của Thiên Chúa” (x. Tông huấn Chúa Kitô đang sống, số 168).
Mạnh Tử đã cho chúng ta lời nhận định về triết lý nhân sinh của mình như sau: “Trọn hết cái tâm của mình thì biết cái tính của mình. Biết được cái tính của mình thì biết đến Trời vậy. Giữ được cái tâm của mình, nuôi được tính của mình là để phụng sự Trời vậy.”
Nếu “cái Tâm” của chúng ta không được hun đúc tu luyện và làm trong sáng, nhạy bén theo thời gian, thì con người chúng ta dần trở nên tối tăm, khô cằn, què quặt. Thật ra, giữ được cái tâm, nuôi được cái tính là chuyện không dễ dàng chút nào giữa cảnh đời muôn mặt đổi thay nhất là giữa các thế lực của “bóng tối” là dục vọng nằm sâu bên trong mỗi người. “Cái tâm” của chúng ta có thể trở nên tồi tệ hơn nếu chúng ta không có nhận thức đúng đắn về mình.
Truyện cổ Ấn Độ kể rằng có một chú chuột nhắt bị trầm uất thê thảm vì lúc nào cũng phập phồng lo sợ các chú mèo. Một pháp sư thấy vậy nên thương tình biến nó thành mèo. Thế nhưng chú mèo đó lại sợ chó.
Pháp sư lại hóa phép cho nó thành chó. Sau khi đã thành chó, nó đâm ra sợ con báo. Thế là pháp sư phải biến nó thành một con báo.
Bấy giờ nó lại sợ đám thợ săn. Tới như vậy rồi thì vị pháp sư cũng đành bó tay. Ông suy nghĩ và biến nó trở lại thành chú chuột nhắt như trước kia, và nói: “Tao có biến mày thành giống gì đi nữa thì cũng vô ích thôi, bởi vì cái tâm của mày vẫn là cái tâm con chuột”.
Cuộc sống của chúng ta cũng không khác gì. Thay đổi hình thức hay tính cách bên ngoài cũng chẳng đi đến đâu. Điều quan trọng là trở nên chính mình như mình đã được sinh ra với “tính bản thiện”.
Giữ vững và phát sáng cái chân tâm của mình giữa cuộc sống “ba chìm bảy nổi” này đó mới là làm nên chính mình. Biết tận dụng mọi cảnh đời mà chúng ta đã, đang và sẽ trải qua như những chất liệu để xây dựng bản thân mình, để trở nên chính mình. Đó mới là con đường chúng ta phải đi, cái đích chúng ta nhắm đến!
Không phải những thay đổi bên ngoài làm cho chúng ta đạt tới phẩm chất làm người mà là những thay đổi bên trong từ chính thâm tâm của mình, một cái tâm được khơi trong gạn đục để trở nên sáng và nên cao quý giữa cuộc đời tục lụy này. Để làm được như thế, mỗi ngày chúng ta cần đối diện với chính mình. Điều này đòi hỏi chúng ta biết nhận định về bản thân và làm sáng tỏ cái tâm thiện của mình, cái tâm nhạy bén với nỗi đau của đồng loại và với cả muông thú, cỏ cây nữa, và dám sống là chính mình với một tâm hồn đơn sơ, hồn nhiên trong sáng và an bình.
Có lẽ trong con người, điều quý giá nhất chính là Lòng nhân. Lòng nhân ái là sự thể hiện của “tính bản thiện” nơi mỗi người. Lòng nhân chính là gốc rễ của các hành vi khác. Hãy để những gì chúng ta làm đều phát xuất từ lòng trắc ẩn, từ lòng yêu thương người khác, từ cái tâm. Cái tâm trong mỗi người cần được nuôi dưỡng, phát huy, giữ cho sáng, và cần phải được xem lại thường xuyên để giữ độ nhạy bén, trong sáng trước cám dỗ và bụi bặm của bên ngoài xã hội. Những thế lực đen tối, xu hướng quay về những điều dễ dãi, lòng tham và dục vọng… đang chực sẵn trong lòng mỗi người.
Kinh nghiệm sau đây nói lên bài học về lòng nhân ái tuyệt diệu của sư thầy Sri Yukteswar. Có lẽ dư âm của nó khó phai trong cuộc đời của nhà sư trẻ Mukunda. Một gương sống cụ thể, tốt lành của thầy đã lay động lòng người môn đệ còn hơn nhiều năm đèn sách, tu luyện. Chính người môn đệ ấy đã ghi lại như sau:
Chỉ những ai biết cống hiến chân tình và vị tha, biết từ bỏ và cho đi mới trải nghiệm niềm vui sâu xa của cuộc sống và sự sung mãn thật sự. (Theo Lưu Dung)
“Xã hội này thật có nhiều điều, nhiều nơi để cống hiến. Ngoài những vật hữu hình, chúng ta còn cung cấp cho mọi người sự cỗ vũ, khích lệ tinh thần khiến cho thế giới này đâu đâu cũng tràn đầy niềm vui.”
Hiện nay, đời sống vật chất ở thành thị hay thôn quê, ít nhiều đều được cải thiện, nhưng đời sống tinh thần lắm khi lại bị tụt hậu. Bao nhiêu người nhận xét về sự băng hoại trong thực tế về mặt đạo đức và giá trị tinh thần. Một tác giả vô danh đã đề nghị chúng ta “nên suy nghĩ lại” vì:
– Chúng ta ngày càng có nhiều cao ốc hơn, và nhiều xa lộ rộng hơn, nhưng lòng khoan dung lại thấp đi và tinh thần hẹp hòi hơn…
– Chúng ta nói năng nhiều hơn, nhưng yêu mến ít và lòng thù ghét quá nhiều…
– Chúng ta có của cải tăng nhiều lần, nhưng giá trị mình giảm lại…
– Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng luân lý đạo đức kém đi…
– Chúng ta đã lên mặt trăng và trở về trái đất, nhưng lại cảm thấy khó khăn khi băng qua đường để thăm người hàng xóm…
Niềm vui thanh nhã và sâu lắng chính là những lúc quên mình và sống cho người khác. Chúng ta rất cần giúp nhau mở lòng, mở hầu bao, mở cửa nhà mình để chia sẻ, và để làm sao cho :
– “Hương thơm trong nhà nho nhỏ của mình lan toả đến nhà bên cạnh và đến nhiều người càng tốt;
– Niềm vui chật hẹp của mình lan rộng tới mọi ngỏ ngách của xã hội;
– Lò lửa trong nhà chúng ta sưởi ấm mọi trái tim lạnh giá;
– Ngọn đèn trước thềm nhà chiếu sáng đường đi cho người về khuya…”
Sống cho người khác lại làm cho cuộc sống chúng ta trở nên sung mãn hơn, nhẹ nhàng hơn, ý nghĩa và phong phú hơn.
“Chính lúc hiến thân là lúc nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…” Francis Assisi
Chúng ta cần chia, cần cho, cần cống hiến những gì mình có, và rồi chúng ta sẽ nhận lại niềm vui tinh thần. Người ta thường nói rằng: Khi xức nước hoa cho người khác, chúng ta cũng được thơm lây. Thật ra, đây không phải là điều chúng ta tìm kiếm, không phải vì lợi lộc cho chính mình, nhưng thực tế đã cho thấy, người đầu tiên nhận hoa trái của sự tốt lành, quảng đại chính lại là bản thân người đã cho đi vì thường khi: “Từ nụ cười của người khác, ta nhìn thấy nụ cười của chính ta.” (Lưu Dung)
Trong Đạo Đức Kinh, Thầy Khổng Tử đã nhắc nhở chúng ta: “Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì chúng không sống cho riêng mình, mà sống cho vạn vật nên mới trường cửu.” Các thánh hiền xưa cũng đã răn dạy chúng ta luôn để ý đến cái ích lợi cho người khác. Cụ Nguyễn Công Trứ đã thao thức và căn dặn hậu thế:
“Làm quan cốt để giúp đời, phải đâu riêng hưởng một đời ấm no.”
Những người sống cho người khác đều đáng kính, và nhất là đáng tin. Sách Luận Ngữ đã nhắc nhở : “Người nào coi trọng sự hy sinh cho thiên hạ, thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào đem thân mình vui vẻ phục vụ thiên hạ, thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được.”
Tinh thần vì người khác, vì ích chung luôn được các tôn giáo chú trọng. Trong bất cứ xã hội nào, các nhà hiền triết và thánh hiền cũng như hàng lê thứ đều giáo dục thế hệ trẻ biết sống và thực thi tinh thần “mình vì mọi người”. Tuy thế, dường như trong xã hội ngày nay, điểm son của tính vị tha và hướng tha bị phai mờ vì chủ trương lợi nhuận của kinh tế thị trường. Cá nhân chủ nghĩa đã và đang ảnh hưởng lên cách sống, cách ứng xử của nhiều người, nhất là giới trẻ. Ước mong những người lớn tìm cách chuyển tải và duy trì những giá trị truyền thống cao cả này cho thế hệ mai sau.
Tuổi trẻ chưa có bạc vàng hay của cải gì, nhưng có tấm lòng. Lòng tốt luôn có phản hồi, vì những gì đã gieo, chúng ta sẽ gặt lại. Hoa quả đầu tiên là sự kính trọng, niềm vui sâu xa và an bình nội tâm của kẻ không chỉ sống cho riêng mình. Nhân gian thường nói:
“Người ta kính trọng bạn
không phải vì những gì bạn đã nhận được,
sự kính trọng là phần thưởng
dành cho những gì bạn đã cho đi.”
Dòng đời luôn chảy theo hướng: Cho là nhận – và nhận là để cho đi như:
“Tất cả dòng sông rồi sẽ đi về biển, từ biển bao la sẽ rót vào những dòng sông mênh mông tràn đầy, mạch luân lưu không ngơi nghỉ ấy là cuộc sống.” Hương Bình
Chính khi chúng ta tạo cho người khác cơ hội thì đừng cho rằng đó chỉ là đem lại lợi ích cho người khác, mà kỳ thực cũng là đem lại một cơ hội cho bản thân ta. Về phương diện này, Anthony de Mello có kể câu chuyện rằng:
“Một nông gia trồng bắp có thói quen đem giống bắp tốt nhất của mình biếu không cho bà con lối xóm, nhưng năm nào ông cũng giựt giải nhất ở hội chợ nông sản của toàn tiểu bang.
Khi có người hỏi nguyên do, ông giải thích, “Thật ra cũng vì lợi ích của mình thôi. Gió thường thổi phấn hoa bay tứ tán từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Vì vậy, nếu hàng xóm trồng giống xấu, thì hiện tượng thụ phấn hỗn hợp sẽ làm giảm phẩm chất thứ bắp của tôi. Do đó, tôi cũng phải liệu cho họ trồng giống bắp hảo hạng như tôi”.
Những gì chúng ta tặng cho tha nhân là tặng cho chính mình vậy! Thường thì không mấy ai nghĩ đến những gì sẽ xảy ra khi mình chia sẻ, hay làm gì cho người khác. Chúng ta làm theo sự mách bảo của con tim, theo những gì mình cảm thấy cần làm, vì nhu cầu của người anh em đồng loại. Nhưng chuyện đời thường cho chúng ta thấy: những gì mình gieo vãi, mình sẽ gặt được, và được gấp bội. Chính lúc không chờ, nhiều chuyện bất ngờ có lợi cho chúng ta xảy đến.
Những người có lòng cảm thương, con tim nhạy bén trước nỗi đau của người khác thường có những phản xạ rất chính xác. Trực giác sẽ mách bảo cho chúng ta những gì cần làm. Chúng ta cần tỉnh thức và lắng nghe tiếng lòng mình. Đó là những lời mách bảo đầy tình và ý nghĩa. Xin đừng bỏ qua. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều này.
“Chị tôi dành dụm vốn liếng định mua một mảnh đất ở ngoại thành. Hẹn được với người ta mang tiền đến đặt cọc, chị vội vã gọi taxi. Dọc đường, chị bắt gặp một đoàn nam phụ lão ấu hớt hơ hớt hải bồng một cô bé bị trâu húc vẫy xe xin đi nhờ lên Hà Nội cấp cứu. Chị tôi lập tức bảo anh lái xe quay xe, đưa cô bé con, người mẹ, và cả chị thẳng về Hà Nội. Mẹ cô bé tê liệt vì sợ hãi, chỉ biết ôm con khóc ròng. Một mình chị lo toan cho cô bé vào phòng cấp cứu, nhập viện, thậm chí đóng luôn cả tiền viện phí khi biết người mẹ không có nổi 100 nghìn trong túi. Khi chắc chắn là cô bé an toàn, chị mới trở về nhà, không bao giờ nhắc đến chuyến xe ấy tốn kém bao nhiêu, tiền viện phí thế nào, hay buồn vì mảnh đất ưng ý kia không kịp đặt cọc đã qua tay người khác. Và cứ đến Tết, nhà chị lại có thêm những người khách từ quê ra.”
Sự bình an, những quyết định đơn giản mà quyết liệt, đó là dấu hiệu của những người có trái tim to trong lồng ngực nhỏ, những người luôn ý thức những gì nhận được là để sẻ chia!
Có khi nào trên đường đời tấp nập,
Ta vô tình đi lướt qua nhau,
Bước lơ đảng chẳng ngờ đang để mất,
Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu!
(Vô Tình – Bùi Minh quốc)
Có lẽ “Một tâm hồn đang đợi đã từ lâu” để được giúp đỡ là chú bé Lula sau đây. Ai ngờ được cái duyên giữa chú bé đánh giày Lula và ông chủ tiệm giặt ủi thuở nào đã làm nên một sự kiện đáng nhớ cho cuộc đời Lula và đất nước Ba Tây được khởi đầu với 2 đồng bạc chia đôi.
“Chú bé Lula, sinh ra vào tháng 10 năm 1945, tại một gia đình nông dân ở Ba-Tây (Brazil). Vì nhà nghèo, nên từ lúc mới 4 tuổi, thằng nhỏ đã phải đi bán đậu phộng ngoài đường, nhưng vẫn quần áo tả tơi, và thiếu ăn. Khi được lên tiểu học, lúc đó đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro, sau buổi học chú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đầu đường, hôm nào không có khách, thì coi như là nhịn đói.
Năm 12 tuổi, vào 1 buổi xế chiều, có 1 người khách là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố. Ba đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhìn vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông ta nói: “Đứa nào cần tiền nhất, thì tôi cho nó đánh giầy, và sẽ trả công 2 đồng”.
Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. 3 cặp mắt đều sáng lên. Một đứa nhỏ nói: “Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói!“ Đứa khác nói: “Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn.”
Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi một lúc, rồi nói : “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đứa đó mỗi đứa 1 đồng!”
Câu nói của Lula làm ông chủ tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất là ngạc nhiên.
Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phộng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó. Ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn ông sẽ hài lòng”
Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ, ông chủ tiệm đã trả cho hắn 2 đồng bạc, sau khi được hắn đánh bóng đôi giầy. Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.
Vài ngày sau, ông chủ tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta, và bao cả bữa cơm tối. Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp, nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.
Thằng bé hiểu rằng: Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên Trời mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.
Từ đó, miễn là có khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình.
Sau Lula nghỉ học đi làm thợ trong một nhà máy. Để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ, cậu ta tham gia vào công đoàn. Năm 45 tuổi, Lula lập ra đảng Lao Công.
Năm 2002, trong cuộc ứng cử tổng thống, khẩu hiệu của Lula là: Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này. Và ông đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil. Năm 2006 ông đắc cử nhiệm kỳ 2, cho 4 năm tới. Trong 8 năm tại chức, ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa: 93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm. Ông đã thực hành đúng tâm niệm: giúp đời!!
Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của ông đã không còn là “con khủng long nhai cỏ” mà đã trở nên “Con mãnh sư Mỹ Châu” và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới. Luiz Inácio Lula da Silva đó là tên của vị tổng thống vừa giải nhiệm vào 31.12.2010.”
Sống cho người khác không phải chỉ là giúp đỡ vật chất, chăm sóc tận tình khi cần nhưng có khi chỉ là lắng nghe chân thành, hay dành một chút thì giờ cho ai đó. Thậm chí một nụ cười cũng làm thay đổi nhiều chuyện như câu chuyện thật đơn giản và ý vị sau đây:
“Có một cô gái cười với một người xa lạ rầu rĩ. Nụ cười làm cho anh ta cảm thấy phấn chấn hơn. Anh nhớ đến sự tử tế của một người bạn cũ và viết cho người ấy một lá thư cảm ơn.
Người bạn này vui sướng vì nhận được thư của người bạn cũ lâu ngày không gặp đến nỗi, sau bữa trưa anh boa một món tiền lớn cho chị hầu bàn.
Chị hầu bàn ngạc nhiên vì món tiền boa quá lớn, đã quyết định mang tất cả đi mua xổ số và trúng số. Ngày hôm sau chị đi nhận giải và cho một người ăn mày trên phố một ít tiền lẻ.
Người ăn mày rất biết ơn vì đã hai ngày nay anh ta chẳng được ăn gì. Sau bữa tối anh ta trở về căn phòng tối tăm của mình. Trên đường về, anh ta thấy một chú chó con đang rét run cầm cập, anh mang nó về để sưởi ấm cho nó.
Chú chó rất vui mừng vì được cứu khỏi cơn bão tuyết sắp đến gần. Ðêm ấy, trong khi mọi người đang ngủ say thì ngôi nhà bốc cháy, chú chó con sủa róng riết. Chú sủa cho đến khi đánh thức tất cả mọi người trong nhà dậy và cứu tất cả mọi người thoát chết.
Một trong những chú bé được cứu thoát đêm ấy sau này trở thành bác sĩ tìm ra một loại vắc-xin chữa khỏi một căn bệnh vô cùng nguy hiểm cho loài người. Tất cả là nhờ một nụ cười.”
Cuộc sống của chúng ta ngày nay quá vội vàng, tất bật, ngắn ngủi. Tình người thường mong manh, dễ vỡ. Giữa vòng xoáy cuộc sống bon chen, ồn ào này, nhiều lúc chúng ta quên đi người bên cạnh, có khi cả người thân yêu nhất. Có lẽ thỉnh thoảng chúng ta cần dừng lại để yêu thương hay để cảm nhận sự yêu thương; ngừng lại để soi lòng, để nhìn lại xem có phải chúng ta đã quá vô cảm, quá lạnh lùng; dừng lại để xem từ bao lâu rồi chúng ta đã không còn rung cảm, nhói đau vì vết thương của một ai đó, bao lâu rồi chúng ta chỉ biết yêu mình! Bao nhiêu lần chúng ta đã không sẵn sàng đưa tay cho người đang chìm nắm lấy hoặc lờ đi trước nhu cầu của một ai trong lúc chúng ta có thể giúp họ? Thật vậy, “Tình yêu và lòng tốt không hề bị lãng phí. Chúng luôn tạo nên một ý nghĩa nào đó. Chúng ban phước cho người nhận được, và chúng cũng ban phước cho bạn, người trao tặng.” Barbara De Angelis
Nếu nói đến những câu chuyện đầy tình, ấm lòng, hay những hành vi vô tâm vô cảm của con người thì vô số kể. Chúng ta chỉ cùng nhau nhìn lại như một cách hâm nóng trái tim mình, để đừng quên rằng “Khi tôi nằm xuống, tôi chỉ đem theo những gì tôi đã cho đi” thôi!
“Không sống cho riêng mình” hay sống cho người khác đã được nhà thơ Tố Hữu thi vị hóa bằng những lối ví von duyên dáng như sau:
“Nếu là con chim, chiếc lá,
thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Lẽ nào vay mà không có trả,
sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình?
Khi một người sống hết mình vì người khác, thì cũng đồng nghĩa với việc người đó đã đi qua chính bản thân mình. Đây là một trong những dấu hiệu chắc chắn của người trưởng thành rồi vậy!
2020
Giáo dục sinh thái toàn diện trong Laudato Si’
2020
“Hiếu” và “Tâm”: Điểm hội ngộ giữa người Công giáo và tín đồ các tôn giáo
Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, dù có nhiều điểm khác với chủ trương và đề nghị của Giáo hội, nhưng vẫn thường mang lại một tia sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi tất cả mọi người (NA 2).
“Tia sáng của Chân Lý” mà Tuyên ngôn về Liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo nói đến có thể được xem như những tiền đề cho cuộc gặp gỡ giữa người Công giáo với tín đồ thuộc các tôn giáo khác cũng như với tâm hồn tôn giáo của người Việt. Đó là quan niệm về nguyên lý siêu việt “Ông Trời”, niềm tin vào cuộc sống sau cái chết, lòng thương người[1], tình sư đệ, việc thờ kính Ông Bà tổ tiên, v.v… Trong khuôn khổ giới hạn và nhằm khơi mở cho việc trao đổi cũng như nghiên cứu sâu xa hơn trong tương lai, chúng tôi chỉ mong phác thảo đôi nét suy tư về chữ “Hiếu” và chữ “Tâm”, như những nhịp cầu tương giao về đạo lý và điểm nhấn trong việc thực hành đạo.
- Chữ Hiếu(孝)
- Đạo hiếu trong văn hóa Việt
Nơi các dân tộc Á châu nói chung và nơi người Việt nói riêng, lòng Hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà và cha mẹ luôn được trân trọng và tuân giữ như đòi hỏi căn bản của luật tự nhiên, bất kể họ theo truyền thống tôn giáo Phật, Đạo (Lão), Nho (Khổng) hay Công giáo. Nhiều người còn tự nhận mình theo “đạo Ông Bà” hay Đạo Hiếu, khi họ không thuộc về một đạo nào khác. Đạo làm con có thể được xem như linh đạo của người Việt.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Chữ Hiếu đã thấm nhập vào văn hóa Việt và đọng lại trong ca dao tục ngữ cũng như những văn phẩm nổi tiếng. Nguyễn Du (1765-1820), qua hình tượng nàng đạo Kiều trong “Truyện Kiều”, đã làm nổi bật sự hy sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn Hiếu và đặt chữ Hiếu trên cả chữ Tình lẫn chữ Trinh.
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), đã đề cao tinh thần hiếu hạnh vượt trên danh lợi, trong tác phẩm “Lục Vân Tiên”. Lục Vân Tiên trên đường đi thi trạng nguyên, nghe tin mẹ mất, đã quay về chịu tang cho mẹ và ông đã khóc lóc đến mù mắt. Con người đặt đạo Hiếu của người con trên sự nghiệp bản thân.
Lòng hiếu kính được thể hiện trong thái độ sống hàng ngày đối với ông bà cha mẹ, khi các ngài còn tại thế, cũng như vào dịp Tân niên, những ngày giỗ kỵ, mùa Vu Lan báo hiếu, nơi nhà Tổ, bàn thờ gia tiên, khi các ngài đã từ trần.
Người Việt tin vong hồn gia tiên luôn ở gần con cháu, thường ngự nơi bài vị trên bàn thờ, nên người sống có thể tiếp xúc với người khuất, với thế giới vô hình, qua việc cầu cúng lễ bái. Mỗi khi có các biến cố quan trọng trong gia đình, gia chủ đều khấn vái gia tiên để trình báo sự kiện, xin chứng giám và cầu mong sự phù hộ.
Ngoài tổ tiên theo huyết thống, người Việt còn bày tỏ lòng biết ơn đối với các tổ tiên chung như tổ nghiệp, Thành hoàng, người có công đối với đất nước. Điển hình như các tướng Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão được vị “Thượng đẳng phúc thần”, Trần Quốc Tuấn tôn gọi Hưng Đạo Đại Vương, Mạc Đỉnh Chi lãnh tước Huệ Việt Linh Thánh Đại Vương phúc thần[2].
- Đạo hiếu trong truyền thống Nho giáo
Đối với truyền thống Nho gia, Hiếu đứng đầu sáu đức tính của người quân tử: Hiếu, Đễ, cẩn, tín, thương mọi người, mến bậc nhân.
Trong Hiếu kinh, Khổng Tử xem Hiếu là nguồn cội của nhân đức và giáo dục: “Hiếu là gốc của đức, là nguồn của giáo… thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương, đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu”. Một cách cụ thể, đức hiếu thảo đòi hỏi:
“Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở phải hết sức cung kính, cung dưỡng cha mẹ phải hết mực vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc tang lễ phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải vô cùng trang nghiêm”[3].
Chữ Hiếu này được biểu lộ lúc thân phụ còn sống lẫn khi người đã qua đời:
“Trong khi cha mình còn sanh tiền, mình nên xem xét chí hướng, ý tứ của cha mình: như tốt lành, chính đáng thì mình bắt chước theo. Khi cha mình khoản đi rồi, mình nên quan sát những việc làm cùng người ; như phải thì mình làm theo. Cha mình mất trong ba năm mà mình chẳng đổi đạo nghệ của cha, đó mới gọi là con có hiếu”[4].
Tăng Tử hay Tăng Sâm (505-435 TCN), đệ tử của đức Khổng, đã khai triển thêm nội dung của Hiếu: “Hiếu có ba điều: đại hiếu phải tôn thân, sau nữa không làm điếm nhục, sau nữa mới nuôi dưỡng”[5].
Theo Mạnh tử (372–289), Bất hiếu hữu tam, nghĩa là bất hiếu có ba điều: không con trai nối dòng; không can ngăn cha mẹ khi cần; không làm quan lấy lộc phụng dưỡng.
- Đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo
Trong đạo Phật, Hiếu hạnh là con đường giải thoát của chánh pháp, thực hành hiếu thảo là con đường mà người Phật tử phải theo mới được gọi là tử chân chính. Đó là thiện pháp mà kinh “Nhẫn nhục” đã xác định: “Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu”.
Đức Phật từng đề cao đức hiếu thảo, đồng thời kể ra năm bổn phận, trong đó có việc gìn giữ truyền thống của gia đình:
“Người con có năm bổn phận đối với cha mẹ: nuôi dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, làm đủ bổn phận người con đối với cha mẹ, giữ gìn truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản thừa tự và làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” (Giáo thọ Thi ca la việt, Trường bộ kinh IV)[6].
Ý nghĩa của mùa Hiếu hạnh và đại lễ Vu Lan của đạo Phật, được tìm thấy trong Kinh Vu-Lan-Bổn, đề cập đến một cách báo hiếu cho thân sinh đã qua đời. Nội dung kinh gồm 3 phần[7]:
Nói về một đệ tử của Đức Phật, Mục Kiền Liên, sau khi đắc đạo, thấy mẹ của mình sống trong cảnh giới quỷ đói, thân hình tiều tuỵ khổ sở. Ngài sử dụng năng lực thần thông của mình, đưa bát cơm đến dâng cho mẹ. Mẹ Ngài được cơm, lòng tham khởi lên, tay trái che bát, tay phải bốc ăn, nhưng cơm chưa tới miệng đã hóa ra lửa, nên không ăn được.
Mục Kiền Liên xin Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ ra khỏi cảnh khổ Ngạ quỷ. Đức Phật dạy rằng, phải nhờ đến uy lực của tập thể chúng tăng mới cứu được mẹ ông. Vào ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng tập trung tự tứ sau 3 tháng an cư kiết hạ thanh tịnh, hãy sắm sửa vật dụng cúng dường chư tăng, nhờ chư tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát được khổ. Mục Kiền liền vâng lời Phật dạy, thực hành phương pháp báo hiếu ấy, nên đã cứu được mẹ.
Mục Kiền Liên xin Phật cho phép các phật tử sau này được thực hành phương pháp báo hiếu cha mẹ bằng cách cúng dường Vu-Lan-Bồn để báo đáp ân cha mẹ. Đức Phật khen ngợi và chấp thuận. Từ đó, ngày rằm tháng bảy là ngày báo hiếu truyền thống của Phật Giáo.
Trong Kinh Báo ân Cha Mẹ, Đức Phật nêu lý do của việc báo hiếu khi liệt kê 10 ân đức của cha mẹ :
ân giữ gìn mang thai trong 9 tháng.
ân sinh sản khổ sở
ân sinh rồi quên lo
ân nuốt đắng nhổ ngọt
ân nhường khô nằm ướt
ân bú mớm nuôi nấng
ân tắm rửa chăm sóc
ân xa cách thương nhớ
ân vì con làm ác
ân thương mến trọn đời.
Qua việc tìm hiểu Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội, Quảng Kiến nhận định điểm khác so với Nho giáo về quan niệm người con chí hiếu theo lý tưởng đạo Phật, là ở chỗ « quy y Tam bảo, giữ gìn cấm giới, biết hướng cha mẹ quay về nẻo chánh, bố thí làm lành, nương theo pháp Phật tu hành để có được trí tuệ chơn chánh ».
Do đó, đạo Phật không cho “vô hậu vi đại” (không con nối dõi) là bất hiếu. Trái lại, « những người xuất gia lại là những người chí hiếu, vì họ biết đem niềm tin chơn chánh đến cho cha mẹ ».
Chính Đức Phật đã dạy: “Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên về năm phương diện. Thế nào là năm ? Lớn lên về lòng tin, lớn lên về giới, lớn lên về học hỏi, lớn lên về bố thí, lớn lên về trí tuệ. Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên vì năm sự lớn lên này” (Tăng Chi II)[8].
- Đạo hiếu trong truyền thống Công giáo
Trong quá khứ, do trân trọng truyền thống đạo Hiếu nơi người Việt Nam và cố gắng hội nhập văn hóa trong việc trình bày sứ điệp Kitô giáo, linh mục Đắc Lộ đã cố gắng trình bày Kitô giáo qua học thuyết Tam Phụ, nghĩa là Hiếu kính đối với Thượng Phụ (Cha trên trời), với Trung Phụ (vua) và với Hạ Phụ (cha mẹ dưới đất).
“Có ba đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào, cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta : đấng giữa là vua Chúa trị nước : đấng trên là đức Chúa trời đất, làm Chúa thật trên hết mọi sự : có ba đấng này ta mới được sống, được ở. Vì chưng ta có cha mẹ thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ : song le linh hồn ta chẳng phải bởi cha mẹ mà ra đâu. Ta chịu ơn mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm : có khi thì mẹ cắt của mình ăn mà cho con ăn : cũng có khi mẹ ăn miếng đắng, mà miếng ngon để dành cho con ăn : lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo việc nuôi nấng, vì vậy có khi thì cha thức sớm chẳng ngủ, mà làm nghề nọ nghề kia, chạy xuôi chạy ngược, kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng.
Vua Chúa cùng gọi là cha cả và nước, cùng các dân : chẳng có vua Chúa, thì nước ở an lành chẳng được : vì chưng vua Chúa trị nước cho dân ở được an lành. Vì vậy vua Chúa thì giữ nước, và cho kẻo giặc bề ngoài phá nước làm khốn dân sau thì sửa trong nước, làm cho đại thần hòa thuận cùng nhau và tiểu dân yêu đang (đương) thông việc cùng nhau nữa (inferiores vero amicitiam invicem et communicationem sectentur). Ví bằng chẳng có vua Chúa sửa nước một ngày, thật là có ra những sư long đong, hỗn hào trong dân mà chớ. Đại thần trong nước quân tử thì giúp vua Chúa trị nhậm sứa nước. Tiểu nhân thì ra tiền năm tiền quí giúp việc vua Chúa nữa. Vì vậy hễ là kẻ ở trong nước thì phải kính dái vua Chúa ? Ví bằng có ai trong nước mà theo ngụy thì chịu phạt đã đáng.
Hãy còn cha cả là Chúa trên hết mọi sự : đã hóa nên và giữ gìn trời đất muôn vật cùng hết mọi sự. Nào có ai hồ nghi mà chẳng chịu thờ phượng đấy trên hết mọi sự, mà chẳng dại ru ? Thủa xưa khi chưa có trời, chưa có đất, chưa có đí gì, mà đã có một đức Chúa trời thanh nhàn vui vẻ vậy chẳng có thiếu gì sốt, mới sinh ra trời, sinh ra đất, lại hóa ra mọi sự ở trong trời này nữa. Trên trời thì hóa ra mặt trời mặt trăng, cùng ngôi sao cho ta được sáng. Ví bằng chẳng có sáng, ta ở làm sao được ? Dưới hạ giới này thì sinh ra muông chim cầm thú, hoa quả, cây cối, rau cỏ cho ta ăn. Cùng có làm nên gỗ, nước, lửa, gió cùng các kỳ sự cho ta dùng. Ví bằng thiên hạ chẳng có mưa chẳng có nắng ta sống làm chi được ? Thật trời đất cùng mọi sự ở trong thế giới này bởi một đức Chúa trời rộng rãi vô cùng mà có. Vì vậy ta cám ơn đức Chúa trời là cha cả chúng tôi, và thờ phượng đấy trên hết mọi sự thì thậm phải”[9].
Các Giám mục Việt Nam cũng đã nhận định về chữ Hiếu như điểm hội ngộ giữa Tin Mừng và nền tảng đạo đức xã hội: “Yêu thương và hiệp nhất là đặc điểm của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô và cũng là điểm gặp gỡ sâu xa nhất giữa Tin Mừng và văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa vốn lấy nghĩa đồng bào và đạo hiếu trung làm nền tảng cho đạo đức xã hội” (Thư chung năm 1998, số 5).
Thế nhưng, trong thực tế, người Kitô hữu Việt Nam thường đối diện với một sự ngộ nhận đã ăn sâu vào tâm thức nhiều người: « Theo Đạo (Công giáo), bỏ Ông Bà ». Khi người muốn theo đạo Công giáo là trưởng nam trong gia đình, thì họ hay gặp phải sự ngần ngại của cha mẹ bởi mối lo không có người lo thờ cúng ông bà tổ tiên, vốn là bổn phận của người con trai trưởng.
Để giải tỏa những ngộ nhận về đạo Công giáo liên quan đến lòng hiếu kính đối với tổ tiên, đồng thời làm sáng tỏ tinh thần hiếu thảo của con cái Thiên Chúa, thiết nghĩ cần làm nổi bật chữ Hiếu trong huấn giáo, lối diễn tả đức tin cũng như cách sống của người Công giáo. Thực vậy, Hiếu đạo vốn là thái độ và đòi hỏi nền tảng của tinh thần Kitô giáo.
Xét về phương diện thực hành luân lý, hiếu thảo đứng đầu 7 yêu cầu liên quan đến tương quan giữa người với người, trong 10 điều răn: “Thứ Bốn, thảo kính cha mẹ” (Kinh Mười điều răn).
Còn hướng về nguồn cội đức tin của mình, người Công giáo tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Anh Cả của nhân loại, “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Người yêu thương và liên đới trách nhiệm với cả loài người, nhất là với những người bé mọn, nghèo khổ. Gương sống của Đức Giêsu là nền tảng của chữ Hiếu theo niềm tin của người Công giáo.
Con chí hiếu của Thiên Chúa
Đạo hiếu được đề cao nơi truyền thống thờ kính tổ tiên của Việt Nam có thể tìm gặp nơi Đức Giêsu Kitô một chứng từ sinh động, cụ thể của một người con đầy lòng hiếu thảo. Hơn ai hết Đức Giêsu không những hằng tuân phục cha mẹ trần thế khi nhập thể làm người (xem Lc 2, 51), mà còn là Hiếu tử của Cha trên trời, người con chí hiếu, chí ái của Thiên Chúa Cha. Lương thực của Người là thánh ý Chúa Cha (Ga 4, 34).
Đức Giêsu đã sống trọn đạo làm con, để “Danh Cha cả sáng” và “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúa Giêsu có một tương quan cá vị với Chúa Cha, mà Người gọi là “Abba”. Quan hệ này mật thiết đến độ Chúa Giêsu khẳng định : “Ai thấy Tôi là thấy Cha” (Ga 14, 9), “Tôi với Cha là một” (Ga 10, 30), “Tôi ở trong Cha và Cha ở trong Tôi” (Ga 14, 11).
Cha của Đức Giêsu cũng là Cha của các môn đệ : “Cha các con” (Mt 5,16.45.48). Vì thế, nhờ, với và trong Chúa Giêsu, Kitô hữu thưa : “Lạy Cha chúng con…”. Lòng hiếu thảo của Đức Giêsu đã được chính Chúa Cha xác nhận một cách long trọng qua hai biến cố chịu Thanh tẩy bởi Gioan Tiền hô và khi Biến hình: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Mc 1, 11; Mt 3, 17; Lc 3, 22).
Huynh trưởng của nhân loại
Theo ý muốn của Chúa Cha, Đức Giêsu là Trưởng tử giữa mọi loài thọ sinh : Thiên Chúa “đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8, 29).
“Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giêsu, và những ai được thánh hóa đều do chung một nguồn gốc. Vì thế, Ngài đã không hổ thẹn gọi họ là anh em…” (Dt 2, 11).
Tại Việt Nam, người trưởng nam đóng một vai trò quan trọng trong tương quan gia đình và xã hội (từ nghi lễ tang, cưới, kính nhớ tổ tiên, mừng tuổi, phụng dưỡng cha mẹ, v.v…). Người Anh Cả đại diện các em trước mặt cha mẹ và thay quyền mẹ cha chăm sóc đoàn em, theo nguyên tắc “quyền huynh thế phụ”. Chúa Giêsu là Anh của mọi người và thay mặt đoàn em phụng sự Cha, đồng thời nhân Danh Cha dưỡng dục nhân loại theo ý Cha.
Chúa Giêsu đã “nên giống anh em mình về mọi phương diện” (Dt 2, 17), ngoại trừ tội lỗi (Dt 4, 15). Trong cuộc đời trần thế, ngay từ tấm bé, Người đã kinh nghiệm di dân (Mt 2, 13-15), lớn lên Người đã lao động tay chân như một người thợ cùng cha nuôi Giuse. Trên hành trình thực thi sứ mạng, Đức Giêsu đã trải nghiệm cơn đói (Mc 2,23-36; Mt 21, 18), nổi khát (Ga 4,6-7; 19, 28), không nơi định cư nhất định (Lc 9, 58), chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11; Mc 1, 12-13), v.v…
Như thế, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Con Thiên Chúa sinh làm người bởi Trinh nữ Maria (mầu nhiệm nhập thể). Và Ngôi Hai Thiên Chúa đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, Người chia sẻ cuộc sống, niềm vui, hy vọng, đau khổ và cả cái chết của nhân loại chúng ta. Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là con người thật. Nhờ đó, Người đã biểu hiện dung nhan con người của Thiên Chúa và đồng thời mạc khải chân dung thần linh của con người .
Cửa vào Đại gia đình Thiên Chúa
Bằng ngôn ngữ biểu tượng, Chúa Giêsu đã tự giới thiệu mình như cửa ngõ của ơn cứu độ, để bất cứ ai qua ngài, sẽ được cứu thoát (x. Ga 10, 9). Người xác quyết vai trò trung gian và sứ mạng cứu độ của Người đối với nhân loại.
Nhờ Chúa Giêsu, mọi người có thể trở thành con Thiên Chúa, trở nên thành viên của đại gia đình con cái Thiên Chúa. Thực thế, “những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa Cha” (Ga 1, 12).
Theo Đạo là đi vào tương quan cá nhân với Thiên Chúa như với người Cha, trở nên con cái của Ngài và có thể thân thưa : “Lạy Cha chúng con”, đó là tính chất mới mẻ và độc đáo mà Đức Giêsu Kitô đã mang đến cho toàn thể nhân loại. Xác tín về tính chất đặc thù này của Kitô giáo, các Giáo phụ thường xuyên nhắc lại : “Con Thiên Chúa do bản chất đã làm người để con người có thể trở nên con Thiên Chúa nhờ ân sủng “[10].
Bước theo Chúa Giêsu, người Anh Cả mẫu mực, trong suy nghĩ, thái độ và hành động, người Kitô hữu biểu lộ lòng hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha (Thượng Phụ). Truyền thống Nho giáo vốn quen thuộc với cách nhìn mọi người là anh em: “Tứ hải giai huynh đệ”, nhưng điều mới mẻ mà Kitô giáo mang lại cho tương quan giữa người với người, chính là sự qui chiếu về Chúa Kitô, Con Người-Thiên Chúa. Người đổi mới mọi quan hệ con người bằng một Tình Yêu toàn hiến, bất vụ lợi và đưa đoàn em nhân loại đi vào hiệp thông với Hạnh Phúc vĩnh hằng của Đại Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Chữ Tâm(心)
Hoạt động của con người tuy đa dạng và đa diện, nhưng giá trị đích thực của chúng đều qui về chữ Tâm. Thực vậy, cả truyền thống văn hóa tôn giáo Á Đông lẫn Kinh thánh đều trọng cái Tâm.
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên núi Yên Tử phát triển dòng thiền Trúc Lâm, đã từng trước tác bài kệ “Cư trần lạc đạo”, trong đó xác định đường tu chủ tâm chứ không tuy thuộc cảnh giới bên ngoài:
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thí ăn mệt ngủ liền,
Báu sẵn trong nhà đâu kiếm nữa,
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền[11].
Tu tâm là phương thế hữu hiệu đạt thân và là một phương cách biến đổi con người và thế giới. Thấm nhuần ít nhiều âm hưởng của quan niệm “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (Đại Học, chương I), của thuyết thiện tâm theo Mạnh Tử, Nguyễn Du đã diễn tả cốt lõi của sự thiện ở nơi tâm, trong đoạn kết thúc Truyện Kiều :
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
- Tâm trong Nho giáo
Chữ tâm trong Nho giáo được hiểu theo nghĩa rộng là cái thần minh làm chủ cả tư tưởng lẫn hành vi của người ta. Hễ ta giữ được cái tâm tĩnh, không để cho vật dục che khuất cái sáng suốt tự nhiên, thì khi có vật gì cảm đến là ứng ngay được, và biết rõ ngay cái lẽ. Tâm ta càng tĩnh, thì trực giác càng nhạy bén. Do đó, Vô tư giã, vô vi giã, tịch niên bất động, cảm nhi loại thông thiên hạ chi cố, nghĩa là không nghĩ, không làm, im lặng không động, đến lúc cảm thì suốt được mọi cớ trong thiên hạ[12].
Chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của con người là nhân nghĩa lễ trí. Mà “Nhân nghĩa lễ trí bắt nguồn từ tâm” (Tân tâm thượng). Con người sở dĩ là người, là do nội tâm của con người đang tồn tại cái tâm trắc ẩn, tu ố (xấu hổ và căm ghét), từ nhượng (khiêm tốn từ chối) và thị phi (phải trái).
“Tâm trắc ẩn là đầu mối của nhân; Tâm tu ố là đầu mối của nghĩa; Tâm từ nhượng là đầu mối của lễ, Tâm thị phi là đầu nối của trí vậy” (Công Tôn sửu thượng) Bốn loại tâm đạo đức này là sự mở đầu của quan niệm nhân nghĩa lễ trí. Đạo đức nhân nghĩa lễ trí của con người đều do sự phát triển của bốn loại đạo đức này[13].
Nếu Kinh dịch giải thích Tâm bằng tâm lý, Thượng thư dùng thiện ác giải thích Tâm, thì Kinh thi[14], một trong Ngũ Kinh, nền tảng của truyền thống Nho học, giải thích Tâm bằng nhân đức.
Chữ tâm được sử dụng 162 lần trong Kinh thi, diễn đạt các loại tình cảm tư tưởng nội tâm của con người. Khổng tử chỉ ra rằng : “Thi”, tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi viết : “Tư vô tà”, nghĩa là trong Kinh thi có 300 bài thơ thì chỉ có một câu có thể bao trùm được là: “không nghĩ bậy”. (Luận ngữ, Vi chính). Như thế, Kinh thi nhấn mạnh đặc biệt đến khái niệm về “Tâm đức”.
Vua chúa cần lấy tâm đức để trị quốc, chứ không thể dùng biện pháp hà khắc bạo ngược. Tâm đức là nguyên tắc quan trọng để trị quốc, dù phải dùng mệnh lệnh hành chính và luật pháp cũng phải thể hiện được tinh thần nhân đức.
Kinh thi nêu gương Lỗ Hi Công xuất quân đi dẹp loạn, mà không làm cho trăm họ bị tai họa. Dẹp được loạn mà không làm tổn thương dân chúng, đó là người có “tâm đức”.
Vì thế, bậc quân vương phải luôn tu thân mới đủ tư cách dẫn đạo dân chúng. Nhờ tu thân mà tâm hồn trong sạch, tác phong hợp lễ, đạo đức tràn đầy. Cả người cai trị lẫn dân chúng đều phải lấy việc tu thân làm gốc. Kinh thi đã liên kết chặt chẽ tâm với đức, đề cao tinh thần đạo đức, nhấn mạnh nhân đức, sự tự giác của ý thức đạo đức trong tương quan vua-tôi[15].
Theo Nho giáo, bốn cái tâm rộng lớn không thể đo lường được là Tứ vô lượng tâm (四無量心), gồm có: Hảo tâm, Hiếu tâm, Thiện tâm, Đạo tâm.
Hoàng Thiên bất phụ Hảo tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Hiếu tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Thiện tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Đạo tâm nhơn[16].
Việc tế lễ hệ tại chủ yếu ở cái Tâm: “Phù tế giả, phi vật tự ngoại chí giả giả, tự trung xuất, sinh ư tâm giã”, nghĩa là Tế không phải vật ở ngoài đến, mà tự trong ra, tự tâm hồn phát ra” (Lễ Ký, XXV : Tế Thống)[17].
Về tương quan giữa Tâm và tri thiên mệnh, Mạnh Tử chủ trương rằng khi rèn luyện hoàn hảo cái tâm của mình, thì sẽ biết bản tính của mình và khi biết bản tính của mình, thì cũng biết Trời:
Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tánh giã; tri kỳ tánh tắc tri Thiên hỹ [18].
Cũng thế, khi ta bảo tồn lòng dạ, lương tâm, nuôi dưỡng bản tính là để thờ Trời. Dù chết yểu hay trường thọ, vẫn xem như nhau, cứ bền chí tu tập, bình tĩnh đối với giờ sau hết, đó là cách xác lập vững chắc Mạng do Trời ban cho:
Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự Thiên giã.
Yểu thọ bất nhị, tu hân dĩ sĩ chi, sở dĩ lập Mạng giã [19].
Làm thế nào để dưỡng tâm ? Để dưỡng tâm cần thực hiện ba điều: giảm trừ ham muốn, dùng nhân lễ nghĩa để giữ cái Tâm và bồi đắp tinh thần ngay thẳng.
Thứ nhất, Dưỡng tâm mạc thiện vu quả dục, kỉ vi nhân diệc quả dục ; tuy hữu bất tồn yên giả, qua hĩ ; kĩ vi nhân diệc đa dục, tuy hữu tồn yên giả, quả hĩ. (“Tận tâm hạ”). Nó vì mọi người mà cũng ít ham muốn, tuy rằng có những người có hay không có chí tâm như vậy, nhưng cũng là ít ham muốn rồi. Ít ham muốn mới có thể bảo tồn được cái tâm thiện, nhiều ham muốn thì tất nhiên sẽ mất cái tâm thiện. Do đó, cần tận tâm tri tính một cách tự giác, là xem xét lại mình.
Thứ hai, lấy cái nhân ái để giữ lấy cái tâm, lấy cái lễ để giữ lấy cái tâm: “Dĩ nhân tồn tâm, dĩ lễ tồn tâm” (Li lầu hạ). Lấy đạo đức nhân nghĩa lễ trí để hạn chế dục vọng cầu lợi của nội tâm, đó là điểm khác biệt giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân.
Thứ ba là bồi dưỡng tinh thần ngay thẳng cương trực: “Hạo nhiên chi khí”, hình thành cái ý chí kiên định từ nhân đến nghĩa. Tinh thần thẳng thắn cương trực của lòng người do tập trung nghĩa mà thành, do sự phối hợp ý chí tinh thần với nghĩa và đạo[20].
- Tâm trong đạo Phật
Có nhiều giáo pháp và kinh tạng trong lịch sử phát triển của đạo Phật, nhưng có thể nói chữ Tâm là điểm quy kết con đường mà Đức Phật đề nghị với chúng sinh.
Tâm là đầu mối sinh tử
Tâm là căn bản giải thoát
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm là họa sỹ khéo
Tâm tạo ra ba cõi
Tâm chấp ngã là chúng sinh
Tâm vô ngã là Bồ tát
Tâm ích kỷ là phàm phu
Tâm vô lượng là pháp thân
Tâm ô nhiễm là khổ đau
Tâm thanh tịnh là Niết bàn
Tâm mê là chúng sinh
Tâm giác là Phật[21].
Có bốn cái Tâm vô lượng là Tứ vô lượng tâm, còn gọi là Tứ đẳng, Tứ Phạm hạnh hay Tứ Thiền trong Thập nhị Thiền, đó là:
Từ vô lượng tâm : Tâm có thể đem lại niềm vui cho chúng sinh.
Bi vô lượng tâm: Tâm có thể trừ khổ cho chúng sinh
Hỉ vô lượng tâm: Tâm vui mừng khi thấy người khác khỏi khổ được sướng.
Xả vô lượng tâm: như ba Tâm trước, xả bỏ mà Tâm chẳng còn chấp trước. Hơn nữa oán thân bình đẳng, xả oán xả thân.
Bốn tâm này phổ duyên vô lượng chúng sinh, dẫn đến vô lượng phúc, nên được gọi là vô lượng tâm[22].
Từ Bi Hỷ Xả là bốn đức tính cao thượng theo nhãn giới Phật giáo, càng có nhiều người thực hành các nhân đức này, thì xã hội sẽ được biến đổi, khởi đi từ thân tâm con người. Tứ vô lương tâm giúp cho con người trở nên chí thiện, có khả năng biến đổi con người tầm thường thành hiền nhân.
Thiện ác là tại tâm, tác động của tâm trong việc hướng tà hay hướng thiện còn mạnh hơn ảnh hưởng của kẻ thù hay của thân nhân. Hai bài kệ 42 và 43 trong thuộc kinh Pháp Cú, thuộc Phật giáo Nam tông diễn tả tầm quan trọng của Tâm:
- Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà
Gây ác cho tự thân. - Ðiều mẹ cha bà con
Không có thể làm được
Tâm hướng thiện làm được
Làm được tốt đẹp hơn[23].
Người theo Thiền tông không xa lạ với thiền ngữ của Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”[24], nghĩa là chỉ thẳng thân tâm người thấy tánh thành Phật.
Đạo Phật có rất nhiều pháp môn, nhưng dù tu tập theo pháp môn nào, thì cũng nhằm mục đích duy nhất là thanh tịnh tâm: “Tự thanh tịnh tâm ý/ Là lời chư Phật dạy”. Tu thiền là để thanh tịnh tâm, mà niệm Phật cũng để thanh tịnh tâm. Muốn cho tâm thanh tịnh thì phải diệt trừ tam độc tham, sân, si. Nếu ngồi thiền mà tâm không chuyển hóa, các phiền não không diệt trừ, tam độc không hóa giải, thì “mài đá chẳng thành gương, ngồi thiền đâu thành Phật”. Cũng vậy, miệng xưng niệm danh hiệu Phật mà tâm thì chẳng tương ứng với tâm niệm của Phật chút nào, vẫn dẫy đầy thị phi nhân ngã, thì cũng như “máy niệm Phật” mà thôi. Do đó, tu là phải tu tự cái tâm, chuyển đổi cái tâm niệm chúng sanh thành tâm niệm Phật, Thiền cũng vậy mà Tịnh cũng vậy[25].
- Kitô giáo: ĐạoTâm
Tâm giới[26]: nơi cư ngụ của Thiên Chúa
Nếu chỉ nhìn Kitô giáo từ bên ngoài hoặc qua thủ tục hành chánh, một số người thường có cảm tưởng rằng tôn giáo này là đạo của lề luật, vì ngoài 10 điều răn của Thiên Chúa và 6 điều răn Hội thánh, bộ giáo luật của Công giáo năm 1983 còn chứa đựng 1.752 khoản luật. Mỗi một dòng tu lại có hiến pháp riêng của dòng mình bao gồm nhiều khoản luật dành cho các tu sĩ nam nữ. Ví dụ như Hiến pháp của dòng Ngôi Lời có 735 điều qui định ; Hiến chương chung của 7 Hội dòng Mến Thánh giá ở Sàigòn cũng gồm 174 điều khoản v.v… Nhưng thật ra, Kitô giáo không phải là đạo của lề luật, mà là đạo của con tim, tâm đạo. Vì giới luật căn bản nhất của Kitô giáo là luật của trái tim : Luật yêu thương. « Mười điều răn ấy tóm về hai này mà nhớ : Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy » (Kinh mười điều răn). Thật vậy, trong Tân Ước, nếu từ ‘lề luật’ được dùng 165 lần thì từ ngữ ‘tâm lòng’ hay ‘con tim’ được sử dụng đến 128 lần. Và cụ thể nhất, chính cách sống của Chúa Giêsu trong 3 năm công bố Tin Mừng yêu thương đã biểu hiện trái tim của Thiên Chúa cho nhân loại đang khao khát thương yêu.
Thật vậy, nhìn vào cuộc đời Thầy Giêsu, chúng ta nhận ra thái độ ứng xử của Người chứng tỏ Người không dừng lại ở diện mạo bên ngoài, mà luôn muốn đi sâu vào cõi lòng con người. Đối diện với một Giakêu thấp bé, một người thường bị dư luận xếp vào loại gian tham và thuộc hàng tội lỗi, Thầy Giêsu không chỉ dừng lại ở một cuộc gặp gỡ xã giao hay một cuộc tiếp xúc qua đường, mà muốn đến nhà anh ta, nghĩa là đi vào tâm lòng của người thu thuế này.
Nhìn thấy một góa phụ dâng vài đồng xu vào hòm tiền của đền thờ, Đức Giêsu không dựa vào số lượng của cải đóng góp để đánh giá người phụ nữ nghèo này, nhưng Người thấu suốt hoàn cảnh sống của thiếu phụ kia, nên đã nhìn ra lòng quảng đại của chị.
Lòng từ tâm của Đức Giêsu con biểu lộ cách đặc biệt đối với các tâm hồn yếu đuối lỡ lầm. Khi bao bậc vị vọng trong xã hội Do Thái thời bấy giờ đòi ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào ? Người giữ lặng thinh một lúc, rồi đưa ra lời chất vấn đầy thách thức, biến những nguyên cáo thành bị cáo: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7). Người đọc được tà tâm của những người tố cáo và ban niềm hy vọng đổi đời cho nữ tội nhân.
Thánh Tâm: lẽ sống của người môn đệ
Không giống với các tín đồ của mọi tôn giáo khác, người Kitô hữu chúng ta không chỉ là người mang danh của đấng sáng lập đạo mà còn “mặc lấy” chính Đức Kitô và mang con tim của Người. « Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gl 3, 27). Lời thánh Phaolô khuyên các tín hữu thành Rôma vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay : « anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng » (Rm 13, 14).
Lòng tôn sùng Thánh Tâm và tôn kính Lòng thương xót Chúa là một thực hành đang phổ biến khắp nơi trong thế giới Công giáo, thực ra đã đâm rẽ sâu trong tâm lòng nhiều thế hệ Kitô hữu và qui chiếu về Tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đến cùng, biểu lộ qua trái tim bị đâm thâu của chính Chúa Giêsu trên thập giá. Thật ý nghĩa khi thánh giá, biểu tượng của Kitô giáo, giống hình chữ “t”, mẫu tự khởi đầu của các chữ “tâm”, “tim”, “tình thương” trong tiếng Việt.
Môn đệ của Đức Giêsu là người mang con tim của Thầy, nghĩa là để cho Đức Kitô sống trong mình, để cho Thầy yêu thương anh chị em bằng trái tim của mình. Kitô hữu đích thực là người thực hành “tuyên ngôn” của vị tông đồ cho dân ngoại : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).
Đi đạo, sống đạo là bước đi trên những nẻo đường của trái tim, sống theo tiếng gọi của con tim Thiên Chúa, hành xử theo cái Tâm của Đức Giêsu, chứ không chiều theo trái tim ngục tù, hạn hẹp của chúng ta. Vì tình yêu của chúng ta còn khiêm tốn, nghèo nàn và mang nặng cảm tính, nên sống theo tiếng gọi của trái tim Chúa Giêsu chúng ta sẽ mang lấy tâm huyết của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến.
* * *
Giữa nhiều điểm gặp gỡ, thiết nghĩ người Công giáo và tín đồ các tôn giáo khác tại Việt Nam có thể dễ dàng hội ngộ với nhau nơi lòng Hiếu kính và cái Tâm. Khi đồng tâm hiệp lực giáo dục chữ Hiếu và Tâm cho nhân sinh, đồng thời nỗ lực thực hành Hiếu và Tâm, cộng đồng những người tin có thể góp phần đặc thù của mình trong việc biến đổi, xây dựng và canh tân nhân tâm của con người cũng như của cộng đồng dân tộc.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 67 (Tháng 9 & 10 năm 2011)
Tài liệu tham khảo
- Thái Lam HỒNG, “Đối thoại trong viễn tượng đa nguyên tôn giáo”, Thời sự thần học, số 21 (tháng 9/2000), tr. 7-16.
- Trần Trọng KIM,Nho Giáo, Quyển thượng, Bộ Giáo dục-TT. Học Liệu Xuất bản, Sàigòn, 1971.
- Hoành Sơn Hoàng Sỹ QUÝ,Vấn đề đối thoại liên tôn, Ra Khơi, Sàigòn, 1972.
- Xem Trương Lập VĂN (Chủ biên),TÂM, Triết học Đông phương, Nxb KHXH, Hà Nội, 1999.
- Nguyễn Đăng DUY,Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội, 2001.
- GHPGVN-Phân viện Nghiên cứu Phật học,Từ điển Phật học Hán Việt,NXB KHXH, Hà Nội, 2004.
- HĐGMVN-Ủy Ban Giáo Dân,Sống đạo theo cung cách Việt Nam– Tài liệu hội thảo mùa Phục Sinh 2004, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2004.
- Mai Đức VINH (Chủ biên),Văn hóa và Đức Tin, Giáo xứ Việt Nam, Paris, 2004.
- Đoàn Trung CÒN (Dịch giả),Tứ Thư,NXB Thuận Hóa, Huế, 2006
- Lm. Phêrô Đinh Ngọc LÂM,Đối thoại liên tôn, LHNB, Tp. HCM, 2009.
[1] “Tứ hải giai huynh đệ”, “Lá lành đùm lá rách”
[2] Tạ Thanh Minh-Khánh, “Niềm tin trong văn hóa Việt Nam”, trong Mai Đức Vinh (Chủ biên), Văn hóa và Đức Tin, Paris, Giáo xứ Việt Nam, 2004, tr. 24-26.
[3] Nguyệt san Giác Ngộ, số 161 (8.2009), tr. 46.
[4] Luận ngữ (Đoàn Trung Còn dịch), Học nhi đệ nhứt, tiết 11, NXB Thuận Hóa, 2006, tr. 9.
[5] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 161 (8.2009), tr. 43.
[6] Ibid., tr. 44.
[7] Thích Viên Giác, Chữ Hiếu trong Đạo Phật qua Kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ, in http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/047-chuhieu.htm, Truy cập ngày 26.10.2020.
[8] Xem Quảng KIẾN, “Quan niệm về hiếu theo Lục độ tập kinh”, trong Nguyệt san Giác Ngộ, số 161 (8.2009), tr. 48.
[9] Alexandre de Rhodes, CATHECHISMUS pro ijs, qui volunt suscipere BAPTISMUM in octo dies divisus (Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, mà vào đạo thánh đức Chúa trời), Roma, 1651, tr. 17-21 (bản dịch của Gs. Trần Văn Toàn).
[10] Placide DESEILLE, “Déification, péché et salut. Perspective orthodoxe”, in Communio , n° XXI, 2 (1996), tr. 77.
[11] Nguyễn Đăng DUY, Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Hànội, 2001, tr. 433.
[12] Xem Trần Trọng KIM, Nho Giáo, Quyển thượng, TT. Học Liệu Xuất bản, 1971, tr. 36.
[13] Xem Trương Lập VĂN (Chủ biên), TÂM, Triết học Đông phương, Nxb KHXH, Hà Nội 1999, tr. 74-75.
[14] “Kinh thi” là một bộ sách do Khổng Tử thu tập tổng hợp các bài thơ ca sớm nhất của Trung Quốc, được chia thành hai quyển : thượng và hạ.
[15] Xem Trương Lập VĂN, sđd., tr. 63-64.
[16] Soạn già Đức Nguyên, Cao Đài Từ điển, quyển 3, Tòa Thánh Tây Ninh, 2000, tr. 664.
[17] A.M. Bùi Hữu Ngạn, Thượng Đế trong Nho giáo, Tủ Sách Ra Khơi Xuất bản, 1958, tr. 7.
[18] Mạnh Tử, Tận tâm chương cú thượng, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 216.
[19] Ibidem.
[20] Xem Trương Lập Văn, sđd., tr. 78-79.
[21] Thích Trí SIÊU, Tâm và Ta , NXB Phương Đông, Tp. HCM, 2007, tr. 107.
[22] GHPGVN-Phân viện Nghiên cứu Phật học, Từ điển Phật học Hán Việt, NXB KHXH, Hà Nội, 2004, tr. 1465.
[23] Thích Minh CHÂU (dịch), Kinh Pháp cú, NXB Tôn Giáo, Tp. HCM, 2006, tr. 17.
[24] Tập san Phật học online, số 1 (tháng 7-8.2008), tr. 59
[25] Thích Nguyên Hùng, Bồ Đề Đạt Ma Khai Thi Pháp Môn Niệm Phật, trong https://nguoiphattu.com/tu-hoc/tinh-do/3182-to-bo-de-dat-ma-khai-thi-phap-mon-niem-phat.html , Truy cập ngày 26.10.2020.
[26] Ở đây chúng tôi dùng theo nghiã thế giới tâm linh, chứ không theo nghiã của thuật ngữ “tâm giới” nơi Phật giáo:” giới được ngăn chặn các tâm niệm sai trái, lệch lạc.Lm. PX. Bảo Lộc