2020
Nhà giáo dục người Mỹ chỉ ra 9 bước nói chuyện với con có thể thay đổi cả cuộc đời đứa trẻ
Nhà giáo dục người Mỹ chỉ ra 9 bước nói chuyện với con có thể thay đổi cả cuộc đời đứa trẻ
So với người lớn, trí não trẻ nhỏ chưa hoàn toàn phát triển. Vì vậy bố mẹ cần có những cách riêng biệt để truyền tải thông điệp tới trẻ…
Nhà giáo dục người Mỹ, Fred Rogers đã thành lập một chương trình truyền hình dành riêng cho trẻ em mẫu giáo, nói về các khía cạnh quan trọng trong cuộc sống và cách giáo dục chúng.
Fred cho biết, trẻ thực sự lắng nghe mọi thứ người lớn nói, vì vậy cách chúng ta nói chuyện, truyền đạt thông điệp đến chúng vô cùng quan trọng. Theo Fred, có 9 bước để nói chuyện và 9 bước này hoàn toàn có thể thay đổi cuộc sống cả của con và của bố mẹ.
Không có đứa trẻ nào giống nhau cả. Nhưng tất cả chúng đều cần những lời khuyên từ bố mẹ. Đôi khi bạn phải giải thích cho con các quy tắc về sử dụng đồ chơi, những nơi được phép chơi đùa và những người được phép chơi cùng.
Nhà giáo dục Mỹ Fred Rogers đã minh họa, áp dụng 9 bước nói chuyện của mình để truyền tải thông điệp đến những đứa trẻ, thậm chí giúp chúng hiểu biết hơn về sự trưởng thành.
Bước 1: Hãy nói suy nghĩ của bố mẹ với con theo cách thật đơn giản
Não bộ của trẻ chưa phát triển đầy đủ như người lớn, đồng thời chúng cũng chưa có vốn từ vựng phong phú. Nếu bố mẹ nói chuyện với con mà sử dụng những từ ngữ quá cao siêu thì chúng sẽ không thể nào hiểu được.
Cách tốt nhất để truyền tải thông điệp đến con là bố mẹ hãy sử dụng những từ ngữ, câu nói thật đơn giản. Chẳng hạn như:
“Đi với người lạ là nguy hiểm”.
“Ném đồ chơi khắp mọi nơi là xấu”.
“Chơi ở ngoài đường nguy hiểm lắm”.
“Chơi game trên máy tính mà không xin phép bố mẹ là sai”.
Hãy nói suy nghĩ của bố mẹ với con theo cách thật đơn giản.
Bước 2: Hãy dùng những câu nói tích cực để truyền thông điệp đến con
Thay vì những câu đe dọa, quát nạt, bố mẹ hoàn toàn có thể uốn nắn, dạy dỗ con làm theo ý mình nhờ những câu nói mang tính tích cực:
“Sẽ thật tốt nếu con chỉ đi chung với những người quen biết”.
“Sẽ thật tốt nếu con đặt đồ chơi ở đúng nơi quy định”.
“Sẽ thật tốt nếu con chơi ở những nơi an toàn”.
“Sẽ thật tốt nếu con xin phép bố mẹ trước khi chơi game trên máy tính”.
Hãy dùng những câu nói tích cực để truyền thông điệp đến con.
.
Bước 3: Dạy cho trẻ cách hỏi thông tin
Trẻ nhỏ chưa đủ tư duy để phân biệt mọi sự đúng sai. Vì vậy, bố mẹ hãy dạy cho con việc hỏi những người mà chúng tin tưởng về những điều mà chúng muốn biết.
“Hãy hỏi bố mẹ xem con có thể đi cùng với ai”.
“Hãy hỏi bố mẹ nơi cất đồ chơi ở đâu”.
“Hỏi bố mẹ nên chơi ở đâu thì an toàn”.
“Hỏi bố mẹ khi nào thì được chơi game trên máy tính”.
Hãy dạy cho trẻ cách hỏi thông tin.
.
Bước 4: Loại bỏ những từ mang tính mệnh lệnh khi nói chuyện với con
Bố mẹ cần phải loại trừ tất cả những từ ngữ nghe giống như mệnh lệnh đối với con. Về cơ bản, bố mẹ có thể nói với con những câu hướng dẫn mang tính mềm mỏng, yêu thương như sau:
“Bố mẹ sẽ cho con biết, con có thể đi cùng với ai”.
“Bố mẹ sẽ cho con biết nơi cất đồ chơi”.
“Bố mẹ sẽ cho con biết nơi vui chơi an toàn”.
“Bố mẹ sẽ cho con biết khi nào có thể chơi game trên máy tính”.
Loại bỏ những từ mang tính mệnh lệnh khi nói chuyện với con.
.
Bước 5: Loại bỏ những từ mang ý nghĩa chắc chắn
Từ “sẽ” mang ý nghĩa chắc chắn và bố mẹ nên loại bỏ chúng ra khỏi cách truyền tải thông điệp của mình và thay bằng từ “có thể”:
“Bố mẹ có thể cho con biết con được đi cùng với ai”.
“Bố mẹ có thể cho con biết nơi cất đồ chơi”.
“Bố mẹ có thể cho con biết nơi vui chơi an toàn”.
“Bố mẹ có thể cho con biết khi nào được chơi game trên máy tính”.
Loại bỏ những từ mang ý nghĩa chắc chắn.
.
Bước 6: Loại bỏ những từ ngữ không hoàn toàn đúng với tất cả trẻ em
Hãy sắp xếp lại cách nói của bạn và loại trừ tất cả những từ ngữ không thể áp dụng hoàn toàn cho mọi đứa trẻ. Từ bị loại bỏ là từ “bố mẹ” vì không phải đứa trẻ nào cũng có đầy đủ bố mẹ cũng như nhận thức được bố mẹ chúng.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết, con được đi cùng với ai”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi cất đồ chơi”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi vui chơi an toàn”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết khi nào được chơi game trên máy tính”
.
Loại bỏ những từ ngữ không hoàn toàn đúng với tất cả trẻ em.
.
Bước 7: Thêm các từ ngữ mang tính động lực
Lần này hãy thêm các từ mang tính động lực vào trong lời nói với trẻ, để trẻ có lý do làm theo những điều bạn hướng dẫn:
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết, con được đi cùng với ai. Lắng nghe họ nói là điều tốt”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi cất đồ chơi. Lắng nghe điều họ nói là tốt”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi vui chơi an toàn. Lắng nghe điều họ nói là tốt”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết khi nào được chơi game trên máy tính. Lắng nghe điều họ nói là tốt”.
Hãy thêm các từ ngữ mang tính động lực.
.
Bước 8: Loại bỏ những từ ngữ mang tính đánh giá
Lần này vẫn hay thêm các từ mang tính động lực vào trong lời nói với trẻ nhưng thay từ “tốt” bằng một từ ngữ khác không mang tính chất đánh giá.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết con được đi cùng với ai. Lắng nghe họ nói là điều quan trọng”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi cất đồ chơi. Lắng nghe điều họ nói là quan trọng”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi vui chơi an toàn. Lắng nghe điều họ nói là quan trọng”.
“Người lớn mà con có thể cho con biết khi nào được chơi game trên máy tính. Lắng nghe điều họ nói là quan trọng”.
Hãy loại bỏ những từ ngữ mang tính đánh giá.
.
Bước 9: Gắn kết thông điệp với giai đoạn trưởng thành
Ở bước cuối cùng, bạn cần gắn kết thông điệp liên quan đến sự trưởng thành mà con bạn hiểu được:
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết con được đi cùng với ai. Lắng nghe họ nói là điều quan trọng. Và lắng nghe là một phần của quá trình trưởng thành”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi cất đồ chơi. Lắng nghe điều họ nói là quan trọng. Và lắng nghe là một phần của quá trình trưởng thành”.
“Người lớn mà con thích có thể cho con biết nơi vui chơi an toàn. Lắng nghe điều họ nói là quan trọng. Và lắng nghe là một phần của quá trình trưởng thành”.
“Người lớn mà con có thể cho con biết khi nào được chơi game trên máy tính. Lắng nghe điều họ nói là quan trọng. Và lắng nghe là một phần của quá trình trưởng thành”.
Hãy gắn kết thông điệp với giai đoạn trưởng thành.
.
Giờ hãy so sánh từ bước 1 đến bước 9, bạn có thể thấy rõ sự khác biệt giữa 2 bước đầu và cuối này. Trong mọi trường hợp, hãy cố gắng xây dựng ý tưởng và truyền tải thông điệp đến con theo các bước như trên. Điều này con bạn hiểu rõ thông điệp hơn.
Không chỉ vậy, chúng còn làm theo một cách tích cực, có động lực và tập trung vào việc phát triển bản thân.
Theo Brightside
Thanh Hương
2020
Coronavirus, Covid-19, Sars-Cov-2, phân biệt các tên gọi
Coronavirus, Covid-19, Sars-Cov-2, phân biệt các tên gọi
Tên coronavirus là từ chữ vương miện (couronne) bao chung quanh vi-rút
Chúng ta đặt cho nó nhiều tên: Coronavirus, Covid-19, Sars-CoV-2 và 2019-nCoV… Các tên gọi này đều nói đến nạn dịch hiện nay nhưng tất cả không có cùng ý nghĩa.
Từ khi bắt đầu đại dịch ở Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019, một số tên đã được gán cho vi-rút đang hoành hành. Đầu tiên là coronavirus, sau đó là Covid-19. Bây giờ một số người nói Sars-CoV-2 và 2019-nCoV. Tất cả các tên này không có cùng ý nghĩa. Giải thích.
Coronavirus là tên họ của vi-rút
Coronavirus là tên chung. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhắc coronavirus là một gia đình gồm một số lượng lớn vi-rút có thể gây ra nhiều loại bệnh ở người.
Nó có thể là vi-rút cảm lạnh thông thường vi-rút SARS, hội chứng hô hấp cấp tính nặng làm cho 774 người chết từ tháng 11 năm 2002 đến tháng 7 năm 2003, vi-rút MERS, coronavirus của hội chứng hô hấp đã hoành hành ở Trung Đông kể từ năm 2012. Chúng thuộc gia đình vi-rút có vương miện vì khi quan sát các hạt vi-rút, chúng ta thấy một vương miện bao quanh vi-rút.
Covid-19 là bệnh
Co là corona (tiếng la-tinh là vương miện), vi là vi-rút, d là bệnh (disease tiếng Anh) và 19 là năm nó xuất hiện. Covid-19 là bệnh truyền nhiễm đường hô hấp do vi-rút SARS-CoV-2 gây ra ở người. Triệu chứng chính là sốt, ho, đau đầu và đau bắp thịt. Biến chứng hô hấp có thể gặp trong các trường hợp nặng nhất.
Thời gian ủ bệnh (thời gian giữa khi bị nhiễm và xuất hiện các triệu chứng đầu tiên) thường từ 3 đến 5 ngày. Tuy nhiên, nó có thể kéo dài đến 14 ngày. Trong suốt thời gian này, người bị nhiễm có thể gây nhiễm. Hiện tại chưa có vắc-xin chống bệnh Covid-19.
Con coronavirus của hội chứng hô hấp cấp tính nặng là SARS-CoV-2, như thế đó là tên khoa học của con vi-rút mới này. Nếu Covid-19 là tên căn bệnh gây ra ở người, thì tên Sars-CoV-2 là tên riêng của con coronavirus này.
Sars là tên viết tắt của Hội chứng hô hấp cấp tính nặng và CoV của coronavirus. Ủy ban quốc tế về phân loại vi-rút đã chọn tên Sars-CoV-2 để chỉ định nó, trong ý thức tập thể, chữ Sars-CoV có nguồn gốc của đại dịch SARS (774 trường hợp tử vong trên toàn thế giới), nó thuộc về gia đình 2019-nCov, đó là tên cũ của nó.
Chúng ta có thể quên điều này. 2019-nCov là tên cũ của Covid-19. Nó đã được sử dụng vào đầu dịch bệnh nhưng đã nhanh chóng được thay thế. Một lần nữa, năm 2019 là năm khám phá và CoV là viết tắt của coronavirus. Còn chữ n, có nghĩa là mới (new).
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
***
2020
Việc đình chỉ Thánh lễ thời covid-19 và việc chối Chúa trong bộ phim ‘Im Lặng’
Việc đình chỉ Thánh lễ thời covid-19 và việc chối Chúa trong bộ phim ‘Im Lặng’
Thánh lễ cộng đồng đã bị đình chỉ, nghĩa là Thánh lễ vẫn được cử hành – ngay cả cho chúng ta – nhưng chúng ta sẽ không có mặt ở đó. Chúng ta chỉ tham dự riêng rẽ qua màn hình trực tuyến, cũng giống như bao nhiêu người khác phải học trực tuyến, làm việc trực tuyến…
Dù sao, đây cũng là sự mất mát đáng buồn nhất cho các tín hữu Công giáo, vì tham dự thánh lễ cộng đồng là một trong những niềm hạnh phúc lớn lao và là nghĩa vụ ân tình của ta đối với Chúa và với nhau. Tuy nhiên, hy sinh nghĩa vụ thánh thiêng này lại chính là cái giá phải trả để có thể chu toàn trách nhiệm đối với nhau trong đại dịch covid-19. Vì trách nhiệm xã hội và trách nhiệm đạo đức, chúng ta cần phải thuận tình tuân theo những đề xuất hợp lý đó của Nhà chức trách.
Trong tình huống này, có nhiều người liên tưởng đến sự hy sinh lạ lùng của các nhà truyền giáo Dòng Tên trong phim ‘Im Lặng’ của đạo diễn Martin Scorsese: Chấp nhận vâng lời Chúa để chối Chúa mà cứu mạng sống các tín hữu! Trong tình huống của chúng ta thì không phải là chuyện chối Chúa, nhưng là chuyện hy sinh thánh lễ cộng đồng vì sức khỏe và mạng sống của mọi người, một hy sinh cần thiết phải thực hiện.
Dưới đây là 5 câu hỏi đầy bức xúc thường được đặt ra sau khi khán giả xem xong bộ phim ‘Im Lặng’ – một bộ phim đầy ấn tượng về các nhà truyền giáo ở Nhật Bản trong thời kỳ cấm cách đạo Chúa. Và các câu trả lời là của linh mục James Martin, S.J. – người đồng hành với đạo diễn của bộ phim ‘Im Lặng’.
◦Tại sao linh mục Rodrigues nhiệt tình đi truyền giáo mà rốt cuộc lại chối bỏ đạo Chúa?
◦Sau khi chối đạo, linh mục Rodrigues có còn tin Chúa nữa không?
◦Kichijiro có phải là một nhân vật khôi hài không?
◦Tại sao Thiên Chúa lại im lặng trước bao đau khổ của những kẻ sẵn sàng chết vì Ngài?
◦Tại sao các nhà truyền giáo lại phải đi đến những nơi khốn khổ đó?
Bộ phim ‘Im Lặng’ ra mắt năm 2016 của đạo diễn Martin Scorsese – kể lại chuyện các linh mục dòng Tên truyền giáo tại Nhật Bản vào thế kỷ 17 – đã được công chiếu trên toàn thế giới. Sau khi phim được phát hành, nhiều người đã gửi cho tôi (Lm James Martin, S.J.) vô số thắc mắc về phim này vì họ biết tôi là một trong những chuyên gia tư vấn cho bộ phim. Và trên đây là 5 thắc mắc được nhiều người đặt ra nhất.
- Tại sao linh mục Rodrigues nhiệt tình đi truyền giáo mà rốt cuộc lại chối bỏ đạo Chúa?
Trước hết, bỏ đạo có nghĩa là từ bỏ đức tin của mình. Trong phim “Im Lặng”, trước khi linh mục Rodrigues đến Nhật Bản, cũng đã từng có một linh mục tên là Ferreira (do tài tử Liam Neeson thủ vai) đã bị tra tấn, rồi bị nhà chức trách Nhật Bản đe doạ rằng: Nếu Ferreira không chối bỏ đạo Chúa, thì các Kitô hữu Nhật Bản – trong đó có những giáo dân thân yêu của ngài – sẽ bị tra tấn dã man đến chết. Như đã thấy từ đầu phim, linh mục Ferreira đã quyết định chối đạo để khỏi phải nhìn thấy những người thân quen của mình chịu đau khổ. Cha Giám tỉnh dòng Tên của Ferreira đã nói với hai linh mục trẻ tuổi Rodrigues và Garupe rằng: “Vì chúng ta mà cha Ferreira đã không còn được gọi là ‘Kitô hữu’ nữa (đã mất)!”
Lời đe dọa của chính quyền – buộc một người phải chối đạo để tránh cho nhiều người khác khỏi bị tra tấn đến chết – là điều hiếm thấy. Thông thường, trong lịch sử Kitô giáo, chính đương sự bị đưa ra tra tấn và chết vì niềm tin của chính mình.
Rồi cũng giống như cha Ferreira, sau bao nhiêu gian khổ mới đến được Nhật Bản, và trốn chui trốn lủi để truyền giáo, cuối cùng hai linh mục trẻ tuổi Rodrigues và Garupe cũng đã bị bắt và phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan: chọn dẵm đạp lên ảnh Chúa để giáo dân của họ được tự do, hoặc cương quyết từ chối động tác này để rồi giáo dân của mình bị hành hình đau đớn khủng khiếp. Đó là một lựa chọn gần như bất khả thi. Như vậy, cả hai linh mục ấy buộc phải “suy tính” trong một tình huống phức tạp, và không dễ tìm được cách giải quyết thích đáng. Cha Rodrigues và cha Garupe đến từ một thế giới ‘đen trắng rạch ròi’, thế mà phải đưa ra những quyết định đau đớn trong một thế giới màu xám – đen và trắng lẫn lộn nhau, rất khó phân định.
Một số nhà phê bình dường như không hiểu được những khó khăn vốn có của sự lựa chọn này.”Tại sao các linh mục dòng Tên ấy không đạp lên ảnh của Chúa Giêsu ngay lập tức để cứu các bổn đạo bớt phải đau đớn ngay từ đầu?”- một nhà báo hỏi tôi. Phóng viên này đã quên mất một điểm then chốt. Toàn bộ cuộc đời của các linh mục dòng Tên là dành cho Chúa Giêsu, Đấng mà họ kết hiệp thường xuyên qua việc suy niệm Tin Mừng, lãnh nhận các bí tích, cầu nguyện và thi hành sứ vụ, đặc biệt qua kinh nghiệm linh thao là một loạt các suy niệm về Chúa Giêsu. Cha Rodrigues đã nhiều lần cả tiếng nói chuyện với Chúa Giêsu, cầu nguyện với Chúa và thường hay tưởng tượng nét mặt thân yêu của Chúa. Chúa Giêsu là trung tâm đời sống của các linh mục dòng Tên. Muốn các tu sĩ dòng Tên dẹp bỏ ngay lập tức mối quan hệ thần thiêng đó – để chối đạo tức thời – là điều hoàn toàn phi thực tế.
Chỉ đến phút cuối, sau những trải nghiệm đau thương, bao gồm việc bị tra tấn và chứng kiến các tín hữu bị hành hình, rồi sau những giờ phút cầu nguyện vật vã, và đặc biệt, sau khi nghe được giọng nói của Chúa, cha Rodrigues mới quyết định dẵm lên ảnh Chúa.
Cha đã dẵm lên ảnh Chúa, không đơn giản chỉ vì muốn cứu mạng sống của các tín hữu Nhật Bản, mà còn vì – khi cầu nguyện – cha biết được chính Chúa Giêsu dạy phải làm như thế. Như vậy, khác với những lời của các nhà phê bình phim ảnh, phim này hoàn toàn không có ý đề cao việc chối đạo, mà là đề cao ý Chúa.
Nhiều khán giả Kitô hữu có vẻ đã hoang mang khi thấy trong phim, chính Chúa Giêsu dạy cha Rodrigues dẵm lên ảnh thánh. Vâng, chính Chúa Giêsu đã yêu cầu linh mục này làm như thế mà cứu các bổn đạo!
Làm sao chúng ta có thể hiểu được điều ấy về mặt thần học? Có lẽ chỉ hiểu được khi ta nhìn vào kinh nghiệm của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn, như đã được ghi lại trong Phúc Âm. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu nội tâm dữ dội mới hiểu được ý Chúa Cha khi cầu nguyện: “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin hãy cho con khỏi uống chén này!” Ngài không muốn chết. Nhưng rồi Ngài cầu nguyện thêm: “Nhưng không phải theo ý Con, nhưng xin theo ý Cha!” (Lc 22,42). Chúa Giêsu làm một điều mà mọi người thân của Ngài đều phản đối. Ngay cả Phêrô cũng không muốn Chúa Giêsu phải chịu khổ: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22). Các tông đồ không muốn Chúa Giêsu chịu đau khổ, càng không muốn Chúa phải vác thập giá. Với họ, việc vác thập giá chẳng có ý nghĩa gì cả!
Tuy nhiên, Chúa Giêsu chấp nhận làm công việc xem ra vô nghĩa đó vì đây là điều Chúa Cha yêu cầu. Việc làm này của Ngài, bề ngoài xem ra chẳng có liên quan gì đến Chúa Cha. Tương tự như thế, hành động của linh mục Rodrigues bên ngoài xem ra chẳng có ý nghĩa gì trong mối quan hệ giữa Rodrigues với Chúa Kitô. Nhưng nói cho cùng, không có gì khó hiểu ở đây cả: linh mục này đạp lên ảnh Chúa, đơn giản chỉ vì Chúa đã yêu cầu như thế. Và đối với những người nói rằng Chúa Kitô sẽ không bao giờ đòi hỏi một điều phi lý như vậy, thì xin hãy tự hỏi: các môn đệ đã cảm thấy như thế nào khi Chúa Giêsu bảo họ phải chịu đau khổ và phải chết? Sao lại phải làm một điều vô nghĩa như thế?
Một số cuộc thảo luận xung quanh bộ phim này thậm chí có thể phản ánh các cuộc tranh luận đang diễn ra bên trong Giáo hội hôm nay về việc Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến “sự phân biện” đối với những người phải đối mặt với những tình huống phức tạp, trong đó lối tiếp cận ‘đen trắng rành rọt’ dường như không thích hợp. Một người bạn dòng Tên cảm thấy câu hỏi thiết yếu mà bộ phim đặt ra là: Liệu chúng ta có tin rằng Thiên Chúa vẫn làm việc qua lương tâm của mỗi người, và Ngài giúp họ nhận ra được con đường đúng đắn nhất trong các tình huống phức tạp, ở đó các quy tắc bình thường dường như không phù hợp với thực tế của tình huống đặc biệt ấy?
Trong sách Linh Thao, Thánh Ignatio có nói đến ba mức độ khiêm tốn.
Mức độ thứ nhất là khi người ta không làm gì sai trái về mặt luân lý. Nghĩa là, họ đang có một cuộc sống lành mạnh.
Mức độ thứ hai là khi một người, đứng trước những lựa chọn – ví dụ giữa giàu có và nghèo đói, hay giữa danh dự và nhục nhã – anh ta cảm thấy hoàn toàn tự do để chấp nhận bất cứ điều gì Chúa muốn, không vướng víu vào bất kỳ bên nào hay cái nào. Hễ Chúa muốn cái gì thì tôi chọn cái ấy, bất kể là giàu có hay nghèo đói, danh dự hay nhục nhã.
Mức độ khiêm nhường thứ ba, cao nhất, là khi một người có thể chọn điều xem ra đáng hổ thẹn, nhưng lại đưa họ đến gần Chúa hơn, như sách Linh Thao viết: “Tôi muốn được xem như một kẻ ngu dốt bất tài vì Đức Kitô, Đấng đã từng bị xem như thế”. Đó là một người chấp nhận bị người khác hiểu lầm, giống như Đức Kitô đã từng bị hiểu lầm.
Và đấy là những gì linh mục Rodrigues đã chọn: đã chấp nhận sự hiểu lầm từ các Kitô hữu châu Âu, từ các bề trên dòng Tên của ngài, và thậm chí từ những người xem phim hiện đại.
- Sau khi chối đạo, linh mục Rodrigues có còn tin Chúa nữa không?
Sau khi chối đạo, Rodrigues không còn có thể sống đời linh mục nữa, phải sống âm thầm ở Nhật như một người Nhật Bản có gia đình. Ở cảnh cuối của bộ phim, đạo diễn Scorsese cho khán giả xem tang lễ của Rodrigues. Trong nghi thức lễ tang, người vợ Nhật của Rodrigues đã bỏ vào tay chồng mình chiếc thánh giá mà trước đó, một trong những người bạn Kitô hữu Nhật Bản đã tặng cho vị linh mục này khi đang truyền giáo. Khi đọc lần đầu tiên kịch bản của cảnh cuối này, tôi đã rất xúc động với hình ảnh cho thấy Scorsese đã “giữ thật chặt” đức tin của mình cho đến khi xuống mộ.
Người vợ của Rodrigues hẳn đã hiểu rõ: cây thánh giá này có giá trị vô cùng lớn đối với chồng bà, hiểu rằng đức tin của Rodrigues là vô cùng quan trọng đối với ông. Với những khán giả còn nghi ngờ niềm tin của Rodrigues sau khi chối đạo, xin vui lòng tự hỏi: Rodrigues còn giữ thánh giá này làm gì nếu ông không còn tin nữa – nhất là khi vật thánh này sẽ là mối nguy lớn cho bản thân ông và gia đình, nếu bị phát giác.
Thật vô lý khi cho rằng một linh mục dòng Tên có thể bất ngờ không còn tin Chúa Giêsu, Đấng mà ông đã tin tưởng yêu mến suốt quãng đời rất dài, thậm chí là đã từng chịu mọi gian khổ để rao giảng về Ngài. Một lần nữa, tôi muốn phân biệt việc ‘giữ đức tin’ với việc ‘công khai chối đạo’. Ngay cả linh mục Ferreira – được tài tử Liam Neeson thủ vai rất tinh tế – có vẻ như cũng không hề thoải mái khi nói với Rodrigues về việc công khai chối đạo của mình. Trong phim, lời nói của Ferreira thì diễn tả sự chối đạo, nhưng khuôn mặt của Ferreira thì lại cho thấy ông vẫn đang bị dằn vặt với quyết định ấy của mình.
Nhưng có một cách dễ dàng nhất để thấy rằng Rodrigues vẫn tin tưởng vào Chúa, đó là – vào cuối phim – mặc dù đã công khai chối đạo, Rodrigues vẫn cầu nguyện. Ông đã nói với Chúa: “Cho đến tận hôm nay, tất cả những gì con làm, mọi thứ con đã làm, đều là để nói về Chúa. Chính trong im lặng mà con nghe thấy tiếng Ngài”. Nếu không còn tin Chúa, Rodrigues đã không nói chuyện với Chúa nữa.
- Kichijiro có phải là một nhân vật khôi hài không?
Tôi nghe nói rằng: khuôn mặt của Kichijiro – là anh chàng hướng dẫn viên Nhật Bản đầu tiên của Rodrigues và Garupe, rồi sau đó thành bạn của Rodrigues – đã mang lại những tiếng cười thú vị trong rạp chiếu phim. Kichijiro đã từng nhận mình là một kẻ tội lỗi. Anh chối đạo nhiều lần và đã hèn nhát khai nộp Rodrigues cho nhà chức trách Nhật Bản.
Đặc biệt, Kichijiro đã nhiều lần đến với linh mục Rodrigues để xưng tội, và tận cuối bộ phim, sau khi Rodrigues đã chối đạo rồi, anh vẫn tìm kiếm vị ‘cựu linh mục’ này để tha thiết xin xưng tội.
Khán giả đã bật lên tiếng cười khi thấy Kichijiro nhiều lần tái phạm tội chối đạo, rồi cũng nhiều lần vội vã cắm cúi đi xin xưng tội ngay sau đó. Tôi thấy, con người là như thế! Trong chúng ta, ai đã không từng phải chiến đấu với một thứ tội nào đó, một cái tội dai dẳng thường xuyên quay trở lại ám ảnh chúng ta? Ai đã không từng cảm thấy xấu hổ về việc mình cứ phải xưng tội nhiều lần về cùng một thứ tội hay phạm? Ai đã không từng rất nhiều lần mong ước nhận được sự tha thứ của Chúa?
Vào cuối phim, anh chàng rất yếu đuối này dường như cũng muốn giúp Rodrigues quay trở lại với sứ vụ linh mục của mình khi tìm đến xin xưng tội với Rodrigues. Trong một cảnh rất cảm động, do sự nài nỉ của Kichijiro, Rodrigues đã nghiêng đầu mình trên đầu của Kichijiro, như thể là đang cầu nguyện cho hắn. Và xem ra cũng rất giống như đang xá tội cho hắn!
Cảnh cuối cùng về Kichijiro có thể được coi là huyền nhiệm nhất: Một viên chức Nhật Bản chú ý đến chiếc dây Kichijiro đang đeo quanh cổ và giật đứt nó. Viên chức này mở chiếc túi nhỏ gắn liền với sợi dây và trông thấy một tấm ảnh đạo, nên nhanh chóng bắt Kichijiro đi, có lẽ là dẫn đi xử tử.
Tôi phải xem đến ba lần mới nhận ra điều lạ lùng này: Kichijiro cuối cùng đã trở thành vị tử đạo truyền thống của Kitô giáo, có thể được mọi người Công giáo công nhận để đưa lên bàn thờ mà tôn kính, vì hắn quả thật đã chết vì đạo Chúa. Nhưng thật mỉa mai khi anh chàng “yếu đuối” ấy lại vô tình trở thành một vị anh hùng, trong khi người đàn ông “mạnh mẽ hơn”, là Rodrigues, đã từng chịu bao nhiêu khổ cực khi đi truyền giáo, đã “tử vì đạo” theo một cách khác, lại sẽ không bao giờ được tôn kính, thậm chí có thể bị khinh miệt mãi mãi vì đã dẵm đạp lên ảnh Chúa (dù là để làm theo ý Chúa mà cứu sống nhiều người). Đây quả là một huyền nhiệm khó hiểu về sự hy sinh và tử đạo.
- Tại sao Thiên Chúa im lặng?
Đây có lẽ là câu hỏi khó nhất; và vì thế, không có gì ngạc nhiên khi cả Endo và Scorsese đều lấy cụm từ này làm tựa đề cho cuốn sách và bộ phim của mình (Bộ phim “Im Lặng” của đạo diễn Scorsese đã được thực hiện theo nội dung cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nhật Bản Endo).
Rất nhiều lần, linh mục Rodrigues đã rên rỉ than van về sự im lặng của Chúa. Điều này có thể hiểu theo hai nghĩa:
– Một là, linh mục Rodrigues không cảm nhận được sự hiện diện của Chúa khi cầu nguyện. Cha cảm nhận rõ rệt sự vắng mặt này khi run rẩy ngập ngừng trước quyết định giẫm lên ảnh thánh (Khi vừa giẫm lên ảnh Chúa để mong cứu các bổn đạo, linh mục Rodrigues ngay sau đó đã đổ người xuống đất, ôm chặt lấy ảnh thánh mà khóc nức nở. Ôi, cha Rodrigues đâu muốn làm như thế! Chúa ở đâu? Sao Chúa lại im lặng?).
– Hai là, linh mục Rodrigues cảm thấy rằng Thiên Chúa im lặng khi không giúp đỡ những người đang bị tra tấn dã man đến chết. Cảnh hai linh mục dòng Tên vô cùng đau khổ khi núp trong bụi cây từ xa, kinh hoàng nhìn các Kitô hữu Nhật Bản bị đóng đinh trên biển. Họ mong có một biến cố gì đó xảy ra để giúp các tín hữu khỏi bị giết chết (nhưng hoàn toàn vô vọng, vì Chúa cứ… im lặng?)
Sự im lặng của Chúa theo nghĩa thứ nhất: Có rất nhiều ví dụ về những Kitô hữu đạo đức cảm thấy Chúa thật xa vắng. Một ví dụ gần đây nhất chính là Thánh Têrêsa Calcutta, đã trải qua một “đêm tối” trong suốt nhiều thập kỷ, trải dài cho đến cuối cuộc đời. Cuốn sách “Im Lặng” của nhà văn Endo đã được viết trước khi những trải nghiệm tăm tối của Mẹ Têrêsa về sự im lặng của Thiên Chúa được công bố. Nhưng Endo đã biết những trải nghiệm đau đớn của các vị thánh khác về sự im lặng của Thiên Chúa, ví dụ, Thánh Gioan Thánh Giá. Tương tự như Thánh Têrêsa Calcutta, linh mục Rodrigues đã rất nhiều lần đau đớn vì không nghe được tiếng Chúa khi cầu nguyện, khác với trước đó khi cha đã từng nghe được tiếng Chúa nói với mình.
Tuy nhiên, khi kết thúc bộ phim, Rodrigues nói rằng Chúa vẫn ở trong “mọi sự” (cách nói của Dòng Tên là “tìm thấy Chúa trong mọi sự.”) “Chính trong im lặng mà con đã nghe được tiếng Chúa”, cha nói. Bên cạnh việc nghe được tiếng Chúa Kitô yêu cầu cha giẫm lên ảnh thánh, cha còn nhận ra rằng Chúa luôn ở với mình, ngay cả khi không nói gì với cha khi cha cầu nguyện. Cha nhận ra rằng, dù không nói gì với cha trong nội tâm, Thiên Chúa vẫn nói với cha qua những sự việc bên ngoài.
Sự im lặng của Chúa theo nghĩa thứ hai: Thiên Chúa im lặng khi không giúp đỡ những người đang bị tra tấn dã man đến chết. Đây là điều khó trả lời hơn, cũng là vấn nạn muôn thuở về đau khổ và sự dữ. “Tại sao lại có đau khổ?” Sẽ không có một câu trả lời nào có thể làm thỏa mãn tâm hồn những người đang phải trải qua những đau khổ sâu xa, cho dù họ có đạo đức đến mấy đi nữa.
Tuy nhiên, ba quan điểm Kitô giáo về đau khổ có thể được coi là hữu ích.
Thứ nhất, Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu, Đấng đã trải qua đau khổ, hiểu được đau khổ và gần gũi với người đau khổ. Thứ hai, trong cái nhìn sâu sắc đó, một số nhà thần học đã nói về một vị Thiên Chúa cùng chịu đau khổ với những người đau khổ. Thứ ba, Kitô hữu tin rằng đau khổ không bao giờ là tiếng nói sau cùng. Luôn luôn có hy vọng về sự Phục Sinh, về cuộc sống mới không chỉ dành cho người đau khổ mà cho toàn thể nhân loại.
Vậy Chúa ở đâu khi những Kitô hữu Nhật Bản đang bị tra tấn và bị đóng đinh? Tôi dám nghĩ rằng: Chúa đang cùng với họ, cận kề họ, bên cạnh họ và nhìn họ chằm chằm với nỗi đau khổ giống như hai linh mục Rodrigues và Garupe đang đau đớn nhìn những tín hữu thân thiết của mình bị đóng đinh trên bờ biển.
- Tại sao các nhà truyền giáo lại đến đó và ở đó?
Rất nhiều nhà phê bình đã đặt câu hỏi này với sự chê trách: Đến đó và ở đó làm gì để rồi cuối cùng thất bại đến mức một kẻ giảng đạo lại trở thành kẻ công khai chối đạo?
Lịch sử các nhà truyền đạo Kitô ở Nhật Bản – và cả ở những nơi khác – là một vấn đề phức tạp. Hãy nhớ rằng, khi nói về ‘các nhà truyền đạo Kitô’, chúng ta đang nói về một lịch sử hơn 2000 năm, bắt đầu từ Thánh Phaolô và diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thêm vào đó, sự đa dạng của quê hương các nhà truyền giáo càng làm tăng nét phức tạp của lịch sử. Ngay cả khi chúng ta chỉ đơn giản xem xét thời đại của bộ phim là thế kỷ 17: đó chính là lúc hầu hết các quốc gia Châu Âu đều đã gửi các nhà truyền đạo Kitô ra nước ngoài. Hơn nữa, chúng ta còn phải kể đến nhiều cách tiếp cận khác nhau của nhiều dòng tu Công giáo đang hoạt động trong lĩnh vực truyền giáo: Dòng Phan Sinh, Dòng Tên, Dòng Đa Minh, v.v… Trong một số trường hợp, các linh mục và tu sĩ truyền giáo đã cùng đi với đại diện quyền lực của thực dân và đã bị coi như là các phụ tá của các nhà hoạt động chính trị này (cho dù cái nhìn đó thường không đúng).
Các nhà truyền giáo đã đến những vùng đất mới này để đem lại những gì họ coi là quà tặng vô giá cho những người mà họ sẽ gặp: đó là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta hãy nhìn vào trường hợp của hai linh mục Rodrigues và Garupe. Cả hai đều đến Nhật Bản để loan truyền Phúc Âm. Họ được gửi đến từ Bồ Đào Nha, không chỉ đơn giản là tìm Cha Ferreira, mà còn ở lại Nhật Bản nữa. Họ mang đến cho dân tộc ấy một điều quý báu nhất: Đó chính là Chúa Giêsu. Có ngạo mạn không khi nói rằng họ đang mang đến một món quà? Vài người có thể nghĩ như vậy, nhưng tôi thì không. Hãy nghĩ về những nhà truyền giáo như là các thầy thuốc muốn mang thuốc đến với những người mà họ biết là đang rất cần những thang thuốc này. Và họ đã làm như vậy, cho dù rất nguy hiểm cho chính mạng sống của họ.
Trong thực tế, các nhà truyền giáo Dòng Tên đã hy sinh vô vị lợi cho các dân tộc mà họ đang phục vụ – chịu đựng những khó khăn khủng khiếp về thể xác, nghiên cứu ngôn ngữ địa phương (thậm chí còn soạn từ điển cho những ngôn ngữ đó, mà hiện vẫn đang được sử dụng), ăn những thực phẩm xa lạ và làm việc vất vả như những người mà họ phục vụ (xem nhật ký của Thánh Jean de Brébeuf -một trong những vị tử đạo ở Bắc Mỹ- và lời khuyên của ngài với các anh em dòng Tên rằng họ cần phải chèo thuyền vất vả như người Huron để không bị xem là lười biếng). Điều đó được gọi là “hội nhập văn hoá”, một sự yêu thương gắn bó chính mình vào nền văn hoá địa phương.
Các linh mục dòng Tên đã làm như thế vì tình yêu. Vì yêu Chúa và các dân tộc mà họ đã tận tâm phục vụ. Nếu bạn nghi ngờ động lực của họ, thì tôi xin hỏi điều này: Bạn có sẵn lòng bỏ lại đằng sau tất cả những gì bạn biết – bỏ quê hương, ngôn ngữ, gia đình, bạn bè, thực phẩm, văn hoá, truyền thống của bạn – để đi đến tận cùng thế giới với bao nhiêu nguy hiểm đợi chờ, mong tặng một món quà cho một nhóm người mà bạn chưa bao giờ gặp, một nhóm người mà nhiều người ở nước bạn nghĩ là không xứng đáng được tặng món quà ấy vì biết rằng bạn có thể bị tra tấn và giết chết? Đối với tôi, đấy là hành động của một tình yêu vĩ đại.
Như vậy cuối cùng, phim “Im lặng” chính là phim nói về tình yêu. Trước hết, đó là tình yêu của hai linh mục trẻ Rodrigues và Garupe đối với người thầy cũ của mình là Cha Ferreira. Đó là tình yêu của ba linh mục dòng Tên đối với dân tộc Nhật Bản. Và tình yêu mãnh liệt của Cha Rodrigues đối với Chúa Giêsu Kitô.
Trên tất cả, đó chính là tình yêu của Chúa Giêsu dành cho linh mục Rodrigues, dành cho anh em Dòng Tên, dành cho dân tộc Nhật Bản và cho toàn thể nhân loại. Khi hiểu được tình yêu này, bạn sẽ hiểu được nội dung của phim “Im lặng”.
Lm James Martin, SJ / Lm Vi Hữu chuyển ngữ
Nguồn: Sách Nhịp Sống Tin Mừng
2020
12 bước tiến của sự kiêu ngạo trong ta
Sự kiêu ngạo lớn lên trong ta thế nào? Thánh Bênađô đã đưa ra cho chúng ta 12 bước tiến của nó. Chúng ta hãy lưu ý cách thức 12 bước này dần trở nên nghiêm trọng và cuối cùng dẫn ta đến nô lệ tội lỗi. Các bước này có xu hướng ảnh hưởng lên nhau, bắt đầu từ trong tâm trí, chuyển đến hành vi, sau đó đi sâu vào thái độ, và cuối cùng dẫn đến cuộc nổi loạn và sự nô lệ. Vì nếu người nào không phụng sự Thiên Chúa thì sẽ phụng sự Satan.
- Sự tò mò
Điều làm cho sự tò mò bị liệt vào hạng kiêu căng, là vì chúng ta thường nghĩ rằng, chúng ta có quyền biết những điều mà lẽ ra chúng ta không nên biết. Chúng ta thường lún sâu vào những điều mà chúng ta không nên như: những tình cảm, vấn đề riêng tư, hay hoàn cảnh tội lỗi của người khác, v.v. Vì thế, chúng ta xoi mói một cách kiêu kỳ và thô thiển những điều mà đáng lý chúng ta không nên: những điều không thuộc chúng ta, hoặc không hợp và mất giờ của chúng ta, hay có lẽ vượt quá khả năng của chúng ta. Chúng ta tò mò tọc mạch, can thiệp, và xoi mói những thứ mà chúng ta không nên, như thể chúng ta có quyền làm như vậy. Đây là tội tò mò.
- Sự lơ đễnh
Một chút bông đùa, thể thao, giải trí, có giá trị nhất định của chúng. Nhưng nếu quá thường xuyên, dần lún sâu vào giải trí, thì chúng ta cần xem lại. Chúng ta gạt bỏ, phớt lờ hoặc xem nhẹ những điều nghiêm túc liên quan đến sự vĩnh cửu, trong khi đó lại theo đuổi và những thứ mau qua và chóng tàn. Mất hàng giờ cho vấn đề giải trí, nhưng lại không có giờ cho việc cầu nguyện, học tập, hướng dẫn người khác trong đức tin, chăm sóc người nghèo, v.v., điều này cho thấy sự thiếu nghiêm túc, và thể hiện sự kiêu ngạo. Chúng ta gạt đi những gì quan trọng đối với Chúa cách nhẹ nhàng, và thay thế những ưu tiên ngu xuẩn của chính chúng ta. Đây là sự kiêu ngạo.
- Sự tiêu khiển
Ở đây, chúng ta chuyển từ sự lơ đễnh của tâm trí sang những hành vi phù phiếm phát sinh từ sự lơ đễnh ấy. Chúng ta quá coi trọng những trải nghiệm và thú vui chóng tàn, trong khi lại đánh mất những điều quan trọng phải làm. Những hành vi ngớ ngẩn, nhạt nhẽo, dại dột và thất thường cho thấy một sự kiêu hãnh mà trong đó người ta không giàu có trong tương quan đối với Thiên Chúa. Chúng ta coi trọng điều vụn vặt, và xem nhẹ điều quan trọng một cách kiêu hãnh. Chúng ta dành nhiều thời gian cho sự phù phiếm, nhưng không có thời gian để cầu nguyện hay nghiên cứu Thánh Kinh.
- Sự khoe khoang
Chúng ta ngày càng bị nhốt vào trong thế giới nhỏ bé của sự u mê và hành vi ngu xuẩn. Chúng ta bắt đầu khoái trá trong các hoạt động xác thịt, đê hèn, và coi chúng là một dấu hiệu của sự vĩ đại. Chúng ta bắt đầu khoe khoang về những điều ngu xuẩn. Khoe khoang là nói và nghĩ về bản thân vượt quá sự thật. Thánh Phaolô nói: “Nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu ? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh ? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh ?” (1Cr 4,7). Người khoe khoang nghĩ quá cao về bản thân mình, hoặc phủ nhận hoặc quên rằng những gì anh ta có là một ân sủng, một món quà. Đây là sự kiêu ngạo. Ngoài ra, như chúng ta đã thấy, sự kiêu hãnh của chúng ta thường hướng về những thứ ngu xuẩn và nhất thời.
- Sự lập dị
Thế giới của chúng ta ngày càng nhỏ lại, nhưng chúng ta lại cứ nghĩ chính mình ngày càng vĩ đại. Khi niềm kiêu hãnh của chúng ta lớn lên, chúng ta quá dễ dàng quên đi sự phụ thuộc vào Thiên Chúa và người khác. Tất cả chúng ta chỉ là những hữu thể bất tất, lệ thuộc vào Thiên Chúa và người khác. Hơn nữa, chúng ta lại quá dễ dàng thu hẹp phán đoán và thế giới nhỏ bé của mình, nghĩ rằng cái đó là như vậy chỉ vì chúng ta nghĩ nó là như vậy. Điều đó khiến chúng ta không để ý đến những bằng chứng thực tế, ngừng kiếm tìm thông tin và lời khuyên từ người khác. Những người mà lấy lời khuyên của chính mình để làm cố vấn, là kẻ ngu xuẩn và kiêu căng! Sự lập dị là kiêu ngạo. Tuy nhiên, sự kiêu ngạo này phình to trong chúng ta, khi thế giới của chúng ta mỗi lúc một trở nên bé nhỏ và cá biệt hơn, chỉ tập trung càng nhiều vào chính cái tôi của mình.
- Tính tự phụ
Khi thế giới chúng ta càng trở nên bé nhỏ, và niềm kiêu hãnh càng lớn, sự qui ngã và ảo tưởng của chúng ta ngày càng mạnh mẽ, và gia tăng tính tự tôn. Bây giờ, điều này là như vậy chỉ đơn giản là vì tôi nói vậy. Tôi đúng vì tôi nói như vậy. Không nhớ rằng trong con người chúng ta có ưu có khuyết, có thiện có ác. Chúng ta dễ trở nên mù lòa đến nỗi khó có thể sống với người khác. Chúng ta dễ thấy lỗi nơi người khác, nhưng lại không thấy lỗi trong chúng ta. Hơn nữa, chúng ta dễ so sánh bản thân mình với người khác, cho rằng “ít nhất tôi không giống gái mại dâm hay kẻ buôn ma túy”. Nhưng gái mại dâm hay kẻ buôn ma túy đâu phải là tiêu chuẩn để chúng ta so sánh. Chính Chúa Giêsu mới là tiêu chuẩn để so sánh. Nhưng thay vì chúng ta so sánh bản thân với Chúa Giêsu, và kiếm tìm lòng thương xót, chúng ta lại nhìn xuống, và so sánh chính mình với người khác, để từ đó mở đường cho sự kiêu ngạo.
- Tính tự mãn
Ở giai đoạn này, ngay cả những phán xét của Thiên Chúa cũng phải nhường bước cho sự phán xét của chúng ta. Tôi tốt lành và sẽ được cứu độ, bởi vì tôi nói như vậy. Đây là tội chống lại niềm hy vọng, trong đó chúng ta chỉ đơn giản nhận lấy ơn cứu độ như thể do chính công trạng của chúng ta. Kết cục, chúng ta tuyên bố sở hữu những gì không thuộc chúng ta. Thật chính đáng để chúng ta hy vọng chắc chắn vào sự trợ giúp của Thiên Chúa trong việc đạt tới sự sống vĩnh cữu. Nhưng thật là kiêu ngạo khi chúng ta nghĩ rằng, chúng ta đã hoàn thành và sở hữu những gì chúng ta chưa có trong thực tế. Hơn thế nữa, sự kiêu ngạo làm chúng ta để qua một bên Lời Thiên Chúa, Lời mà hết lần này đến lần khác dạy chúng ta bước đi trong niềm hy vọng và kiếm tìm sự trợ giúp của Thiên Chúa như những người ăn mày, thay vì như những kẻ sở hữu, hoặc như những người tất nhiên đã được thừa hưởng vinh quang Thiên Đàng. Sự tự mãn là kiêu ngạo.
- Tự công chính hóa
Bây giờ Chúa Giêsu phải rời ngai tòa phán xét bởi vì tôi đòi thế vị trí của Ngài. Không những thế, Ngài cũng phải bỏ Thánh giá, vì tôi thực sự không cần hy tế của Ngài. Tôi có thể tự cứu mình, và thật lòng mà nói, tôi không cần cứu độ. Tự công chính hóa là thái độ nói lên rằng, tôi có thể, bằng chính sức lực của mình, để tự công chính hóa bản thân mình, nghĩa là tự cứu độ mình. Rốt cuộc, điều đó cũng nói lên rằng, “tôi sẽ làm điều tôi muốn và tôi sẽ quyết định xem nó đúng hay sai”. Thánh Phaolô nói: “Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa” (1Cr 4,3-4). Nhưng người kiêu ngạo chỉ quan tâm đến quan điểm của mình, và từ chối giải thích, ngay cả với Chúa. Người kiêu ngạo quên đi vị thẩm phán trong vụ án của mình.
- Thú tội giả hình
Trong tiếng Hy Lạp, từ giả hình có nghĩa là “diễn viên”. Trong vài hoàn cảnh và mức độ nhất định, khiêm nhường và thừa nhận những lỗi lầm của mình thì “hữu ích”. Người ta có thể nhận được “sự tín nhiệm” cho việc thừa nhận những lỗi lầm nhất định cách khiêm tốn, và tự xưng mình là “kẻ tội lỗi”. Nhưng người kiêu ngạo chỉ là đang diễn mà thôi. Người ấy chỉ đơn thuần đóng một vai diễn, và thực hiện phần việc của mình, vì sự tín nhiệm của xã hội hơn là sự ái hối hay ăn năn dốc lòng chừa. Rốt cuộc, người ấy thực sự không đến nỗi tệ. Nhưng nếu điệu bộ và vai diễn của kẻ tội lỗi khiêm nhường và sám hối sẽ đưa người ấy đến một nơi nào đó, thì người ấy sẽ nói lời thoại của mình, đóng vai diễn và trông có vẽ thánh thiện. Nhưng chỉ vì những tràng pháo tay từ khán giả mà thôi.
- Cuộc nổi loạn
Sự kiêu ngạo thực sự bắt đầu vượt ra khỏi tầm kiểm soát khi một người nổi dậy chống lại Thiên Chúa và các vị đại diện hợp pháp của Ngài. Nổi loạn có nghĩa là từ bỏ lòng trung thành, ý thức trách nhiệm, hoặc sự vâng phục đối với Thiên Chúa, Lời của Ngài, hoặc Giáo Hội. Nổi loạn là cố gắng lật đổ uy quyền của người khác, trong trường hợp này là Thiên Chúa và Giáo Hội. Thật là kiêu ngạo khi từ chối tùng phục bất cứ thẩm quyền nào, và hành động theo những cách trái ngược với những gì thẩm quyền hợp pháp khẳng định.
- Tự do phạm tội
Ở đây, sự kiêu ngạo sắp đi đến chung kết, khi nó ngạo nghễ khẳng định và ăn mừng rằng, nó hoàn toàn tự do để làm những gì nó thích. Người kiêu ngạo ngày càng phủ nhận mọi ràng buộc hoặc giới hạn. Nhưng tự do của người ngạo nghễ không phải là tự do đích thực. Chúa Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội” (Ga 8,34). Giáo Lý vang vọng: “Ai càng làm điều tốt, người đó càng trở nên tự do. Không có tự do đích thực nếu không phục vụ điều thiện và chân lý. Chọn sự bất tuân và điều xấu, là lạm dụng tự do và sự lựa chọn này đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi (x. Rm 6,17)” (GLHTCG, số 1733). Nhưng người kiêu căng sẽ không có tự do đó, ngạo nghễ khẳng định quyền tự do để làm theo ý mình, nhưng lại càng lún sâu hơn vào nghiện ngập và nô lệ.
- Thói quen phạm tội
Ở đây, chúng ta thấy được bông hoa xấu xí và tràn đầy sự kiêu ngạo: thói quen phạm tội và nô lệ cho nó. Như thánh Augustinô nói: “Điều xảy ra cho ta là những ước muốn không trong sạch trong ta sẽ tạo thành những thèm khát xấu xa, và khi những thèm khát xấu xa được đáp ứng thì nó trở thành thói quen, và khi thói quen không được kiềm chế thì nó sẽ trở thành một thứ nhu cầu.” (Tự Thuật, 8.V.10).
Chúng ta đã tìm hiểu mười hai bước của ngọn núi kiêu ngạo. Nó khởi phát từ trong tâm trí với sự thiếu tỉnh táo, bắt nguồn từ tội tò mò và mối bận tâm phù phiếm. Tiếp đến là hành vi phù phiếm, những thái độ bào chữa, tự phụ, và loại trừ. Cuối cùng đưa đến cuộc nổi loạn và nô lệ hoàn toàn cho tội lỗi. Hậu quả là “nếu một người từ chối phụng sự Thiên Chúa vì lòng kiêu căng, người đó sẽ phụng sự Satan”.
Chúng ta đã thấy một sự tiến triển trong các bước trên không khác một lời khuyên giá trị cổ xưa: “Gieo suy nghĩ, gặt hành động; Gieo hành động, gặt thói quen; Gieo thói quen, gặt tính cách; Gieo tính cách, gặt số phận.”
Tác giả: Đức Ông Charles Pope,
Hướng Dương chuyển ý từ blog.adw.org