2020
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ
Gần đây, một nhóm người tự xưng là “Nhóm trừ quỷ Bảo Lộc” do một giáo dân đứng đầu đã tổ chức những cuộc trừ quỷ tại nhà riêng lôi kéo được rất nhiều người. Đây là nhóm tự phát và không đúng với giáo lý đức tin cũng như giáo luật của Giáo Hội nên Tòa giám mục Đà Lạt đã ra thông báo ngày 6.6.2020 khẳng định nhóm này “hoàn toàn bất hợp pháp theo giáo luật”. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta tìm hiểu về thực hành trừ quỷ hay trừ tà dưới nhãn quan và theo quy định của Giáo Hội.
Trừ quỷ trong Tân Ước
Trừ quỷ là hành động đuổi hay trục xuất ma quỷ hay thần dữ ra khỏi người, nơi chốn hay đồ vật được cho là bị quỷ ám hay bị quỷ quấy phá, hoặc có thể trở thành nạn nhân hay dụng cụ cho sự ma mảnh, ảo quyệt của quỷ.
Từ exorkizo (εξορκίζω: “thề, truyền lệnh, trừ quỷ”) được sử dụng trong bản dịch Bảy Mươi (Stk 24,3 = thề; I V 22,16 = thề), và trong Mt 26,63, “Ta bắt ngươi tuyên thệ nhân danh Thiên Chúa hằng sống …” Danh từ exorkistes (ἐξορκιστής)trong Cv 19,13, được áp dụng cho những người Do Thái đi đây đi đó tuyên thệ để trừ quỷ. Và như vậy, trừ quỷ bằng cách tuyên thệ là ý nghĩa đầu tiên của việc trừ quỷ. Lời tuyên thệ này nhân danh Thiên Chúa hay Đức Giêsu, và như vậy đó là một hành vi hay nghi thức tôn giáo.
Tin Mừng Marcô phác họa Đức Giêsu như là một người trừ quỷ rất nhiều lần. Thật vậy, chúng ta không biết có nhân vật nào vào thời cổ mà việc trừ quỷ lại quan trọng đến thế. Matthêô và Luca gợi ý rằng việc trừ quỷ có ý nghĩa để hiểu được Đức Giêsu (Mt 12,28-29 // Lc 11,20-21). Tuy nhiên, một trong những điều khó hiểu của Tin Mừng Gioan là không đề cập gì đến việc trừ quỷ, có lẽ vì chúng được cho là quá bình thường để bày tỏ vinh quang Ngài trước các … phép lạ là hiện tượng quyền năng hơn (Ga 2,11).
Quyền năng của Đức Giêsu trên ma quỷ là một trong những dấu hiệu Thiên Sai (Mt 12,23.28; Lc 11,20). Ngài trừ quỷ bằng ngón tay hay thần khí của Thiên Chúa chứ không phải là đồng bọn của ma quỷ như các đối thủ cáo buộc (Mt 12,24.27; Mc 3,22; Lc 11,15.19); Ngài không chỉ sử dụng quyền năng được ủy thác mà còn quyền năng cá nhân, trực tiếp và ra lệnh cho ma quỷ (Mc 9,24; cf. 1,25 etc.): “Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau” (Mt 8,16). Đôi khi Ngài trừ quỷ từ xa như trường hợp con gái của người phụ nữ Canaan (Mt 15,22 tt.; Mc 7,25). Đôi khi, thần dữ bị trục xuất được phép nói ra sự nhìn nhận nó về Đức Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) và phàn nàn rằng Ngài đến để gây khó dễ cho chúng “trước thời gian”, nghĩa là trước khi chúng bị xử phạt (Mt 8,29 tt; Lc 8,28 tt.). Trong Luca 13,32, Đức Giêsu phân biệt giữa trừ quỷ và chữa lành bệnh tật.
Khi còn tại thế, Đức Kitô cũng ban cho các Tông đồ và môn đệ quyền trừ quỷ nhân danh Ngài (Mt 10,1 và 8; Mc 6,7; Lc 9,1; 10,17), và cũng hứa với những người tin một quyền lực như thế (Mc 16,17). Nhưng hiệu quả của quyền năng được ủy thác này là có điều kiện, như chúng ta thấy chính các tông đồ cũng không phải lúc nào cũng thành công khi trừ quỷ: vài loại quỷ chỉ có thể trừ bằng cách cầu nguyện và ăn chay (Mt 17,15.20; Mc 9,27-28; Lc 9,40). Nói cách khác, sự thành công của thực hành trừ quỷ của các Kitô hữu, nhân danh Đức Kitô, phải chịu những điều kiện chung dựa trên hiệu quả của lời cầu nguyện và quyền năng đoàn sủng. Thánh Phaolô (Cv 16,18; 19,12), và hẳn nhiên các tông đồ và những môn đệ khác đều thường xuyên sử dụng quyền trừ quỷ. Và Giáo Hội vẫn tiếp tục sử dụng cho đến ngày nay.
Trừ quỷ trong Giáo Hội sơ thời
Dựa vào các tác giả sơ thời, ta biết rằng vào thế kỷ đầu tiên thì không chỉ hàng giáo sĩ mà cả giáo dân cũng có thể trừ quỷ nhờ quyền năng Thiên Chúa, và sự thành công của họ được các nhà hộ giáo cho rằng đó là lý chứng mạnh mẽ cho tính thần thiêng của Kitô giáo (Justin Martyr, First Apology 6; Dialogue with Trypho 30 và 85; Minutius Felix, Octavius 27; Origen, Against Celsus I.25; VII.4; VII.67; Tertullian, Apology 22, 23; etc.). Ở những thế kỷ đầu tiên này, không có phương tiện ma thuật hay mê tín nào được sử dụng, các chứng nhân nói rằng hình thức trừ quỷ chỉ là một lời tuyên thệ truyền cho ma quỷ nhân danh Thiên Chúa, và đặc biệt là Đức Kitô chịu đóng đinh.
Nhưng đôi khi vài hành động có tính biểu tượng được thêm vào lời, chẳng hạn như thổi hơi (insufflatio), hay đặt tay trên chủ thể hay làm dấu thánh giá. Thánh Justinô nói “quỷ bay đi khi các Kitô hữu chạm tay vào hay thổi hơi” (Second Apology 6), chừng như gặp phải ngọn lửa đốt như Thánh Cyrilô thành Giêrusalem nói thêm vào (Catechetical Lectures 20.3). Ôrigen nói đến việc đặt tay, và Thánh Ambrôsiô (Paulinus, Vit. Ambr., n. 28, 43, P.L, XIV, 36, 42), Thánh Êphraem Syrus (Gregory of Nyssa, De Vit. Ephr., P.G., XLVI, 848) và những người khác đã dùng nghi lễ này khi trừ quỷ. Dấu thánh giá, cách đơn giản và ngắn gọn nhất để tuyên xưng đức tin của một người vào Đấng chịu đóng đinh và cầu khẩn quyền năng của Ngài, đã được các giáo phụ tán dương về hiệu quả của nó chống lại các thứ quấy nhiễu của ma quỷ (Lactantius, Divine Institutes IV.27; Athanasius, On the Incarnation of the Word 47; Basil, In Isai., XI, 249, P.G., XXX, 557, Cyril of Jerusalem, Catechetical Lectures 13.3; Gregory Nazianzen, Carm. Adv. iram, v, 415 sq.; P.G., XXXVII, 842). Các giáo phụ còn khuyên rằng lời truyền và lời nguyện đi kèm nên được diễn dạt bằng những lời trong Kinh Thánh (Cyril of Jerusalem, Procatechesis 9; Athanasius, Ad Marcell., n. 33, P.G., XXVII, 45). Nghi thức trừ quỷ hiện nay của Nghi thức Rôma hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của các giáo phụ và là bằng chứng cho thấy có liên tục của Giáo Hội Công Giáo trong vấn đề này.
Hai hình thức trừ quỷ
Có hai loại trừ quỷ (hay hai hình thức). Hình thức đơn giản và hình thức trọng thể. Hình thức đơn giản được tìm thấy ở hai nơi: trước hết là nghi thức dành cho những ai chuẩn bị chịu phép rửa tội, Nghi thức Dẫn nhập Kitô giáo dành cho người lớn (RCIA) và Nghi thức rửa tội cho trẻ em, cả hai được gọi là hình thức trừ quỷ đơn giản; thứ đến là trong phần phụ lục (appendix) Trừ quỷ và những lời cầu liên quan (Exorcisms and Related Supplications) của sách nghi thức gồm có một số lời cầu nguyện mà giáo dân có thể sử dụng.
Loại thứ hai là nghi thức trọng thể chỉ có thể được giám mục hay linh mục được bản quyền địa phương cho phép rõ ràng thì mới có thể thi hành được. Hình thức này nhằm “nhằm trục xuất ác thần satan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giêsu đã ủy thác cho Hội Thánh”. Ta có thể đọc lại số 1673 của sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nói về nghi thức trừ quỷ: “Trong nghi thức Trừ Tà, nhân danh Chúa Kitô, Hội Thánh công khai và có thẩm quyền cầu xin để một người hay một sự vật được Thiên Chúa bảo vệ khỏi quyền lực của ác thần Satan và giải thoát khỏi ách thống trị của nó. Chúa Giêsu đã từng trục xuất thần dữ (x. Mc 1,25 tt); chính Người ban cho Hội Thánh quyền và nhiệm vụ trừ tà (x. Mc 3, 15;6,7.13;16,17). Nghi thức cử hành bí tích Thánh Tẩy có công thức Trừ Tà đơn giản. Nghi Thức Trừ Tà trọng thể phải do một linh mục cử hành với phép của giám mục. Linh mục trừ tà phải thận trọng và giữ nghiêm ngặt các qui định của Hội Thánh. Nghi thức Trừ Tà nhằm trục xuất ác thần Satan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giê-su đã ủy thác cho Hội Thánh. Mục đích này khác 619 hẳn với các việc chữa bệnh, nhất là các bệnh tâm thần: chữa bệnh là công việc của y khoa. Do đó, trước khi cử hành nghi thức Trừ Tà, phải điều tra cẩn thận để chắc chắn đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải một dạng bệnh lý (x. CIC 1172)”
Cuốn Nghi thức trừ tà hiện nay là bản duyệt lại của bản năm 1614. Đây là cuốn nghi thức bằng tiếng Latinh (De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam) gởi đến các Hội đồng giám mục quốc gia để dịch sang tiếng địa phương. Những bản dịch này phải chính xác và trung thành với bản gốc Latinh và được Thánh bộ phụng tự công nhận, theo giáo luật.
Trong khi từ “trừ tà” nói đến việc trục xuất ma quỷ, thì nó không chỉ áp dụng cho những người (hay những vật dụng, nơi chốn) bị quỷ ám rõ ràng. Hãy nhớ lại khi rửa tội cho trẻ em, linh mục hay phó tế đọc một lời nguyện trừ quỷ trên đứa bé và xức dầu trước khi rửa tội:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ngài đã sai Con một của Ngài đến thế gian để xua tan quyền lực Satan, thần dữ, và sau khi giải thoát con người khỏi chốn tối tăm, Ngài đưa con người vào ánh sáng huy hoàng của vương quốc Ngài: chúng con khiêm tốn cầu xin Ngài giải thoát (các) em này khỏi Tội Nguyên Tổ, xin làm cho (các) em trở nên một đền thờ để vinh danh Ngài, và xin sai Thánh Thần Chúa đến ngự trong (các) em. Nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.”
Lời nguyện này không có nghĩa là mọi đứa bé đều bị quỷ ám nhưng lời nguyện trừ quỷ này chỉ muốn nói rằng cho đến khi chịu phép rửa thì đứa bé vẫn ở trong tình trạng tội nguyên tổ. Và lời nguyện này được các giáo sĩ thi hành phép rửa tội đọc. Theo Giáo Luật, điều 861 §1, thì thừa tác viên thông thường của bí tích rửa tội là giám mục, linh mục hay phó tế: “Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám Mục, Linh Mục và phó tế, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 530,1o (LG 26 ; LG 29 ; PO 5)”. Ta có thể thấy đây là vết tích của một thực hành cổ xưa mà trong đó người trừ quỷ có thể đuổi quỷ ra khỏi người chưa chịu phép rửa tội.
Trừ quỷ trong bí tích Rửa tội
Sơ thời, thực hành trừ quỷ cho các tân tòng được đưa vào Giáo hội như là sự chuẩn bị cho bí tích Rửa tội. Điều này không có nghĩa là họ bị xem như có quỷ ám nhưng là hệ quả của tội nguyên tổ (và tội của chính mình khi họ là người trưởng thành), ít nhiều họ chịu ảnh hưởng của quyền năng thần dữ, và vì thế ân sủng của bí tích Rửa tội sắp giải thoát họ khỏi sự thống trị này.
Thực hành trừ quỷ này là mào đầu có tính biểu tượng cho một trong những hiệu quả của bí tích tái sinh; và vì nó được dùng trong trường hợp trẻ em không có tội mình làm, nên Thánh Augustinô nói nó hàm ý về tội nguyên tổ, chống lại lạc thuyết Pêlagiô (Ep. cxciv, n. 46. P.L., XXXIII, 890; C. Jul. III, 8; P.L., XXXIV, 705,). Thánh Cyrilô thành Giêrusalem (Procatechesis 14) mô tả chi tiết thực hành trừ quỷ trong bí tích rửa tội, trong đó việc xức dầu trừ quỷ là một phần của thực hành trừ quỷ ở phương Đông. Chứng từ sơ thời duy nhất của phương Tây đề cập đến việc xức dầu như là một phần của nghi thức trừ quỷ trong bí tích rửa tội là cuốn Arabic Canons của Hippolytus (n. 19, 29). Exsufflatio, thở ra, ứng viên thở ma quỷ ra, đôi khi là một phần của nghi thức, trong khi Insufflatio, hoặc hít vào Thần khí, do thừa tác viên hay những phụ tá, tượng trưng cho sự tràn đầy ân sủng thánh hóa của bí tích. Những nghi thức cổ xưa này được Giáo Hội giữ lại cho đến ngày nay trong nghi thức rửa tội trọng thể.
Người trừ quỷ theo Giáo luật
Sơ thời, các tác giả như Thánh Gioan Kim Khẩu và Tertullianô nói rằng bất kỳ ai vì mình đã chịu phép rửa tội thì cũng có thể trừ quỷ. Nhưng đây không phải một nghi thức mà chỉ là một sự nhân danh, nhân danh Đức Giêsu. Vài thế kỷ đầu tiên đã có tình trạng như vậy. Cho đến Công đồng Carthage IV [398], lần đầu tiên ta thấy có chức trừ quỷ. Đây vẫn là một trong các chức nhỏ trong nhiều thế kỷ mãi cho đến năm 1972 thì Đức Phaolô VI xét duyệt lại và thu gọn các chức nhỏ.
Ngày nay, người Công giáo đã quen thuộc với ý nghĩ rằng các đại chủng sinh, hay các thầy, là những người đang học để trở thành linh mục, và sẽ chịu chức phó tế trước khi thụ phong linh mục. Tuy nhiên, trước đây không lâu lắm, tất cả các đại chủng sinh đều được chịu chức “trừ quỷ” (exorcist). Chỉ vài thập niên cách đây, Giáo hội phong 4 chức nhỏ (minor orders) cho tất cả các đại chủng sinh: giữ cửa, trừ quỷ, đọc sách và giúp lễ. Nguyên thủy, tên gọi của 4 chức nhỏ này nói lên vai trò của sứ vụ được đảm nhiệm trong hoạt động phụng vụ. Chẳng hạn như thầy giúp lễ là những người đốt nến và cầm nến trong các đám rước. Có vẻ như vào một thời điểm nào đó trong lịch sử sơ thời của Giáo Hội thì những người trừ quỷ không phải là linh mục, song được ban cho vai trò trừ quỷ để có thẩm quyền trừ quỷ khỏi những dự tòng (catechumen), những thành viên của cộng đoàn Giáo Hội chưa được rửa tội.
Vào năm 1972, Đức thánh cha Phaolô VI đã đơn giản hóa tiến trình chịu chức linh mục và loại bỏ các chức nhỏ. Trong tự sắc Ministeria quaedam, Đức thánh cha đã công bố rằng từ nay từ “các chức nhỏ” sẽ được thay thế bằng “các sứ vụ” (ministries). Và 4 chức nhỏ trước đây giờ chỉ còn 2 được xem như là những “sứ vụ”: đọc sách và giúp lễ.
Thế nhưng một thể loại trừ quỷ khác liên quan đến người, nơi chốn và vật thực sự bị quỷ ám, thì đây là một vấn đề khác, một chủ đề cho những điều khoản Giáo Luật khác. Theo Giáo Luật thì người trừ quỷ phải là một linh mục, nhưng điều 1172 §2 nói: “Đấng Bản Quyền địa phương chỉ ban phép trừ tà cho một Linh Mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn (CIS 1151).” Vì thế, không phải mọi linh mục bất kỳ, chỉ vì đã lãnh nhận chức linh mục, mà đương nhiên được phép trừ quỷ. Điều 1172 §1: “Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ ám, trừ khi có phép đặc biệt và minh nhiên của Đấng Bản Quyền địa phương”. Một linh mục có thể được giám mục chỉ định làm người trừ quỷ trên cơ bản ổn định hay cho một dịp đặc biệt (ad actum). Dù sao thì người trừ quỷ cũng phải theo hướng dẫn chặt chẽ của giám mục.
Trừ quỷ trọng thể (solemn exorcism) là một hành vi công khai của Giáo Hội. Vì thế, nó không được thi hành bởi một cá nhân linh mục mà không có phép của giám mục giáo phận (c. 1172.1). Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo (1673) cũng hoàn toàn ăn khớp với Giáo luật về điều này. Và theo ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, những dấu hiệu bị quỷ ám gồm: nói những lời bằng những thứ tiếng lạ hoặc hiểu được chúng (trong điều kiện của người bị ám là người không rành các ngôn ngữ đó, như tiếng Aram chẳng hạn); nói ra những điều giấu kín hay ở cách xa đó; có sức mạnh khác thường so với điều kiện của một người kết hợp với sự xúc phạm nặng nề Thiên Chúa, Đức Maria, các thánh, thánh giá và những ảnh tượng thánh.
Trước hết, hành vi trừ tà trọng thể phải được thi hành với thẩm quyền, nghĩa là với sự chuẩn nhận của giáo quyền địa phương, cụ thể là giám mục giáo phận. Thứ đến, trước khi bắt đầu trừ tà, thật quan trọng khi phải xác quyết rằng đây là trường hợp quỷ ám đặc biệt mà Giáo Hội đang đối mặt. Có nhiều người đang điều trị y khoa nào đó, gồm cả bệnh tâm thần, có thể có những triệu chứng bên ngoài giống như bị quỷ ám. Trong cuộc họp báo ngày 26 tháng Giêng 1999, ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, đã nhấn mạnh rằng có rất ít người thực sự bị quỷ ám, chỉ có 1 trên 5.000 trường hợp được tường trình là bị quỷ ám thật sự. Vì thế, người trừ quỷ phải phân biệt giữa người bị quỷ ám thật sự và những người bị tâm bệnh. Vì thế, công việc xác minh rất quan trọng để tránh trường hợp bệnh nhân cần được điều trị bởi những nhà chuyên môn y khoa thì lại được người trừ quỷ xử lý! Chính vì công việc xác minh quan trọng như thế nên Giáo luật, điều 1172 §2 mới nói rằng đấng bản quyền chỉ ban phép trừ tà cho “một linh mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn”.
Giáo dân có được trừ quỷ?
Sách Công vụ 19,13-20 kể lại câu chuyện: “Ông Xikêua nọ, thượng tế Do Thái, có bảy con trai thường làm như vậy. Nhưng tà thần đáp: “Đức Giêsu, tao biết; ông Phaolô, tao cũng tường; còn bay, bay là ai? ” Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. Mọi người ở Êphêsô, Do Thái cũng như Hy Lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giêsu”. Trong trường hợp này, những người trừ quỷ là những người không có chuyên môn.
Giáo dân có được phép trừ quỷ không? Chúng ta có câu trả lời từ ĐHY Ratzinger, Bộ trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin. Nhân có một số nhóm cầu nguyện nhằm mục đích thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ, họ tổ chức những cuộc hội họp do giáo dân hướng dẫn, ngay cả khi có linh mục hiện diện. Trong thư gởi các đấng bản quyền về các nguyên tắc trừ tà, ngày 29 tháng Chín 1985, ĐHY Ratzinger đã nhắc lại các điều khoản Giáo Luật trên về trừ tà và nói tiếp: “Từ những quy định này, giáo dân không được phép sử dụng công thức trừ tà chống lại Satan và các thiên thần sa ngã, trích đoạn từ công thức của ĐTC Lêô XIII, hay dùng toàn bản văn của nghi thức trừ tà này. Các giám mục nên cảnh báo giáo dân về điều đó, nếu cần thiết. Cuối cùng, cũng vì các lý do đó, đòi hỏi các giám mục phải cảnh giác – dù trong trường hợp không liên quan đến việc thực sự bị quỷ ám –những ai không được ban năng quyền thì không thể hướng dẫn các cuộc hội họp có đọc lời cầu mà trong đó ma quỷ bị chất vấn trực tiếp và căn tính của chúng được tìm biết”[1]
Nghi thức trừ quỷ trọng thể (Major Exorcism) chỉ được thi hành bởi một linh mục có thẩm quyền hay giám mục (sacerdos). Giáo dân có thể hiện diện trong nghi thức, hỗ trợ công việc cho linh mục trừ quỷ bằng lời kinh của họ được đọc các riêng tư hay được chỉ dẫn trong nghi thức. Tuy nhiên, bản văn De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam lưu ý rằng giáo dân không được đọc bất kỳ lời nguyện nào dành cho linh mục (bản dịch Anh ngữ Exorcisms and Related Supplications, số 35), không chỉ vì các lời nguyện chỉ dành cho những người được phong chức để hành động nhân danh Đức Kitô là Đầu (in persona Christi capitis), nhưng để bảo vệ giáo dân khỏi nhưng tổn hại tinh thần có thể. Khi người bị ám là nữ giới thì ít nhất nên có một người nữ khác hiện diện vì sự đứng đắn và thận trọng. Người trừ quỷ không bao giờ ở một mình với người bị ám, dù là khi tư vấn hay là trong khi cử hành nghi thức.
Trừ quỷ là lời cầu nguyện rơi vào thể loại á bí tích, nghĩa là một trong số các dấu hiệu thánh do Giáo hội thiết lập để “thánh hóa một số hoàn cảnh trong cuộc sống ” (Toát yếu Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 351), vì thế khác với bảy bí tích của Giáo Hội do chính Đức Kitô thiết lập. Bí tích Thống hối tha thứ tội lỗi và giao hòa chúng ta với Giáo Hội, bí tích Rửa tội ban ân sủng để chiến đấu với ma quỷ và với lên trong nhân đức. Như là một á bí tích, trừ quỷ chuẩn bị cho một người đón nhận ân sủng. Vì trừ quỷ là á bí tích, như là một lời cầu chúc, nên những người được lãnh nhận phép “trừ quỷ trọng thể” là những người được quy định bởi Giáo luật, điều 1170: “Các phép lành phải được ban trước hết cho những người Công giáo, nhưng cũng có thể được ban cho các dự tòng, và cho cả những người không Công giáo nữa, trừ khi Giáo Hội ngăn cản điều đó”. Vì thế, những người sau đây được lãnh nhận phép đặc biệt này nếu được cho là cần thiết: 1) Những người Công giáo; 2) Các dự tòng; 3) Những Kitô hữu không Công giáo xin lãnh nhận; và 4) Các tín hữu không Kitô giáo có ý ngay lành muốn thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ. Những trường hợp liên quan đến người không Công giáo, nên báo cho giám mục biết (cf. ERS, số 18).
Cuốn nghi thức trừ tà De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam có 2 chương và hai phụ lục. Phụ lục thứ 2 là Những kinh nguyện có thể được giáo dân sử dụng cách riêng tư trong cuộc chiến chống lại quyền lực của bóng tối (Prayers which may be used privately by the faithful in the struggle against the powers of darkness). Đây là những lời kinh giúp giáo dân chiến đấu chống lại cám dỗ của tội lỗi hay những cuộc tấn công thiêng liêng, có thể đọc riêng tư.
Kết luận
Ma quỷ là có thật và chúng đang hoạt động dưới mọi phiên bản của sự dữ trên thế giới và ngay trong con người chúng ta. Trong bài giảng ngày 12.10.2018 tại nguyện đường Santa Marta, chú giải đoạn Tin mừng Luca 11,15-26, Đức Phanxicô đã nói: “Khi ma quỷ chiếm hữu tâm hồn của một người, nó lấy đó làm nhà và không muốn rời xa, cố gắng làm hư hỏng con người ấy thậm chí tàn phá về thể lý. Cuộc chiến đấu giữa thiện và ác trong con người chúng ta là cuộc chiến đấu thật sự giữa Thiên Chúa và con rắn xưa, giữa Đức Giêsu và ma quỷ. Mục đích và ơn gọi của ma quỷ là “phá hủy công trình của Thiên Chúa”. Khi ma quỷ không thể phá hủy “diện đối diện” vì có Thiên Chúa là sức mạnh lớn hơn bảo vệ con người, thì nó vốn xảo quyệt và “khôn hơn cáo” luôn tìm cách tái chiếm hữu con người ấy”. Chính vì thế, ĐHY Medina Estevez đã khẳng định tính chính đáng và cần thiết của công việc trừ quỷ hay trừ tà trong Giáo Hội: “Trừ tà dựa trên niềm tin của Giáo hội cho rằng Satan và những thần dữ khác hiện hữu và hoạt động của chúng nhắm đánh lạc hướng con người khỏi con đường cứu rỗi. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng ma quỷ là những thiên thần sa ngã vì tội lỗi, rằng chúng là những hữu thể thiêng liêng có trí khôn ngoan và sức mạnh, nhưng tôi nhấn mạnh rằng ảnh hưởng xấu của ma quỷ và những người theo chúng thường được thực hiện qua việc lừa đảo và gây nhầm lẫn. Như Đức Giêsu là Sự thật (cf. Ga 8,44) thì ma quỷ là kẻ dối trá thượng thừa. Nó lừa phỉnh con người khi làm cho con người tin rằng hạnh phúc nằm ở tiền bạc, quyền lực và ham muốn xác thịt. Nó dụ dỗ con người nghĩ rằng mình không cần Thiên Chúa, rằng ân sủng và ơn cứu rỗi là điều không cần thiết. Nó còn lừa phỉnh con người khi giảm nhẹ ý thức về tội lỗi hay thậm chí loại bỏ nó bằng cách thay thế lề luật của Thiên Chúa như là tiêu chuẩn luân lý với các thói quen hay quy ước của đa số”.
Trong khi nhiệm vụ trừ quỷ là đặc quyền của Giáo Hội được trao phó cho những giám mục và những linh mục được ủy nhiệm rõ ràng theo giáo luật, mọi người đều có nhiệm vụ tự giải thoát mình khỏi tội lỗi là những “kênh” mà ma quỷ có thể thâm nhập và tàn phá tâm hồn, nhất là tội kiêu ngạo. Cha Juan José Gallego, Dòng Đaminh, linh mục trừ quỷ của Tổng giáo phận Barcelona đã nói với nhật báo El Mundo rằng theo kinh nghiệm của mình thì “kiêu ngạo” là tội mà ma quỷ thích nhất, thường thì do hoang tưởng bệnh hoạn về tài năng của mình mà ra. Điều này cũng không gì khó hiểu vì đây là tội mang “thương hiệu” của ma quỷ: chính kiêu ngạo đã biến thiên thần thành ma quỷ nên nó cũng hãnh diện thừa ở vị trí thứ nhất trong “bảy mối tội đầu”: Thứ nhứt khiêm nhường chớ kiêu ngạo. Vì thế, hãy tự bảo vệ mình trước sự lừa phỉnh gây hoang tưởng của ma quỷ trước khi cậy nhờ đến người trừ quỷ chuyên môn!
(Tài liệu tổng hợp)
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
2020
Nguồn Gốc Kitô Giáo: Sứ Vụ Của Đức Giêsu
Nguồn Gốc Kitô Giáo: Sứ Vụ Của Đức Giêsu
PHẦN I: NGUỒN GỐC KITÔ GIÁO
CHƯƠNG I: KHUNG CẢNH TÔN GIÁO VÀ XÃ HỘI THỜI ĐỨC GIÊSU
CHƯƠNG II: NGUỒN SỬ LIỆU VỀ CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU
CHƯƠNG III: SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU
Sau khi đã tìm hiểu bối cảnh xã hội và tôn giáo của Palestin, cũng như các nguồn sử liệu về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, chúng ta đi vào vấn đề then chốt đó là: “Sứ vụ của Đức Giêsu”. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa trọng tâm sứ mạng của Người, tóm lại trong từ ngữ: “Nước Thiên Chúa”. Sau đó, chúng ta sẽ lần lượt phân tích hình ảnh của Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng qua các dụ ngôn (MỤC 1). Hơn thế nữa, Người còn muốn bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc tiếp xúc với các thành phần đã bị xã hội gạt ra bên lề (MỤC 2). Một khi đã cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa dành cho con người, Đức Giêsu cũng duyệt lại mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, với những hệ luận ảnh hưởng tới tương quan giữa con người với nhau. Giáo huấn của Đức Giêsu về Nước Trời đã gây ra những phản ứng trái nghịch với Luật lệ thời đó (MỤC 3). Không lạ gì, đừng kể một số ít môn đệ chấp nhận những yêu sách của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã gặp phải sự đối kháng mạnh mẽ (MỤC 4), và cuối cùng đưa tới cái chết của Người ở Giêrusalem (MỤC 5).
SỨ ĐIỆP CĂN BẢN: NƯỚC THIÊN CHÚA
KHÁI NIỆM VỀ NƯỚC THIÊN CHÚA
Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thấy từ ngữ “Nước Thiên Chúa” xuất hiện nhiều lần. Công thức ấy được Tin Mừng Nhất Lãm đặt trên môi miệng Đức Giêsu 61 lần (nếu tính cả các đoạn song song thì lên tới 85 lần): 13 lần trong Marco, 9 lần trong các đoạn song song Matthew – Luca; 27 lần riêng trong Matthew và 12 lần riêng trong Luca.[1] Nên biết là Matthew sử dụng công thức “Nước Trời” (basileia tou ouranon) thay vì “Nước Thiên Chúa”,[2] bởi vì người Do Thái kiêng đọc danh thánh “YHWH”. Có lẽ công thức “Nước Trời” hợp với ngôn ngữ của Đức Giêsu hơn, bởi vì Người đã giảng cho người Do Thái bằng ngôn ngữ và văn hóa của họ. Dù sao thì “Trời” ám chỉ “Thiên Chúa”; Nước Trời hay Nước Thiên Chúa cùng có nghĩa như nhau.
Tuy nhiên, phải dịch thế nào cho chính xác với nguyên bản (basileia tou Theou)? Đã có ít là 3 lối dịch:
– 1) Nước (vương quốc) của Thiên Chúa;
– 2) Triều đại của Thiên Chúa;
– 3) Vương quyền (chủ quyền) của Thiên Chúa.
Dĩ nhiên mỗi lối dịch đều hàm ngụ một lối giải thích nào đó về bản chất của nó:
– Khi dịch là chủ quyền của Thiên Chúa, người ta muốn nhấn mạnh tới việc Người cai trị trên khắp địa cầu (nghĩa chủ động: Thiên Chúa thiết lập quyền hành trên khắp địa cầu, trên mọi dân tộc hay là tại Israel). Đây là ý nghĩa thường được biểu lộ trong Cựu ước qua công thức “Thiên Chúa hiển trị, ngự trị”, (chẳng hạn ở các Thánh Vịnh 47,3; 93; 96-99), khi muốn nói tới việc Thiên Chúa xuất hiện, can thiệp vào lịch sử để cứu thoát dân Israel.
– Khi dịch là triều đại của Thiên Chúa thì người ta muốn nêu bật thời kỳ mà Thiên Chúa ra tay can thiệp.
– Khi dịch là nước (vương quốc) của Thiên Chúa thì người ta để ý tới ảnh hưởng của sự can thiệp của Thiên Chúa, đó là một lãnh thổ, (khu vực không gian) đặt dưới sự cai trị của Thiên Chúa (= nghĩa thụ động). Khu vực đó có thể mang ý nghĩa thiêng liêng, tức là các cá nhân hay cộng đoàn tín hữu đón nhận Thiên Chúa.
Trên thực tế, vào thời của Đức Giêsu, có ít là ba quan niệm về bản chất của vương quốc hay vương quyền của Thiên Chúa:
– 1) Có người quan niệm nó như một thực tại tậpg liêng: Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn con người, xua đuổi tội lỗi.
– 2) Có người thì hiểu về một thực tại chính trị xã hội (nhóm Zealot): Thiên Chúa tái lập chủ quyền của dân Do Thái, giải thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang.
– 3) Có người thì hiểu theo nghĩa thế mạt (văn chương khải huyền): Thiên Chúa thiết lập triều đại cánh chung, lật đổ hết mọi thứ quyền lực gian ác trên mặt đất.
Vậy, Đức Giêsu hiểu theo nghĩa nào?
ĐỨC GIÊSU VỚI NƯỚC THIÊN CHÚA
Chắc chắn là trong số những người đương thời với Đức Giêsu, nghe nói tới việc thiết lập nước Thiên Chúa là họ liền gán ngay một ý nghĩa chính trị: đã tới lúc khôi phục lại chủ quyền của Thiên Chúa, nghĩa là xã hội thần quyền như thời vua David, đánh đuổi quân xâm lăng Roma ra khỏi biên cương. Kể cả sau khi Đức Kitô đã phục sinh từ cõi chết, một số các môn đồ vẫn còn nuôi dưỡng tâm trạng đó, theo như sách Tông Đồ Công Vụ (1,6) còn ghi lại: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”.
Riêng Đức Giêsu, Người không cung cấp một định nghĩa chính xác về bản chất của Nước Thiên Chúa, mà chỉ mô tả qua các dụ ngôn. Một chi tiết làm cho các học giả tranh luận là sự gắn liền giữa Nước Thiên Chúa với bản thân của Đức Giêsu: Nước Thiên Chúa đã đến rồi hay chưa? Chúng ta thấy có điểm mâu thuẫn: có lúc thì Người nói rằng nó đến rồi; có lúc thì nói rằng nó sẽ đến.
Nước Thiên Chúa đã đến gần
Đây là lời công bố được các thánh sử ghi lại vào lúc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ. Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilee rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
– Người nói: “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14-15).
– Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17).
– “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43).
Không những Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đã gần theo nghĩa là một thực tại sẽ đến (sắp đến), nhưng Người còn muốn cho thấy rằng, nó đã thành hiện thực rồi. Trong một cuộc tranh luận với các nhà lãnh đạo Do Thái chung quanh việc trừ quỷ, Matthew và Luca ghi lại lời Người tuyên bố như sau:
– “Nếu tôi dựa vào thần khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28).
– “Nếu tôi dùng ngón tay của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,20).
Nước Thiên Chúa được diễn tả như là một quyền năng ập tới, đánh đuổi quyền lực của ma quỷ. Sự can thiệp ấy đã xảy tới trong hành động trừ tà của Đức Giêsu, nghĩa là nó đã tới rồi.
Nước Thiên Chúa sẽ đến
Trong Tin Mừng, chúng ta gặp thấy một loạt những lời tuyên bố khác cho thấy nước Thiên Chúa là một thực thể nằm trong tương lai, thuộc về một thế giới mới. Vào lúc khai mạc sứ vụ, Đức Giêsu loan báo là Nước Thiên Chúa sắp đến, đã gần, đang đến, đã đến. Nó đã được biểu lộ qua các hành động cứu độ dành cho người nghèo, người bệnh, nói chung là các nạn nhân của sự dữ. Vào lúc cuối đời (nghĩa là khi sứ vụ đến hồi kết thúc), Đức Giêsu lại tuyên bố trong bữa Tiệc ly là Người sẽ vào nước Chúa, Người sẽ gặp lại các môn đệ trong nước Chúa. Tất cả ba thánh sử của Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại lời đó.
– Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa (Mc 14,25).
– Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho cho đến ngày ấy, ngày Thầy được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy (Mt 26,29).
– Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều đại Thiên Chúa đến (Lc 22,18).
Như vậy phải chăng đã có sự mâu thuẫn trong quan điểm của Đức Giêsu về Nước Trời? Vào đầu thế kỷ XX, đã có những khuynh hướng tìm cách giải quyết sự mâu thuẫn đó qua nhiều giải pháp khác nhau.
– 1) Giải pháp thứ nhất cho rằng, Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa sẽ đến trong tương lai. Sứ mạng của Người cũng giống như ông Gioan Tẩy Giả, nghĩa là kêu gọi người ta cải thiện để đón nhận cuộc xuất hiện của Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã lầm: triều đại của Thiên Chúa vẫn chưa đến (đây là ý kiến của Albert Schweitzer, M. Werner).
– 2) Giải pháp thứ hai cho rằng, Nước Thiên Chúa đã đến rồi. Người đương thời đã ngộ nhận về bản chất của nước Thiên Chúa, ngỡ rằng Thiên Chúa sẽ xuất hiện cách oai phong lẫm liệt. Thực ra thì Thiên Chúa thiết lập vương quyền của Người trong tâm hồn con người, qua việc ban ơn tha thứ tội lỗi. Ai tin nhận Thiên Chúa thì sẽ được sống đời đời. Chính vì muốn tránh nghĩa hàm hồ của từ ngữ “Nước Thiên Chúa” mà thánh Gioan và thánh Phaolô ít khi sử dụng trong các tác phẩm của mình (đây là ý kiến của C.H. Dodd, Rudolph Bultmann).
– 3) Giải pháp thứ ba chủ trương rằng, Nước Thiên Chúa là một thực tại căng thẳng: một đàng nó đã được Đức Giêsu khai mào bằng lời giảng và việc làm của Người; nhưng đàng khác, nó sẽ được hoàn tất vào thời cánh chung ở trên trời. Đây là ý kiến của Oscar Cullman và của thần học Công Giáo. Cần phải biết dung hòa cả hai chiều kích hiện tại và vị lai của Nước Thiên Chúa trong sứ điệp của Đức Giêsu:
+ Một đàng, Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này được thể hiện qua các hành động cho thấy Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng của tình thương, đánh phá quyền lực của sự dữ, (chẳng hạn như các công cuộc chữa bệnh, trừ tà). Ý nghĩa của các hành động ấy được chính Người giải thích cho các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả: “Các anh hãy về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,4-5 // Lc 7,18.28).
+ Đàng khác, Nước Thiên Chúa sẽ đến trong uy nghi, với cuộc phán xét chung (Mt 16,27). Nó sẽ chấm dứt lịch sử; nó mang tính cách vĩnh viễn, thuộc về thiên giới. Nó được đồng hóa với sự sống đời đời (Mc 10,17.21). Đức Giêsu dạy các môn đệ hãy cầu nguyện cho Nước Chúa đến: “Xin cho triều đại Cha hãy đến” (Mt 6,10; Lc 11,2), và đồng thời Người cũng hứa cho các môn đệ trung thành là họ sẽ được “vào Nước Chúa” (Mt 7,21-23), cùng với Người (Mt 25,34).
Sứ mạng của Đức Giêsu diễn ra ở giữa hai thời điểm ấy: khai mào và kết thúc. Nước Thiên Chúa khai mạc với sứ vụ của Đức Giêsu. Nó được ví như hạt giống được gieo, và sẽ đâm chồi nảy lộc, tăng trưởng dần dần cho tới lúc toàn vẹn (Lc 13,18-21; Mt 13,31-33; Mc 4,30-32). Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đã đến như là cuộc can thiệp của Thiên Chúa lân tuất nghiêng mình xuống trên các nỗi khổ đau của con người. Đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi con người hãy thống hối để đón nhận tình thương đó, để đáng vào Nước Trời (Mc 10,24-25). Dù sao, trái với những quan niệm về một sự can thiệp của Thiên Chúa cách oai phong lẫm liệt, Đức Giêsu tuyên bố rằng Nước Thiên Chúa được dành cho những người nghèo (Mt 5,3), những em bé (Mc 10,14; Mt 18,3). Matthew và Luca đã liệt kê ra những hạng người có phúc vì nước Thiên Chúa đã được ban cho họ: người nghèo, người khóc lóc, người hiền lành, người đói khát công chính, người từ bi, người thanh tịnh, người hiếu hòa, người chịu bách hại vì công lý. Xem ra đây chỉ là một bài giảng có tính cách luân lý đạo đức, khuyến khích con người hãy gắng ăn ngay ở lành để đáng phần thưởng của Nước Chúa. Kỳ thực, không phải như vậy: Đức Giêsu muốn dành Nước Trời cho các người tội lỗi nữa; họ là những kẻ được chiếu cố đặc biệt. Đây là một điểm cách mạng của Đức Giêsu.
III. THIÊN CHÚA CỦA ĐỨC GIÊSU
Hạn từ “Nước Thiên Chúa” hàm ngụ một quan điểm nào đó về chính Thiên Chúa. Chúng ta đã có dịp nhắc tới quan niệm của thánh Gioan Tẩy Giả; hình như Đức Giêsu không đồng ý với quan điểm ấy. Thực ra chúng ta không nên thổi phồng sự khác biệt giữa sứ điệp của ông Gioan và của Đức Giêsu, cũng như chúng ta đừng nên đối chọi giữa Thiên Chúa của công lý trong Cựu ước với Thiên Chúa của tình thương trong Tân ước! Đôi khi sự đối chọi ấy chỉ là do đầu óc của chúng ta tưởng tượng ra, và chẳng phù hợp với thực tại lịch sử. Cựu ước đã có nhiều hình ảnh về Thiên Chúa nhân hậu, chẳng hạn như lời cầu nguyện sau đây trong Thánh Vịnh 102,8: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi”. Tư tưởng ấy đã đọc thấy trong lời nguyện của ông Moses được ghi lại ở sách Xuất Hành 34,5-6. Mặt khác, khi Cựu ước nói tới “Thiên Chúa công bằng” hay “Thiên Chúa xét xử”, thì họ không muốn trình bày một ông thẩm phán lạnh lùng nghiêm khắc cho bằng một vị Cứu tinh: Thiên Chúa xét xử công bằng, bênh vực những kẻ oan ức, bị hà hiếp bất công. Dân Israel không ngừng kêu cầu Thiên Chúa đến xét xử bởi vì họ tin rằng Người thương họ, bênh đỡ họ. Dĩ nhiên, thường thì lớp dân nghèo, lớp người bị áp bức mong đợi Thiên Chúa đến giải oan cho họ. Nhưng toàn thể dân tộc Israel cũng kêu cầu Thiên Chúa xuất hiện xét xử bởi vì họ muốn Người giữ lời hứa sẽ ra tay bênh vực giải thoát họ khỏi sự áp bức của ngoại bang. Chắc chắn rằng Đức Giêsu cũng chia sẻ vào niềm tin tưởng hy vọng ấy, bởi vì Người đã nhiều lần đọc Sách Thánh trong hội đường hoặc cầu nguyện các Thánh Vịnh. Tuy nhiên, dựa trên niềm tin truyền thống ấy, Đức Giêsu còn tỏ bày những nét khác nữa của Thiên Chúa, đặc biệt Thiên Chúa là Cha.
Nói đúng ra, xét về từ ngữ thì đây không phải là một điều hoàn toàn mới lạ. Cựu ước đã hơn một lần nói tới Thiên Chúa là cha: Thiên Chúa là cha của dân Israel (Xh 4,22), bởi vì đã ra tay săn sóc nó, đặc biệt là qua việc giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập (Hs 11,1; Is 1,2; Gr 31,9). Ngoài ra, sách Khôn ngoan còn nói tới Thiên Chúa như là cha của người công chính (Kn 2,13.16; 14,6). Tuy nhiên, những đoạn văn đó không nhiều lắm; nhất là người Do Thái không dám gọi Thiên Chúa là cha trong lời cầu nguyện. Thảng hoặc có lần nào họ buột miệng kêu “Cha”, thì lập tức họ phải lắp thêm tiếng “Chúa” cho khỏi bất kính (thí dụ: Kn 14,3; Hc 23,1.4; 51,10).
Còn Tân ước thì khác hẳn: những lần nói đến Thiên Chúa là Cha thì nhiều hơn gấp bội, nhưng nhất là Đức Giêsu đã muốn nêu bật những nét đặc sắc của tình phụ tử, trong đó có cả việc khẩn cầu Thiên Chúa như là Cha.
Xét về số lượng, tước hiệu “Cha” áp dụng cho Thiên Chúa được sử dụng 5 lần trong Marco, 17 lần trong Luca, 45 lần trong Matthew và 118 lần trong Gioan. Nếu biết rằng xét theo thứ tự biên soạn, tác phẩm của Marco ra đời trước tiên và tác phẩm của Gioan xuất bản sau cùng, thì việc tăng gia con số từ 5 lần ở Marco lên tới 118 lần ở Gioan cho thấy rằng lúc đầu các Kitô hữu còn dè dặt về từ ngữ này, nhưng càng ngày họ càng trở nên dạn dĩ hơn. Các thư của thánh Phaolô cũng không xa lạ gì với danh xưng đó. Có lẽ thánh Phaolô nhìn nhận sáng kiến của Đức Giêsu khi viết rằng: “Thiên Chúa là Cha (Thân phụ) của Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta” (Rm 15,6; 2Cr 1,3; 11,31). Nói thế chưa đủ, thánh Phaolô còn ghi lại cả âm thanh nguyên bản aram Abba (Rm 8,15; Gl 4,6). Đây là một lối nói rất thân mật mà người Do Thái dùng trong gia đình (ba ơi, bố ơi); nhưng họ không bao giờ dám dùng khi đọc kinh cầu nguyện.
Từ chuyện số lượng chúng ta đã chuyển sang chuyện phẩm chất. Đức Giêsu có chủ ý gì khi du nhập tiếng Abba vào lời giảng của mình? Để cho rõ vấn đề thiết tưởng nên phân biệt hai cấp độ. Cấp một: Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là bố (ba) của mình. Cấp hai: Đức Giêsu muốn chia sẻ tình thân mật ấy.
Đức Giêsu nói với Thiên Chúa
Các Tin Mừng còn ghi lại 21 kinh nguyện của Đức Giêsu, trong đó Người xưng hô với Thiên Chúa là “Cha”. Tuy con số đó bao gồm nhiều đoạn song song,[3] nhưng đặc điểm chung là Đức Giêsu luôn luôn dùng tiếng “Cha” khi cầu nguyện. Thậm chí, khi ghi lại lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, Marco (14,36) kèm theo nguyên ngữ Abba bằng tiếng Aram trước danh từ bằng tiếng Hy Lạp (ho pater): “Abba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Chỉ có một lần duy nhất mà Đức Giêsu kêu cầu “Chúa” (thay vì “Cha”) là khi ở trên thập giá: “Êloi, Êloi, lama sabacthani” (Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi? Mc 15,34; Mt 27,46). Tuy nhiên, không rõ đây có phải là nguyên văn lời cầu của Đức Giêsu hay không, hoặc chỉ là việc giải thích tâm trạng của Người dựa theo Thánh Vịnh 22. Nên biết là Luca không ghi lại lời đó, và đã thay vào bằng hai lời nguyện hướng về Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34); “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Đức Giêsu nói về Thiên Chúa
Bởi vì đã quen kêu cầu Thiên Chúa là Cha, nên Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ làm như vậy. Đừng kể kinh “Lạy Cha” mà Người dạy cho họ, các Tin Mừng còn để lại nhiều lời khuyên khác, chẳng hạn:
– Anh em cứ xin, thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho… Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người (Mt 7,7.9-11).
Đức Giêsu muốn rằng, không những các môn đệ hãy kêu cầu Thiên Chúa là Cha, mà còn phải thâm tín rằng Thiên Chúa là Cha, một người Cha tốt lành. Người sẽ ban những của tốt lành cho các con cái đến xin. Luca (11,11-12) còn ghi thêm lời khuyên là đừng sợ bị quở cho dù phải quấy rầy đập cửa giữa đêm khuya.
Thiên Chúa là Cha tốt lành: Người cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ dữ người lành, và đổ mưa xuống cho cả người công chính lẫn kẻ bất lương (Mt 5,44-45). Thoạt tiên xem ra câu nói rất thường; nhưng nếu ai tinh ý thì sẽ thấy rằng lời giảng của Đức Giêsu rất ngược đời! Thực vậy, chúng ta quen nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành, cho nên Chúa chỉ yêu thương những đứa con tốt lành ngoan ngoãn, và ghét những đứa xấu xa hư hỏng. Thế nhưng Đức Giêsu thì khẳng định rằng Cha trên trời thương yêu cả các đứa bất lương nữa! Xem ra điều này cũng dễ hiểu thôi: cha mẹ nào lại chẳng yêu những đứa con mình đã sinh ra? Dù nó có làm bậy đi nữa thì nó vẫn là con mình chứ! Thế nhưng Đức Giêsu lại còn muốn đi xa hơn lý luận thường tình đó, bởi vì theo Người, Thiên Chúa thương mấy đứa con hư hơn là các con ngoan. Phải nhận rằng đây là một điều mới trong thần học của Đức Giêsu. Cách cư xử của Thiên Chúa không giống như người đời quen hình dung đâu! Trong một buổi cầu nguyện, Đức Giêsu đã thốt lên lời chúc tụng như sau:
– Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26; Lc 10,21).
Thiên Chúa là Đấng thích tỏ mình ra cho những kẻ bé mọn. Câu nói này thường được giải thích theo nghĩa thiêng liêng, tức là những kẻ có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu theo một nghĩa khác nữa. Khi dịch là “kẻ bé mọn”, chúng ta đã sử dụng một từ ngữ thơ mộng rồi đó; nhưng nếu dịch là: “đứa con nít”, hay “thằng nhãi ranh” thì chúng ta sẽ nhận ra lối nói móc của Đức Giêsu. Ai cũng tưởng rằng các bậc khôn ngoan hiền sĩ thi biết rõ Thiên Chúa hơn, và họ sẽ cảm nhận Thiên Chúa gần gũi hơn. Nào ngờ Đức Giêsu lại nói ngược lại: Thiên Chúa không tỏ mình cho các người khôn ngoan thông thái, mà lại tỏ mình cho mấy đứa ranh con, u mê dốt nát, nghịch ngợm phá phách! Trên thực tế, chính những đứa con như vậy mới cần tới sự săn sóc của người Cha, chứ những đứa con ngoan ngoãn, có công ăn việc làm xuôi xắn thì đâu cần người cha giúp đỡ nữa! Sự thực trớ trêu là những đứa con ngỗ nghịch lại dễ nhận thức tình yêu săn sóc của người cha; chứ còn những đứa con ngoan thì cùng lắm cũng chỉ mong phần thưởng thôi chứ đâu có biết đánh giá tình yêu của Cha?
Chúng tôi không dám cam đoan rằng đó là ý nghĩa chính xác của câu nói: “Thiên Chúa mặc khải cho kẻ bé mọn”. Tuy nhiên khi phân tích các lời giảng và việc làm của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa tỏ mình là Cha khi đi tìm con chiên lạc, khi mở tiệc mừng đứa con hoang trở về. Đức Giêsu mặc khải chân lý ấy không những qua các bài giảng và dụ ngôn mà còn qua thái độ và hành động. Người bị trách là hay lân la với phường thâu thuế và hạng người tội lỗi. Để tự bào chữa, Đức Giêsu nhắc nhớ một chân lý hết sức sơ đẳng là “chỉ có các bệnh nhân mới cần tới thầy thuốc!” (Mc 2,17; Mt 9,12-13; Lc 5,31-32). Có điều ngược đời là thường thì các bệnh nhân đi kêu thầy thuốc; còn Đức Giêsu lại chủ trương rằng thầy thuốc phải đi tìm bệnh nhân! Qua những hình ảnh và dụng ngữ rút từ đời sống thường nhật, Đức Giêsu muốn trình bày một khuôn mặt mới của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha đi tìm con người sa ngã. Sự cứu độ là một món quà trao tặng cho con người, chứ không phải là tiền lương trả cho kẻ làm công. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đến cứu vớt con người lầm than khốn khổ. Ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho người công chính của nhà Israel, mà còn mở rộng cho muôn dân nữa.
MỤC 1
LỜI GIẢNG CỦA ĐỨC GIÊSU
Tin Mừng Nhất Lãm trình bày sứ vụ của Đức Giêsu là loan báo và thể hiện Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu thi hành sứ mạng phục vụ Nước Thiên Chúa bằng lời giảng và hành động. Vì muốn trình bày có thứ tự mạch lạc, nên thường phải phân tách ra thành hai mục (lời giảng – hành động), chứ trên thực tế thì cả hai gắn liền mật thiết với nhau. Lời nói đi đôi với hành động: có khi lời nói giải thích cho một hành động, có khi hành động chứng thực cho lời nói. Chúng ta hãy lấy một thí dụ từ việc chữa lành một người bại liệt kể lại ở Marco 2,3-12 (// Mt 9,1-8; Lc 5,18-26). Thoạt tiên, Đức Giêsu nói với anh ta: “Này con, con đã được tha tội rồi” (lời nói). Nghe câu nói đó, các Kinh sư khó chịu, cho rằng Đức Giêsu phạm thượng vì dám tuyên bố tha tội, điều dành riêng cho Thiên Chúa. Để biện minh, Đức Giêsu vặn họ rằng: Điều nào dễ hơn: bảo với người bại liệt rằng “con đã được tha tội”, hay là “vác lấy chõng mà đi”? Vậy để các ông biết rằng Con Người có quyền tha tội, thì này (hướng sang người bại liệt) ta bảo con: hãy đứng dậy, vác chõng mà về. Hành động chữa lành người bại liệt chứng thực rằng lời tha tội có uy lực; nhưng trước khi chữa bệnh, Đức Giêsu đã dùng lời nói để giải thích ý nghĩa của hành vi sắp làm: trong trường hợp này đây, Người không chỉ đóng vai một y sĩ chữa bệnh mà thôi, nhưng việc chữa bệnh là dấu chỉ của việc được tha tội. Nhiều lời tuyên bố của Đức Giêsu chỉ có thể giải thích được trong khung cảnh của một hành động nào đó. Sau khi đã ghi nhận như vậy, trong mục này, chúng ta hãy bắt đầu nghiên cứu các lời giảng của Đức Giêsu; kế đó, trong mục sau, chúng ta sẽ đề cập tới các hành động.
HÌNH THỨC CÁC LỜI GIẢNG
Trong các quyển Tin Mừng hiện tại, chúng ta thấy Đức Giêsu rao giảng trong nhiều cơ hội khác nhau và dưới những hình thức khác nhau: khi thì ở ngoài trời, khi thì ở trong hội đường; có lúc ngồi chễm chệ như thầy giáo hoặc có lúc đàm thoại thân mật như giữa bạn bè. Đặc biệt là Matthew đã ghi lại 5 bài giảng xoay quanh chủ đề Nước Trời: Hiến chương Nước Trời (Chương 5-7); Rao giảng Nước Trời (Chương 10); Mầu nhiệm Nước Trời (Chương 13); Bước đầu của Nước Trời trong Hội Thánh (Chương 18); Tính cách cánh chung của Nước Trời (Chương 24-25). Tuy nhiên, khi bàn về tiến trình thành hình các quyển Tin Mừng, chúng tôi đã lưu ý rằng các thánh sử không ghi chép các lời giảng của Đức Giêsu từng chữ, từng câu, với đầy đủ chi tiết về các hoàn cảnh thời gian và không gian. Theo các học giả Thánh Kinh, chúng ta có thể phân tách ba giai đoạn, từ khi Đức Giêsu tuyên bố các lời đó cho tới khi chúng được chép ra sách Tin Mừng. Trong giai đoạn thứ nhất, các lời giảng của Đức Giêsu đã được ghi vào tâm khảm của các môn đệ khá dễ dàng, bởi vì Người dùng nhiều kiểu nói có âm giai mục điệu giống như ca dao tục ngữ,[4] hoặc bởi vì Người ưa kể chuyện dụ ngôn. Các lời ấy được ghi lại thành bộ sưu tập. Qua giai đoạn thứ hai, các lời đó không những được kể lại nhưng còn được đem ra đối chiếu với Sách Thánh (Cựu ước) hoặc được thích nghi để áp dụng vào đời sống cộng đoàn Kitô hữu, ngõ hầu lời của Đức Giêsu luôn mang tính cách sống động, hiện thực cho các môn đệ. Sau cùng, ở giai đoạn thứ ba, các thánh sử sử dụng các nguồn truyền khẩu và xếp đặt chúng dựa theo bố cục của tác phẩm. Vì thế không lạ gì mà những lời được thánh Matthew đặt trong bài giảng trên núi khi Đức Giêsu khai mạc sứ vụ (Chương 5-7) thì lại được thánh Luca xếp trong bài giảng ở đất bằng (bình nguyên), và sau một thời gian hoạt động (Chương 6,17-49). Thực không dễ gì mà hình dung được chính lời giảng nguyên khởi của Đức Giêsu cho những người đương thời (ipsissima verba Christi). Chắc chắn là Người dùng tiếng Aram, chứ không phải là tiếng Hy Lạp như bản văn Tân ước hiện nay. Tuy nhiên, xin để dành công tác đó cho các nhà phê bình văn chương, và chúng ta hãy chú trọng hơn tới khía cạnh tư tưởng, dựa theo các bản văn hiện hành.
Trước khi đi vào nội dung tư tưởng, thiết tưởng cũng nên nói đôi lời về các hình thức ngôn ngữ mà Đức Giêsu đã sử dụng để rao giảng. Đã có nhiều tiêu chuẩn để ra để xếp loại các hình thức ấy.
Đối chiếu với các thể văn của Cựu ước, người ta phân chia các lời của Đức Giêsu thành hai loại: các lời Ngôn sứ và các lời khôn ngoan
– 1) Thể văn Ngôn sứ bao gồm các lời loan báo ơn cứu độ (hay sự trừng phạt), chẳng hạn như: việc loan báo Nước Thiên Chúa đã đến, các mối phúc thật, việc kêu gọi cải thiện, các lời cảnh cáo những kẻ cố chấp.
– 2) Thể văn khôn ngoan bao gồm những câu ngắn gọn, như: châm ngôn, câu ví, câu đố, dụ ngôn.
Đối chiếu với hạng thính giả, người ta phân chia thành hai nhóm: môn đệ và đối lập
– 1) Đối với các môn đệ hay đại chúng, Đức Giêsu giảng giải, khuyên bảo.
– 2) Đối với các đối thủ, các lời của Đức Giêsu mang tích cách tranh biện, đối chất.
Dĩ nhiên còn nhiều tiêu chuẩn khác để xếp loại các lời giảng, như dựa theo đề mục (về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, về đời sống luân lý). Dù sao khi bàn về các hình thức lời giảng của Đức Giêsu chúng ta không thể nào làm ngơ các dụ ngôn được.
CÁC DỤ NGÔN
Hình thức
Dụ ngôn chiếm một phần lớn trong các lời giảng của Đức Giêsu. Ở đầu chương 4, thánh Marco viết rằng “Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà dạy đám đông” (4,4) và đến cuối chương (câu 33-34) ông nói thêm: “Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tùy theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn”. Tùy theo tiêu chuẩn xếp hạng, các học giả đếm được từ 35 (tối thiểu)[5] cho tới 72 (tối đa) dụ ngôn trong Tin Mừng. Sự chênh lệch tùy theo việc xác định bản chất của dụ ngôn.[6] Trong Thánh Kinh, danh từ Do Thái mashal (tương đương với từ Hy Lạp parabôlê) bao gồm nhiều loại văn thể so sánh, từ câu đố (Tl 14,10-18) cho tới ngạn ngữ (1Sm 10,12), từ tỉ dụ cho tới ẩn dụ (Is 5,1-7; Ed 17,2-24). Cách riêng, bàn về các dụ ngôn trong Tin Mừng, các học giả đã phân biệt tới 4 loại văn thể khác nhau:
– 1) Sánh ví (similitudo). Đây chỉ là một câu nói ngắn gọn gồm hai vế: từ một trường hợp điển hình quen thuộc để bước sang áp dụng cụ thể. Chẳng hạn Mc 3,24-25: “Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể vững. Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại nhưng đã tận số”. Thể sánh ví được phát biểu ở Mc 4,26: “Đức Giêsu lại nói: Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?”. Nước trời được ví như hạt cải gieo xuống đất (Mt 13,31); như nắm men vùi trong bột (Mt 13,33).
– 2) Điển tích. Một câu chuyện được thuật lại để giải thích một ý kiến hay một nguyên lý. Chẳng hạn Lc 10,29-37 tích của người Samari tốt lành dùng để giải thích “ai là người thân cận của tôi?”; Lc 12,16-20 (người phú hộ thu tích của cải); Lc 18,10-14 (người Pharisee và người thu thuế cầu nguyện).
– 3) Ẩn dụ (allegoria). Mỗi chi tiết của câu chuyện đều mang theo một ý nghĩa. Chẳng hạn như chuyện các tá điền sát nhân ở Mc 12,1-12 (// Mt 21,33-45; Lc 20,9-19).
– 4) Dụ ngôn theo nghĩa chặt. Tất cả các tình tiết của một câu chuyện đều ăn khớp, nhằm nói lên một ý nghĩa nào đó.
Sự phân biệt các loại văn thể (cách riêng là giữa ẩn dụ và dụ ngôn) rất là quan trọng trong việc tìm hiểu dụng ý của lời giảng. Khi sử dụng ẩn dụ, tác giả muốn mặc cho mỗi chi tiết một nghĩa bóng; còn trong dụ ngôn, thì toàn thể câu chuyện chỉ có một kết luận mà thôi. Đó là nói trên nguyên tắc, chứ khi đi vào từng trường hợp cụ thể thì không dễ gì xác định cách dứt khoát, nhất là có khi một câu chuyện pha trộn nhiều thể văn khác nhau. Dụ ngôn về người Samari nhân hậu có thể vừa là điển tích, vừa là ẩn dụ vừa là ngụ ngôn.
Đức Giêsu không phải là người đã sáng chế ra thể văn dụ ngôn. Trong Cựu ước, các Ngôn sứ đã sử dụng tới nó rồi. Chẳng hạn như sau khi vua David đã phạm tội ngoại tình và sát nhân, Ngôn sứ Nathan đến kể cho nhà vua nghe câu chuyện về một anh phú hộ đi cướp giật con chiên của một nhà nghèo để làm thịt đãi khách. Thoạt nghe, vua David đã tỏ ra căm phẫn: “Thằng đó đáng tội chết”; nhưng khi Ngôn sứ giải nghĩa thêm dụ ngôn thì nhà vua hoảng hốt thú nhận “Thực tôi có tội với Chúa” (2Sm 12,1-13). Tuy nhiên, các học giả cũng nhận rằng nhiều dụ ngôn mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hiện nay không còn giữ được nguyên văn như hồi Đức Giêsu đã kể, nhưng đã được thích ứng cho hợp với tình cảnh của cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi. Joachim Jeremias (The Parables of Jesus, 1947) trưng ra một thí dụ điển hình nơi dụ ngôn người gieo giống. Lúc đầu, dụ ngôn muốn nói tới sự bành trướng mạnh mẽ của Nước Thiên Chúa: bất chấp các trở lực của đất đai, nó vẫn sinh hoa kết trái gấp trăm lần (Mc 4,4-9). Nhưng về sau, các thánh sử đã áp dụng vào thái độ đón nhận lời Chúa: nếu ai không có tâm tình chuẩn bị thì lời Chúa không mang lại ơn ích nào hết (Mc 4,13-20).
Dĩ nhiên là có người đã cố gắng đi tìm lại nguồn ngọn nguyên khởi của nó hầu truy tầm ý định của Đức Giêsu. Việc tìm hiểu ý nghĩa nguyên khởi của các dụ ngôn không phải là nhằm khám phá ra chủ ý của Đức Giêsu kiểu như là đi tìm ra giải đáp cho một câu đố, nhưng nhất là nhằm tìm hiểu vai trò của các dụ ngôn trong toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu. Thực vậy, trải qua lịch sử, lắm lần người ta cho rằng Đức Giêsu kể dụ ngôn để giải trí, để thu hút sự chú ý của thính giả. Cũng lắm người đồng hóa dụ ngôn với ngụ ngôn, coi như Đức Giêsu chỉ giới hạn vào việc dạy vài bài học luân lý. Phải nhìn nhận rằng nhiều dụ ngôn có hàm ngụ ý tưởng bài học luân lý, hoặc là nằm trong kỹ thuật sư phạm; nhưng không phải chỉ có thế mà thôi. Đúng ra, Đức Giêsu sử dụng các dụ ngôn không phải là để ru ngủ các thính giả cho bằng để khiêu khích họ. Lúc đầu thì Người kể nhiều dụ ngôn có vẻ ngược đời, khiến cho người nghe phải đặt dấu hỏi; nhưng dần dần Người thêm những dụ ngôn nghe mà lộn ruột, cho nên các đối thủ đã phản ứng bằng cách thủ tiêu Người. Chúng ta thử lấy vài ví dụ. Khi bị trách là đã để cho một phụ nữ trắc nết đụng đến mình, Đức Giêsu đã kể cho ông Simon một dụ ngôn, với những lời rào đón như sau: “Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông… Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ 500 quan tiền, một người nợ 50. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ hơn?.. Ông thấy người phụ nữ này không?” (Lc 7,36-50). Dụ ngôn về con chiên lạc cũng bắt đầu bằng cách đặt câu hỏi: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” (Lc 15,4). Phản ứng dữ dội hơn cả là câu hỏi mà Người đặt ra sau khi thuật dụ ngôn (ẩn dụ) những tá điền sát nhân: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?”. Mt 21,45 ghi nhận như sau: Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisee hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là một Ngôn sứ.
Khi thuật lại các dụ ngôn, Đức Giêsu muốn cho thính giả cảm thấy bị lôi cuốn vào cuộc; họ phải bày tỏ thái độ. Lý do là vì Đức Giêsu đồng hóa mình với nội dung của các dụ ngôn. Nước Thiên Chúa được mặc khải qua các dụ ngôn.
Nội dung
Trong những năm gần đây, khi nghiên cứu các dụ ngôn, nhiều tác giả đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không kể các dụ ngôn để mua vui tiêu khiển nhưng là nhằm để trình bày đạo lý về Nước Thiên Chúa đã đến và đòi hỏi con người phải bày tỏ thái độ. Trước khi là một bài học luân lý, các dụ ngôn mặc khải khuôn mặt của Thiên Chúa và đường lối cứu độ của Người được biểu lộ nơi Đức Giêsu.
Có lẽ điều gây phản ứng mạnh hơn cả nơi các thính giả của Đức Giêsu là tính cách nghịch lý của các dụ ngôn. Dĩ nhiên, không phải tất cả các dụ ngôn đều nghịch lý, bởi vì nếu cứ kể toàn những chuyện phi lý thì đâu có ai còn muốn nghe nữa? Nhưng đôi lúc Đức Giêsu thuật vài câu chuyện ngược đời, như muốn cho thấy là đường lối của Thiên Chúa thật khôn dò khó hiểu! Đúng ra, vấn đề khó hiểu ở đây không liên quan tới bản thể cao siêu của Thiên Chúa cho bằng liên quan tới tình thương bao la của Người. Chúng ta hãy lấy hai thí dụ điển hình nơi dụ ngôn của người thợ làm vườn nho và dụ ngôn về đứa con phung phí.
Dụ ngôn thứ nhất được ghi lại ở Mt 20,1-16 như thế này:
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ thứ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”. Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”. Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người làm trước nhất, họ tưởng sẽ lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”.
Dĩ nhiên dụ ngôn này có thể giải thích theo nhiều chiều hướng khác nhau, kể cả theo chiều hướng ẩn dụ (những người được gọi vào những giờ khác nhau, từ sáng sớm cho tới chiều tà, tượng trưng cho những lứa tuổi khác nhau trong cuộc đời: lúc thanh xuân hay khi bạc đầu!). Dù hiểu thế nào chăng nữa, khi vừa nghe dụ ngôn ta nhận thấy có ít là hai điểm nghịch lý: 1) Ông chủ không biết xài tiền: tại sao mà ông lại dại dột trả tiền công nhật cho những người mới làm có một giờ đồng hồ? 2) Ông chủ thiếu tế nhị. Cho dù ông muốn tỏ ra rộng lượng đi nữa, thì tại sao không trả công cho những người làm trước hết để cho họ ra về đi đã, rồi thong thả sẽ trả tiền cho những người tới sau; như thế sẽ tránh được bao nhiêu xích mích! Thế nhưng, xem ra đó là dụng ý của dụ ngôn. Các thính giả ra như bị liệt vào hạng các người làm công sáng sớm và đáng được nghe những lời này: “Bạn đâm ra ghen tức vì thấy tôi tốt bụng hay sao? Chẳng lẽ tôi không có quyền định đoạt về tài sản của tôi hay sao?”. Thực vậy, đa số các thính giả của Đức Giêsu vốn tưởng rằng họ chiếm chỗ ưu tiên trong Nước Thiên Chúa bởi vì họ đã tuân giữ luật nghiêm túc; ai ngờ họ lại được phần thưởng ít hơn!
Dụ ngôn thứ hai được Luca ghi lại ở chương 15 (câu 11-31) như thế này:
Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muông heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội vói Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. – Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Xưa nay dụ ngôn này được đặt tên là “về đứa con phung phí, hay đứa con hoang đàng”, bởi vì coi nó như là nhân vật chính. Dụ ngôn được sử dụng để khuyến khích người tội lỗi hãy ăn năn trở về nhà cha, tin tưởng vào lòng khoan dung của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngày nay các học giả cho rằng người con thứ chỉ đóng một vai rất phụ thuộc trong dụ ngôn này. Nhân vật chính là người cha. Dụ ngôn muốn cho thấy tính cách nghịch lý trong lối cư xử của ông ta. Lẽ ra ông không nên chia hết tài sản cho đứa con thứ như vậy! Lẽ ra nếu nó trở về, thì phải trách mắng sửa bảo nó! Lẽ ra ông không nên làm tiệc như vậy, vừa làm hư đứa con thứ vừa làm nản chí người con trưởng! Thế nhưng hình như Đức Giêsu ngầm hiểu rằng đa số các thính giả đã tự đồng hóa với đứa con trưởng để trách móc cha mình. Nhưng mặc kệ họ, Đức Giêsu muốn cho họ thấy rằng Thiên Chúa không lập luận như họ. Trong chương 15 của Tin Mừng Luca, cả ba dụ ngôn đều nói tới nỗi vui mừng của Thiên Chúa vì thấy tội nhân trở về: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối” (15,7). “Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (15,10). “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,32).
Cả hai dụ ngôn vừa trưng dẫn đều cho thấy rằng cách đối xử của Thiên Chúa không giống như đường lối mà con người quen gán cho Người. Tình thương của Người thật khôn dò. Dụ ngôn về người Pharisee và người thâu thuế lên đền thờ cầu nguyện cũng mang tính cách nghịch lý tương tự. Người Pharisee tuân giữ luật lệ rất nghiêm túc, đối lại với người thâu thuế tội lỗi đầy mình. Ấy thế mà người thu thuế ra về lại trở nên công chính!
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để giải thích mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa cũng như để giáo huấn về luân lý (chẳng hạn như dụ ngôn về người Samari nhân hậu, hay dụ ngôn về tên mắc nợ không biết thương xót). Chúng ta sẽ bàn tới giáo huấn luân lý của Đức Giêsu ở mục thứ ba. Ở đây, thiết tưởng nên trưng dẫn một câu trả lời của Đức Giêsu về lý do sử dụng dụ ngôn khi giảng dạy, được tất cả Tin Mừng Nhất Lãm còn ghi lại. Khi còn một mình Đức Giêsu, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn. Người nói với các ông:”Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ” (Mc 4,10-12 // Mt 13,10-15; Lc 8,9-10).
Phải thú nhận rằng, câu trả lời của Đức Giêsu không dễ hiểu, và đã làm hao tốn rất nhiều giấy mực của các nhà chú giải. Dù sao thì câu trả lời nhằm đáp lại một thắc mắc của các môn đệ. Chính các môn đệ cũng không hiểu ý nghĩa của các dụ ngôn, và họ đã đến xin Thầy giảng nghĩa cho rõ hơn (xc. Mc 4,13; 7,17). Điều này lại càng chứng tỏ rằng các dụ ngôn không phải luôn luôn là những điển tích hoặc thí dụ dễ hiểu! Và cho dù có hiểu được ý nghĩa của từ ngữ của dụ ngôn đi nữa, việc chấp nhận giáo huấn của nó còn vấp phải nhiều trở ngại khác. Như chúng ta sẽ thấy, tuy Đức Giêsu trình bày Thiên Chúa dưới khuôn mặt của người cha nhân hậu, nhưng việc nhận ra được khuôn mặt đó đòi hỏi con người phải thay đổi thái độ, tức là: cần phải biết cư xử rộng lượng cũng giống như Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nêu gương trước tiên. Chính Người là một dụ ngôn sống động về Thiên Chúa.
MỤC 2
NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC CỦA ĐỨC GIÊSU
Trong khi thi hành sứ vụ giảng dạy, Đức Giêsu thường hay sử dụng hình thức dụ ngôn. Trên đây chúng ta đã thấy đôi khi Đức Giêsu thuật lại những câu chuyện ngược đời nhằm cho thấy đường lối của Thiên Chúa không giống như lý luận của con người. Cần phải nói thêm rằng các dụ ngôn không được thuật lại trong khung cảnh của một lớp học hay là ở trong thánh đường, nhưng là trong những hoàn cảnh khá căng thẳng. Đức Giêsu dùng những dụ ngôn ấy để giải thích một thái độ gây chướng tai gai mắt cho nhiều người. Như vậy có thể nói được rằng trước khi dụ ngôn trở thành một câu chuyện thì nó đã là một hành động cụ thể. Nói khác đi, Đức Giêsu là một dụ ngôn sống động của Thiên Chúa. Ba dụ ngôn về con chiên bị mất, đồng bạc bị mất, và đứa con bị mất đã được Luca dồn lại trong chương 15, trong bối cảnh của một cuộc tranh luận kể ở đầu chương. “Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Pharisee và các Kinh sư thì lẩm bẩm: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này” (Lc 15,1-3). Trước đó, ở chương 7 Luca cũng gắn một dụ ngôn về lòng biết ơn của hai người mắc nợ để giải thích lý do vì sao Người đã để cho một phụ nữ trắc nết ôm chân. Matthew 21,28-30 kể lại dụ ngôn về hai người con để giải thích vì sao Đức Giêsu quyến rũ được những người thu thuế và những cô gái điếm.
BẠN BÈ VỚI PHƯỜNG TRẮC NẾT
Chúng ta quen hình dung Đức Giêsu là người kết hợp thân mật với Thiên Chúa; Người đã trải qua những đêm trường không ngủ để cầu nguyện. Quả đúng như vậy: Tin Mừng nói rất nhiều đến những buổi cầu nguyện của Đức Giêsu (xc. Mc 1,35; 6,46; Lc 5,16; 11,1). Tuy nhiên, bên cạnh những phút giây sống thân mật với Thiên Chúa, Đức Giêsu đã dành khá nhiều thời giờ để lui tới những phường mà lẽ ra người đứng đắn không nên đặt chân tới! Nếp sống của Người đã gây ra nhiều tai tiếng. Các thánh sử không giấu diếm điều đó, bởi vì họ lặp đi lặp lại nhiều lần các lời đồn thổi không tốt đẹp về Đức Giêsu. Mc 2,15-16 kể như sau: Người đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ, vì họ đông đảo và đã đi theo Người. Những Kinh sư thuộc nhóm Pharisee thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế thì nói với các môn đệ của Người: “Sao! Ông ta ăn nhậu với bọn thu thuế và quân tội lỗi và bọn thu thuế” (xc. Mt 9,10-11). Tiếng đồn này đã tới tai Đức Giêsu khiến Người chép miệng: “Ông Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con người đến, cũng ăn cũng uống như ai thì tập hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt 11,19). Có lẽ vì thường hay la cà vào những khu vực tai tiếng cho nên Người bị khinh ra mặt, theo như các người Pharisee đã phê bình: Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisee, có ai tin ông ấy đâu? Chỉ có bọn dân đen, hạng không biết Lề luật mới bị mê hoặc thôi (Ga 7,48-49).
Qua các lời đồn đại, đàm tiếu vừa trưng dẫn, chúng ta thấy Đức Giêsu thường lui tới các người tội lỗi, hạng thu thuế, các gái điếm, bọn dân đen, quân Samari vô đạo. Họ là hạng người như thế nào? Tại sao Đức Giêsu chơi thân với họ?
Nhãn hiệu “người tội lỗi” hơi mông lung, nhưng thừơng được đồng hóa cách cụ thể với hạng thu thuế. Thu thuế là một nghề nghiệp trong xã hội; nhưng vào thời ấy, nghề thu thuế tượng trưng cho bọn phản quốc, đi làm tay sai cho chính quyền đô hộ. Thêm vào cái tội chính trị lại còn cái tội luân lý nữa. Không hiểu tư cách của các cấp chỉ huy ngành thuế vụ như thế nào, chứ các nhân viên địa phương mà người dân phải tiếp xúc thì chẳng có tình nghĩa gì cả! Họ mang tiếng là hay bóc lột, tham nhũng. Dù sao thì dưới con mắt của nhóm Pharisee,[7]việc chung đụng với ngoại bang đã đủ cho họ ra ô uế rồi! Để giải thích tại sao mình lại đi lại với hạng người bất lương như vậy, Đức Giêsu trả lời: “Người mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”. Một lần khác, khi vào trọ tại nhà một người thu thuế tên là Dakêu, Người tuyên bố rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,9). Điều trớ trêu hơn nữa là qua dụ ngôn về người Pharisee và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (Lc 18,9-14), Đức Giêsu như nhắn khéo với người Pharisee rằng đừng vội tưởng rằng chỉ có ta đây là kẻ công chính đâu: Thiên Chúa chấp nhận thái độ khiêm tốn của các người thu thuế hơn là thái độ kiêu căng của họ.
Một lớp người tội lỗi điển hình nữa là các cô gái điếm. Hạng người này cũng xuất hiện trong cuộc đời của Đức Giêsu. Một lần đang dùng bữa tại nhà của một người Pharisee tên là ông Simon, thì có một cô tới ôm chân Đức Giêsu mà khóc, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. Chủ nhà liền nghĩ bụng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi”. Để đáp lại, Đức Giêsu đã kể một dụ ngôn về hai con nợ. “Một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Dĩ nhiên là người đã được tha nhiều hơn. Trên thực tế, thì tội của chị này nhiều, nhưng chị đã được tha vì đã yêu mến nhiều. Đức Giêsu muốn đem lại ơn tha thứ và bình an cho chị. Mặt khác, có lẽ Người cũng muốn nói với ông Simon rằng lòng mến của ông còn ít lắm, bởi vì ông chưa cảm nhận được lòng khoan nhân tha thứ của Thiên Chúa (Lc 7,36-50)! Một lần khác, Đức Giêsu buộc phải bày tỏ thái độ là khi người ta dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật thì chị ta phải bị ném đá, và họ muốn biết ý kiến của Người. Thoạt tiên Người không nói gì hết, nhưng vì cứ bị hối thúc nên Người hỏi lại: “Ai thấy mình vô tội thì lấy đá ném trước đi?”. Và chẳng ai có gan làm chuyện đó cả! Đã có nhiều ý kiến bình luận về thái độ của Đức Giêsu. Có người muốn tìm thấy thái độ của Đức Giêsu nơi những câu hỏi mà Người đặt ra cho đám đông và cho người phụ nữ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném đi… Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Như vậy xem ra Đức Giêsu ngụ ý trách móc thái độ giả hình của nhiều người tự đặt mình làm đại diện cho công lý, thứ công lý một chiều. Tại sao chị ta bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà chỉ có chị bị lên án? Có ai phạm tội ngoại tình một mình đâu? Thế còn tên đồng phạm đâu rồi? Ý kiến khác thì nhấn mạnh tới lời nói của Đức Giêsu với chị ta tiếp theo đó: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Câu nói này ra như muốn nêu bật thái độ của Đức Giêsu là khoan nhân từ bi chứ không phải là nghiêm khắc. Có lẽ cả hai ý kiến đều có thể chấp nhận được. Dù theo ý kiến nào, Đức Giêsu cũng đòi các thính giả phải xét lại quan điểm của mình, và đừng vội coi ý mình là ý Chúa. Nên biết là quang cảnh này được ghi lại ở Gioan 8,2-11, nhưng đa số các nhà chú giải cho rằng có lẽ nguồn gốc thuộc về Luca.
Hạng người thứ ba đã gây tai tiếng cho Đức Giêsu là dân Samari và dân ngoại. Việc tiếp xúc với dân ngoại bị coi là ô uế không những vào thời của Đức Giêsu mà kể cả giữa lòng Hội Thánh nguyên thủy. Ông Phêrô đã bị cộng đoàn khiển trách vì đã đặt chân vào nhà của dân ngoại, khiến cho ông phải cực lực thanh minh, như ta đọc thấy ở Tông Đồ công vụ (11,2) và thư gửi Galat (2,11-14). Nhóm Pharisee quen tự hào là hơn dân ngoại bởi vì dân ngoại u mê không biết luật Chúa nên đâm ra thờ lạy ngẫu tượng và phạm biết bao tội quái gở.[8]Nhưng quân Samari còn tệ hơn dân ngoại nhiều, bởi vì họ pha phôi giữa việc thờ Chúa Giavê với các thần ngoại khác. Thế nhưng Đức Giêsu thì đã hơn một lần ca ngợi lòng đạo đức của dân Samari. Người đã kể lại dụ ngôn về người Samari nhân hậu vì đã ý thức được lòng yêu thương tha nhân, hơn là các thầy tư tế và thầy lê-vi (Lc 10,29-37). Trong số 10 người phong hủi được chữa lành, thì chỉ một người trở lại tôn vinh Thiên Chúa, và ông ta là một người Samari (Lc 17,16).
Cần nhấn mạnh một điểm là Đức Giêsu không phải chỉ năng lui tới các người thu thuế tội lỗi và các người ngoại mà thôi; Người lại còn vào nhà họ và ăn uống với họ. Cũng như tại nhiều dân tộc khác, người ta không chỉ nhìn chuyện ăn uống dưới khía cạnh thuần túy dinh dưỡng, nhưng còn là dấu hiệu của việc chia sẻ cảnh ngộ, khi vui cũng như lúc buồn. Khi ngồi bàn với các người thu thuế tội lỗi, Đức Giêsu cũng chấp nhận để cho thiên hạ xếp mình đồng hạng với họ. Về phần mình, Đức Giêsu muốn mang cho họ một niềm vui vô bờ bến, đó là đang khi những nhà lãnh đạo Do Thái loại bỏ họ ra bên lề, thì Người nói cho họ biết là Thiên Chúa đã mở cửa Nước Trời cho họ, Thiên Chúa mời họ đến chung vui bữa tiệc trong Nước Trời. Sau khi đã thuật lại dụ ngôn về hai người con, Đức Giêsu không ngại nói thẳng với thượng tế và kỳ mục như thế này: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Trời trước các ông” (Mt 21,31). Thái độ của Đức Giêsu đối với dân ngoại cũng mang một động lực tương tự. Người muốn nói cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và mời gọi họ vào hưởng hạnh phúc trên trời. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn cảnh cáo dân Do Thái rằng tuy Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với họ, nghĩa là đã gửi thiệp mời họ đến dự tiệc, nhưng nếu họ không trả lời thì họ sẽ bị loại. Dụ ngôn về tiệc cưới muốn nói lên điều ấy:
Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: “Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác nói: “Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Người khác nói: “Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Đầy tớ trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: “Mau ra nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây”. Đầy tớ nói: “Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ”. Ông chủ bảo người đầy tớ: “Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho anh biết: những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi”. (Lc 14,16-24).
Và như sợ các thính giả không hiểu hết ý, Đức Giêsu nói thẳng không chút úp mở với người Do Thái rằng: “Các ông sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob cùng tất cả các Ngôn sứ được ở trong nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,28-29).
TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO
Đức Giêsu làm thân ăn uống với hạng người tội lỗi, bọn thu thuế, các cô điếm, dân ngoại (nghĩa là các thành phần đã bị giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái gạt ra khỏi vòng cứu rỗi), tỏ cho biết là họ được mời vào tham dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa. Đối với họ, quả thực là một tin vui khôn tả! Đức Giêsu cảm thấy sứ vụ của mình là mang Tin vui đến cho đời. Các Kitô hữu tiên khởi đã ý thức điều đó, bởi vì họ đã đặt tên cho tác phẩm viết về Người là “Tin Mừng”. Như đã có lần giải thích, tiếng “Tin Mừng” dịch từ Hy Lạp “Euangelion” có nghĩa là: tin vui, tin mừng, tin lành. Marco đã mở đầu tác phẩm thế này: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” (1,1). Ở vài hàng tiếp đó, thánh sử thuật lại việc Đức Giêsu khai mạc sứ vụ như sau: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilee rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (1,15). Tin Mừng đó như thế nào? Tại sao gọi là Tin Mừng? Luca đã giải thích như thế này.
Đức Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như vẫn quen làm trong ngày Sabath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách Ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần khí Chúa ngự trên tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giêsu cuộn sách lại… bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh quý vị vừa nghe” (Lc 4,16-21).
Theo thánh sử Luca, Tin Mừng là một từ ngữ chuyên môn của Thánh Kinh (đặc biệt là Isaia), với đoạn văn vừa trích dẫn (Is 61,1-2). Tin Mừng ám chỉ sự thực hiện niềm mong đợi Thiên Chúa xuất hiện để thiết lập triều đại của công lý, khi dân nghèo được giải thoát khỏi cảnh lầm than, khi bao kẻ tù tội oan ức được trả tự do, và khi các thứ tai ương biến khỏi mặt đất. Đức Giêsu loan báo rằng thời điểm đó đã đến rồi, thời mà Tin Mừng được dành ưu tiên cho kẻ nghèo hèn. Chúng ta sẽ tìm hiểu đề tài “những người nghèo” (đối tượng của Tin Mừng Nước Thiên Chúa) khi bàn về những yêu sách của Nước Thiên Chúa; ở đây chúng ta hãy chú ý tới vài hậu quả của việc công bố Tin Mừng ấy.
Những việc chữa bệnh và trừ quỷ
Trước đây, chúng ta đã thấy Đức Giêsu sử dụng dụ ngôn, thuật lại những câu chuyện ngược đời để cho thấy rằng tình thương của Thiên Chúa không tuân theo những định luật mà con người áp đặt cho Người. Đức Giêsu đã diễn tả chân lý ấy bằng những hành động cụ thể, khi Người không ngại chấp nhận những tai tiếng không tốt để mang Tin Mừng cứu độ cho những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ thuộc vào hạng “nghèo hèn” xét dưới khía cạnh tôn giáo. Cũng trong chiều hướng ấy, trong thời gian thi hành sứ vụ, Đức Giêsu thường hay gặp gỡ một lớp người khác: những người bị bệnh tật và ma quỷ hành hạ. Người đến với họ để giải thoát họ. Những công việc chữa bệnh và trừ quỷ chiếm khá nhiều thời giờ trong sinh hoạt của Đức Giêsu. Ở Mc 1,21-45, chúng ta có thể nhận ra thời khóa biểu của một ngày hoạt động: rao giảng tại hội đường (câu 21-22), kèm theo việc trừ quỷ và chữa bệnh (câu 31).
Chiều đến, khi mặt trời lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa:”Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ (câu 32-39).
Việc chữa bệnh và trừ quỷ được coi như là đặc trưng của Nước Thiên Chúa đã đến. Khi ông Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu xem Người có phải là Đấng Messiah hay không, thì Người đã trả lời như sau: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,2-4; Lc 7,18-23). Đây là một lối trả lời gián tiếp, bởi vì Đức Giêsu đang trưng dẫn những lời của Isaia nói về những hiện tượng sẽ xảy tới trong thời cánh chung (29,18; 35,5-6), và nay đã ứng nghiệm qua các hành động mà Người đang làm. Chúng tôi đã có lần trưng dẫn câu trả lời của Đức Giêsu cho người Pharisee: “Nếu tôi dựa vào Thần khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28; Lc 11,20).
Thoạt tiên xem ra câu chuyện đơn giản như thế thôi. Thế nhưng từ 20 thế kỷ qua, đã có bao nhiêu vấn nạn được đặt lên chung quanh các công việc chữa bệnh và trừ quỷ của Đức Giêsu. Các người đương thời và văn chương Do Thái đã hơn một lần cho Người là ông phù thủy (Mt 12,24). Vấn nạn nữa liên quan tới lịch sử tính của các công việc đó: Đức Giêsu đã chữa được bao nhiêu người bệnh? Phải chăng hồi đó, ở Palestin không còn bệnh tật gì nữa bởi vì đã được Người chữa lành hết rồi? Người Kitô hữu cũng có lý do để đặt câu hỏi: Đức Giêsu chữa bệnh và trừ quỷ để làm gì vậy?
Thần học cổ truyền đã gộp chung tất cả các hành đông vừa rồi dưới một từ ngữ là “phép lạ” (miraculum). Phép lạ được hiểu như là một hiện tượng xảy ra ngoài định luật tự nhiên, được Thiên Chúa sử dụng để can thiệp thi ân. Giáo luật đã ấn định rõ ràng các yếu tố để kiểm chứng một phép lạ, bởi vì đó là một điều kiện cần thiết trong thủ tục phong thánh. Tuy nhiên, nguy cơ có thể xảy ra là chúng ta sẽ hiểu lệch lạc sứ vụ của Đức Giêsu khi chúng ta áp dụng các phạm trù cận đại để phân tích các việc xảy ra cách đây 20 thế kỷ. Giả như chúng ta lôi được các bệnh nhân được Đức Giêsu chữa lành vào các trung tâm y khoa cận đại để khám nghiệm, thì có lẽ nhiều trường hợp sẽ bị gạt bỏ bởi vì không hội đủ điều kiện do giáo luật quy định! Hơn thế nữa, đã có những tác giả cho rằng các phép lạ mà Tin Mừng thuật lại chỉ là huyền thoại.[9] Thiết tưởng các tín hữu cũng có lỗi phần nào trong vấn đề này, bởi vì họ thường nhìn các phép lạ theo nhãn quan ảo thuật, coi như Đức Giêsu có tài biến hóa thần thông. Các Tin Mừng ngụy thư chứa đựng đầy những chuyện như vậy: ngay hồi còn nhỏ, khi đi chơi với chúng bạn, cậu Giêsu đã dùng tài ảo thuật, có lúc thì lấy đất sét nặn chim rồi hà hơi cho nó bay, có lúc thì phạt mấy đứa bạn chơi xấu phải chết tươi luôn!
Nói chung, việc tìm hiểu ý nghĩa của các phép lạ trong Tin Mừng gặp hai trở ngại lớn: thứ nhất, về não trạng; thứ hai, về văn bản.
– 1) Xét về não trạng, người dân Palestin thời đó có quan niệm khác chúng ta về nguồn gốc các tai ương bệnh tật. Họ dễ gắn liền các thứ đó với hình phạt do tội lỗi gây ra, hoặc là do ác thần nào quấy nhiễu con người. Đàng khác, điều kiện y khoa đâu đã tiến bộ như thời đại văn minh ngày nay, cho nên họ chỉ có thể trông mong ơn Trời cứu chữa chứ sức người hoàn toàn bất lực!
– 2) Khó khăn thứ hai ở chỗ các tác giả Tin Mừng không thuật lại các việc chữa bệnh theo ngôn ngữ chuyên khoa của y học, cũng chẳng phải là ngôn ngữ của ký giả nhà báo! Các việc chữa bệnh đã được nhìn theo lăng kính của Đức Giêsu Kitô phục sinh, sau khi đã hoàn tất kế hoạch cứu độ. Tất cả các hoạt động của Đức Giêsu đều mang giá trị cứu độ. Chính vì thế, nếu ai đeo cặp kính của y sĩ hay của ký giả thì sẽ thất vọng khi đọc các trình thuật của Tin Mừng về các việc chữa bệnh của Đức Giêsu.
Thực vậy, có một số phép lạ được tác giả Tin Mừng ghi lại trong một khung cảnh hộ giáo, huấn giáo, hay tuyên xưng đức tin. Thí dụ như phép lạ chữa lành người bại liệt (Mc 2,1-12) nhằm cho thấy rằng Đức Giêsu có quyền tha tội; hoặc như phép lạ chữa người bị bại tay vào một ngày Sabath muốn cho thấy rằng Người làm chủ cả ngày Sabath (Mc 2,23-3,5). Phép lạ đi trên mặt nước (Mc 6,50) được mô tả với ngôn ngữ tương tự như biến cố Thiên Chúa mặc khải cho ông Moses (xc. Xh 3,14).[10] Người ta cũng nhận thấy rằng con số các phép lạ giảm dần từ tác phẩm của Marco (các trình thuật về phép lạ chiếm tới 1/3 tác phẩm: 209 câu trong số 666 câu), cho đến tác phẩm của Gioan (chỉ còn giữ lại 7 phép lạ, và không hề nhắc tới các việc trừ tà). Tầm quan trọng của các phép lạ trong sứ vụ của Đức Giêsu xem ra cũng được đánh giá cách khác nhau giữa sách Tông Đồ Công Vụ và thánh Phaolô. Theo sách Tông Đồ Công Vụ 10,38-39, các phép lạ biểu lộ quyền năng của Thánh Thần tác động nơi Đức Giêsu: Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Đức Giêsu Nazareth. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người (xc. Cv 2,22). Còn thánh Phaolô thì không biết chi các phép lạ ấy; đối với Phaolô, ân huệ và quyền năng của Thiên Chúa được tỏ ra qua cây thập giá.
Từ những nhận xét ấy, các nhà chú giải Thánh Kinh và các nhà thần học đã khuyên chúng ta hãy thận trọng khi nghiên cứu các phép lạ mà Tin Mừng đã thuật lại. Chúng ta đừng bao giờ coi chúng như là cơ hội để Đức Giêsu biểu diễn quyền biến ảo thuật. Vua Herod đã thất bại vì đã muốn Người làm một phép lạ coi chơi, nhưng Người không đáp (Lc 23,8-9). Khi bị treo trên thập giá, người ta thách thức Người hãy tụt xuống đi thì họ sẽ tin, nhưng Người cũng chẳng đáp gì (Mc 15,32). Matthew và Luca đã cho biết rằng cơn cám dỗ nghiêm trọng nhất mà Đức Giêsu phải đương đầu ngay từ khi bắt đầu sứ vụ là muốn làm phép lạ để biểu diễn (Mt 4,1-11; Lc 4,1-13).
Tóm lại, chúng ta gặp phải một điểm xem ra nghịch lý: một đàng Đức Giêsu đã làm phép lạ (chữa bệnh, trừ qủy) để chứng tỏ Nước Thiên Chúa đã đến; đàng khác, có lúc Người đã khước từ không chịu làm phép lạ, bởi vì xem ra chúng chẳng có giá trị hết. Thực ra thì không có gì mâu thuẫn trầm trọng đâu; điều cần thiết là phải hiểu rõ ý định chính xác của Đức Giêsu trong việc chữa bệnh và trừ quỷ.
Ý nghĩa của các phép lạ
Sở dĩ nhiều lần chúng ta có quan niệm sai lầm về phép lạ là vì chúng ta đã sử dụng từ ngữ không chỉnh. Danh từ “phép lạ” được dùng để dịch danh từ miraculum trong tiếng la-tinh (các danh từ miracle trong Pháp ngữ và Anh ngữ đều do cùng một gốc đó). Tiếng “miraculum” gợi lên ý tưởng của cái gì lạ thường, gây ra sự bỡ ngỡ, trầm trồ ngạc nhiên (admirare). Do đó xem ra phép lạ chỉ nhắm tới việc trổ tài cho thiên hạ phải phục. Thế nhưng Tin Mừng lại không gọi các việc chữa bệnh của Đức Giêsu là “phép lạ” (miraculum), mà là quyền năng (năng lực, sức mạnh: dynameis, xc. Mc 5,30; 6,2.5). Thánh Gioan thì gọi đó là: công việc (việc làm: ergon, xc. Ga 10,32.37), dấu chỉ (dấu hiệu: semeia, xc. Ga 2,11; 11,4). Các từ ngữ này hàm ngụ ý tưởng là các phép lạ cần được quan niệm như là dấu hiệu của sức mạnh Thiên Chúa. Thiên Chúa thiết lập triều đại qua những công việc giải phóng con người. Chúng ta có thể vạch ra ba ý nghĩa chính của các công việc ấy.
– 1) Ý nghĩa đầu tiên của các phép lạ là chúng bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Người mủi lòng trước cảnh khổ đau của con người, và muốn giải thoát họ. Các tác giả Tin Mừng không quên ghi chú tâm tình của Đức Giêsu khi làm phép lạ. Người “chạnh lòng thương” khi thấy đám đông như bầy chiên không người chăn dắt, nên Người đã dạy dỗ họ và làm phép lạ bánh hóa nhiều để cho họ ăn (Mc 6,34; 8,2). Người “chạnh lòng thương” khi chữa hai người mù tại Giêricô (Mt 20,24). Người “chạnh lòng thương” khi thấy đám tang của đứa con trai duy nhất của bà góa, nên đã cho nó sống lại (Lc 7,13). Biết như vậy, cho nên không thiếu lần các bệnh nhân đã đến van xin Người hãy “thương xót” và làm phúc thi ân cho họ (Lc 17,13; Mt 8,4; Mc 9,22). Nên ghi nhận rằng Tin Mừng không ghi phép lạ nào mang tính cách trừng phạt, như đã xảy ra dưới thời Ngôn sứ Elia và Elisêu (1V 17,1; 2V 1,9-12) hoặc ngay cả vào thời thánh Phêrô và Phaolô (Cv 5,1-11; 13,4). Đức Giêsu đã quở trách hai ông Giacôbê và Gioan khi họ xúi Người khiến lửa trên trời xuống đốt cháy làng dân Samari vì đã không tiếp đón họ (Lc 9,55-56).
– 2) Trong bối cảnh đó, chúng ta có thể vạch thêm ý nghĩa thứ hai của các phép lạ: đó là chúng đánh dấu triều đại của Thiên Chúa. Như đã có lần nói, các từ ngữ “Nước Thiên Chúa, Triều đại của Thiên Chúa, chủ quyền của Thiên Chúa” đều tương đương vói một từ ngữ trong nguyên bản Hy Lạp (Basileia tou Theou). Các Ngôn sứ dùng từ ngữ ấy để ám chỉ thời buổi Thiên Chúa sẽ xuất hiện để cứu thoát dân của Người, tương tự như hồi Xuất hành. Thế nhưng, biến cố Xuất hành chỉ liên hệ tới việc giải phóng chính trị xã hội của dân Do Thái, còn Đức Giêsu thì đã mở rộng nhãn giới hơn. Đây là một cuộc giải phóng toàn diện con người khỏi hết những gì ngăn trở con người không được phát triển tiềm lực của mình. Bệnh tật là một trường hợp điển hình: người mù, người câm điếc, người què, người bại liệt không thể nhìn, nghe, nói, đi lại như bao nhiêu người khác. Người cùi lại còn khổ hơn, bởi vì họ không được tiếp xúc với xã hội. Khi chữa lành các tật bệnh đó, Đức Giêsu giúp cho họ được trở về cuộc sống lành lặn bình thường. Hơn thế nữa, Đức Giêsu cũng dư biết rằng một cơ thể lành mạnh chưa đủ để làm cho con người được hạnh phúc. Sự lành mạnh tâm lý cũng cần thiết nữa. Chúng ta có thể gán các vụ trừ quỷ trong bối cảnh đó.[11] Đức Giêsu đã hơn một lần giải thích ý nghĩa của việc trừ quỷ, đó là nhằm cho thấy rằng Người còn mạnh sức hơn quỷ (Mt 12,25-29; Lc 11,17-22; xc. Lc 10,18). Thế nhưng, nhìn về phía các nạn nhân, thì ta thấy việc trừ quỷ giúp cho họ được phục hồi tâm lý quân bình lành mạnh, không còn phải nơm nớp lo sợ gì nữa. Nói đúng ra, con người phải lo lắng nhiều chuyện lắm, khiến cho họ mất ăn mất ngủ: từ chuyện cơm bánh hằng ngày, cho tới chuyện bang giao xã hội, và nhất là chuyện chết. Dù trên đời này có ai sung sướng đến mấy đi nữa, rồi cũng đến lúc phải ra đi với hai bàn tay trắng, với tương lai thật là mờ mịt ở thế giới bên kia! Việc Đức Giêsu cho vài người chết được sống lại (một chuyện xem ra khó tin) được thánh Gioan giải thích như là dấu chỉ cho thấy rằng Đức Giêsu mang lại cho con người sự giải phóng khỏi tai ương ác ôn nhất, đó là sự chết.[12]
– 3) Mặt khác, chúng ta cũng cần phải lưu ý đến tính cách nghịch lý của các phép lạ. Tuy Đức Giêsu đã làm phép lạ để chứng tỏ rằng triều đại Thiên Chúa đã đến, nhưng điều này không có nghĩa là Người làm phép lạ cách ồ ạt. Thật khó mà tính được con số các phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện trong thời gian thi hành sứ vụ. Các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, ngoài những trình thuật về phép lạ cụ thể[13], đôi khi còn thêm những nhận xét rất tổng quát, chẳng hạn Mt 4,23: Đức Giêsu đi khắp miền Galilee, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân. Danh tiếng Người đồn ra khắp xứ Siria. Thiên hạ đem dến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, và Người đã chữa họ (Mt 4,23-24;xc. 8,16; 11,5, 12,15; 14,34-36; 15,30-31 và song song). Tuy nhiên, thánh Gioan thì rút lại còn có 7 “dấu chỉ” (cộng thêm một phép lạ nữa sau khi Chúa sống lại). Dù sao thì cả Marco lẫn Gioan đều nêu bật mối liên hệ giữa lòng tin và phép lạ (Ý nghĩa thứ ba). Đối với thánh Gioan thì phép lạ dường như nhằm gợi lên lòng tin. Ở chương 10, câu 37-38, chúng ta đọc thấy lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó” (xc. 5,36-37; 10,25). Tuy nhiên, ở nhiều đoạn khác trong Tin Mừng, thì Đức Giêsu đòi phải có lòng tin đã thì mới làm phép lạ được. Chẳng hạn như Mc 2,5 cho biết là người bại liệt được chữa là nhờ có lòng tin. Người cũng nói với một bà bị băng huyết rằng: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5, 34); tiếp đó, bước vào nhà ông Giairô có đứa con gái đã chết , Người khuyên ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36). Ngược lại, tại Nazareth, Đức Giêsu không làm phép lạ bởi vì họ thiếu lòng tin (Mc 6,5-6). Và khi người Pharisee xin một dấu lạ từ trời, thì Người đã “não nuột” khước từ (Mc 8,11). Cần phải thú nhận rằng không dễ gì mà dung hợp những đoạn văn xem ra trái nghịch nhau như vậy. Điểm gay cấn ở tại chỗ: phải hiểu thế nào là “tin” (lòng tin)? Có lúc xem ra “tin” chỉ có nghĩa là “tin tưởng” nơi quyền năng của Đức Giêsu. Do đó người đồng hương của Người và người Pharisee đã bị khước từ vì họ chỉ muốn thử Người chứ thực ra trong bụng thì coi rẻ Người; trong khi đó, bà mẹ người Canaan kiên trì nài nẵng vì tin tưởng nơi lòng từ bi của Người (Mt 15,27-28), hay người phụ nữ bị băng huyết tin tưởng cách hồn nhiên nơi quyền lực của Người thì đã được toại nguyện. Nói chung, lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi ở đây là nhận biết rằng Thiên Chúa đang tác động nơi Người, Thiên Chúa muốn thi thố lòng thương xót qua Người. Còn thánh Gioan thì nói tới niềm tin ở cấp độ cao hơn, tức là thâm tín rằng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, như chính tác giả đã cho thấy ở kết luận tác phẩm của mình:
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người (Ga 20,30-31).
Thánh Gioan chỉ ghi lại có 7 “dấu lạ” mang tính cách mặc khải tập tính của Đức Giêsu, là ánh sáng, bánh trường sinh, sự sống. Thực ra đó chính là đích điểm mà tất cả các tác giả Tin Mừng muốn dẫn chúng ta đến, tuy mỗi vị áp dụng một kỹ thuật sư phạm khác nhau. Tất cả các phép lạ cần phải dẫn đến đức tin vào thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu. Nếu ai đã đạt tới điểm đó rồi thì phép lạ không cần thiết nữa, như Đức Kitô đã nói với Tông Đồ Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Trái lại, nếu ai không đạt tới điểm đó thì việc chứng kiến các phép lạ sẽ chẳng ích lợi gì. Đức Giêsu đã có lần quở trách các thành đã chứng kiến các phép lạ mà không chịu sám hối: Khốn cho ngươi, hỡi Coradin! Khốn cho ngươi, hỡi Betsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyr và Xiđon thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tyr và Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi (Mt 11,21-23). Matthew (7,22-23) còn thêm một lời cảnh cáo nghiêm trọng hơn nữa, đó là: có những người nhận được quyền làm phép lạ nhân danh Đức Kitô nhưng đặc sủng ấy đôi khi chẳng mang lại ích chi cho phần rỗi: Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”. Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi!”.
MỤC 3
GIÁO HUẤN LUÂN LÝ CỦA ĐỨC GIÊSU
Chúng ta đã nhận thấy có những điểm nghịch lý trong sứ điệp của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Lắm lần các dụ ngôn mà Người kể có tính cách ngược đời. Lối sống của Người cũng bị mang tai tiếng vì Người hay đi ăn uống với phường tội lỗi và thu thuế. Các phép lạ của Người cũng mang tính cách nghịch lý không kém, bởi vì tuy chúng là dấu hiệu của Nước Thiên Chúa đã đến, nhưng Người không làm phép lạ một cách bừa bãi và thậm chí Người còn khước từ làm phép lạ khi thấy thiếu lòng tin. Hình như Đức Giêsu thích sử dụng những lời nói và hành động nghịch lý như vậy để cho thấy rằng đường lối của Thiên Chúa không giống như các phạm trù mà chúng ta muốn gán cho Người. Đức Giêsu muốn cho thấy Thiên Chúa là người Cha đầy tình thương, đặc biệt là đối với những kẻ lầm đường lạc lối. Sứ điệp ấy quả là một Tin Mừng cho những kẻ nhận biết mình tội lỗi, nhưng lại trở nên duyên cớ bực tức cho những ai xưa nay cố gắng chu toàn luật lệ của Chúa, điển hình là nhóm Pharisee và các Kinh sư! Trên thực tế, Đức Giêsu không phải là kẻ mị dân khi bày tỏ khuôn mặt nhân từ của Thiên Chúa. Sứ điệp về Thiên Chúa của lòng nhân từ đã đặt ra nhiều yêu sách hơn là sứ điệp về Thiên Chúa của lề luật! Giáo huấn của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa chứa đựng rất nhiều yêu sách cam go. Chúng ta hãy lấy một thí dụ cụ thể về chuyện người nghèo. Trong hội đường Nazareth, Đức Giêsu cho biết là Thần khí Chúa đã sai Người đi mang Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4,18). Cả Matthew lẫn Luca đều ghi lại lời tuyên bố của Người về mối phúc dành cho người nghèo (Mt 5,3; Lc 6,20). Thật là sướng biết mấy khi được nghe lời tuyên bố đó, nhất là đối với lớp dân nghèo xưa nay vẫn bị xếp vào hạng bạc phước! Thế nhưng đồng thời với việc công bố Tin vui, Đức Giêsu lại rút ra một hệ luận thực tiễn, đó là cần phải trở nên nghèo thì mới có thể vào Nước Thiên Chúa (xc. Mc 10,23; Mt 19,23-26; Lc 18,24-27). Từ một điểm cụ thể vừa trưng dẫn, ta có thể hiểu được lý do vì sao lời loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa kèm theo lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14). Việc sám hối (thay đổi não trạng và nếp sống) là điều kiện để có thể nhận ra được Tin Mừng và được tiếp nhận vào Nước Thiên Chúa. Chính vì thiếu sự sám hối như vậy cho nên các Kinh sư và nhóm Pharisee không nhận ra được Thiên Chúa của lòng lân tuất (Mt 9,13; 12,7). Chính vì thiếu sự sám hối cho nên bao nhiêu người đã bị loại khỏi bàn tiệc Nước Trời (Mt 8,11-12; 11,23).
NHỮNG PHẢN ĐỀ
Như vừa nói, việc sám hối bao gồm một sự thay đổi não trạng cũng như nếp sống. Tuy cả hai cần đi đôi với nhau, nhưng xét theo luận lý thì việc thay đổi não trạng phải đi trước. Việc thay đổi não trạng lại càng trở nên khẩn trương hơn nữa, bởi vì giáo huấn của Đức Giêsu chứa đựng nhiều điều nghịch lý, nếu xét theo quan điểm thường tình. Có lẽ đó là chủ ý của Matthew khi trình bày bài giảng Trên núi của Đức Giêsu dưới hình thức phản đề: “Anh em vốn nghe nói như thế này… Còn Thầy, Thầy bảo anh em như thế này”. Chúng ta thử rảo qua một vài phản đề trong giáo huấn đó.
Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị hỏa ngục thiêu đốt (Mt 5,21-22). Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi (Mt 5,27-28). Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa (Mt 5,38-39). Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5,43-48).
Như đã có lần lưu ý, có lẽ Đức Giêsu đã chẳng bao giờ giảng một dài ở trên núi theo hình thức mà ta đọc trong Tin Mừng của thánh Matthew. Bằng cớ là những tư tưởng tương tự đã được thánh Luca lồng trong khung cảnh của bài giảng ở bình nguyên (Lc 6,20-49). Nói cách khác, có lẽ lúc ban đầu Đức Giêsu đã tuyên bố những lời ấy vào những cơ hội khác nhau; về sau các câu đó được thu thập lại theo từng đề tài, và được Matthew và Luca xếp đặt với dụng ý huấn giáo. Viết cho độc giả Do Thái, thánh Matthew trình bày các phản đề đối lại với não trạng của họ lúc đó, nhằm nêu bật tính cách mới mẻ của giao ước mới mà Đức Giêsu đã khai mào. Sự đối chọi như được đặt ra giữa luật cũ và luật mới. Thế còn đối những độc giả không phải là người Do Thái, thì giáo huấn của Đức Giêsu có gì mới lạ hay không? Nếu có, thì nó “mới” ở điểm nào?
Câu hỏi thứ nhất dễ trả lời hơn. Giáo huấn của Đức Giêsu có điều mới lạ. Nhưng sang câu hỏi thứ hai thì các ý kiến bắt đầu chia rẽ. Những kẻ đối lập sẽ đồng hóa sự “mới lạ” với điều “ngược đời, dổm”, hay nói cho gọn hơn: “khùng”! Còn những ai có cảm tình thì cũng không nhất trí.
– Có người cho rằng Đức Giêsu muốn thực hiện một cuộc cách mạng xã hội, khi đề cao yêu thương tha thứ thay vì vũ lực bạo động. Leo Tolstoi (1828-1910), Mahatma Gandhi (1869-1948), Martin Luther King (1929-1968) đã thâm tín điều đó, và họ theo đuổi chính sách bất bạo động để tranh đấu cho công lý. Phải nhận rằng ít người dám tin tưởng có thể thay đổi xã hội bằng chính sách bất bạo động. Tuy vậy, trải qua lịch sử, đã có nhiều nhân vật thay đổi được bộ mặt xã hội nhờ thâm tín vào giáo huấn của Tin Mừng, chẳng hạn về tình yêu đại đồng, về tinh thần phục vụ.
– Có người nhấn mạnh tới cuộc cách mạng nội tâm. Đức Giêsu muốn cho con người sống chân thực với chính mình bằng cách quay về với lòng mình (con tim, tâm hồn). Giá trị của các hành vi được đo lường từ thâm tâm, trước khi phát biểu thành lời nói việc làm. Triết gia Emmanuel Kant đại diện cho khuynh hướng này.
– Có người lại giải thích tính cách ngược đời trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bối cảnh cánh chung. Triều đại của Thiên Chúa tương ứng với thời kỳ chót của lịch sử: con người cần phải cư xử dựa theo tiêu chuẩn hoàn thiện của Thiên Chúa (Albert Schweitzer).
Chúng tôi không dám phê bình các quan điểm vừa nói, bởi vì nghĩ rằng ý kiến nào cũng có phần đúng của nó. Dù sao, Đức Giêsu không phải chỉ là một lý thuyết gia về luân lý, theo nghĩa là Người không chủ ý thảo hoạch một học thuyết toàn bộ về luân lý dưới mọi khía cạnh: bản thân, gia đình, xã hội. Mặt khác, giáo huấn của Đức Giêsu không chỉ giới hạn vào những tương quan giữa con người với nhau mà thôi; giáo huấn của Người còn bao hàm cả mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu mang Nước Thiên Chúa đến cho con người, và giúp cho con người được vào Nước của Thiên Chúa.
Nếu ai muốn biết thêm về luân lý của Kitô giáo thì có thể tham khảo Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (Phần thứ hai). Ở đây chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở một điểm được coi như là trọng tâm của giáo huấn luân lý, đó là: yêu thương. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi lại lời của Đức Giêsu về nõi cốt của các giới răn.
Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó (Mc 12,29-30; Mt 22,37-39; Lc 10,27).
Thoạt tiên xem ra chẳng có chi mới lạ trong giáo huấn này cả. Đức Giêsu chỉ làm một bản tóm lược “Lề luật và các Ngôn sứ” (Mt 22,40; xc. Đnl 27,15-26; Lv 19,1-18; Ed 18,5-9). Giữa một rừng luật lệ và giới răn, con người dễ bị lạc hướng, không còn biết đâu là đường cái và đâu là đường mòn nữa! Đức Giêsu đã vẽ một bản đồ dẫn đường. Tuy nhiên, khi đọc lại giáo huấn vừa nói trong toàn bộ của Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận thấy Đức Giêsu không những chỉ tóm lược mà còn đổi mới nữa. Có thể nêu bật 3 điểm mới mẻ trong giới răn yêu thương (xc. Ga 13,34: giới răn mới): mở rộng nhãn giới thân cận; yêu thương kẻ thù; lấy Thiên Chúa làm chuẩn.
– 1) Đức Giêsu là nới rộng tầm mức của hạn từ “người thân cận”. Hạn từ này vốn được hiểu là người láng giềng gần gũi với mình, hoặc đồng bào cùng một dân tộc với mình, dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Đức Giêsu đã nới rộng vòng đai ấy, qua dụ ngôn người Samari nhân hậu. Người Samari vốn bị người Do Thái coi là dân ngoại, và đối xử như kẻ thù. Thế mà chính người Samari đã để lại bài học về việc yêu thương, khi ông ta chẳng có nhìn tới màu da sắc tộc mà chỉ nhìn thấy một con người đang cần được giúp đỡ.
– 2) Điểm mới mẻ thứ hai trong giới răn yêu thương của Đức Giêsu ở chỗ sự tha thứ dành cho kẻ thù. Người nhấn mạnh tới điểm này đến nỗi đã đặt nó vào kinh “Lạy Cha”: Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con (Mt 6,12), và bình luận thêm: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14). Người còn kể một dụ ngôn để làm sáng tỏ điểm này nữa, dụ ngôn về người đầy tớ không biết thương xót, vì vậy mà không được xót thương (Mt 18,23-34).
– 3) Điểm mới mẻ thứ ba là gán cho sự yêu thương một ý nghĩa thần linh. Các tôn giáo khác đã nói tới việc “thương người như thể thương thân”. Nhưng Đức Giêsu thì đòi hỏi hơn nữa: cần phải thương người như Cha trên trời yêu thương họ. Đó là lý do giải thích cho tính cách nghịch lý của giáo huấn của Đức Giêsu. Thực vậy, quan niệm bình thường là yêu kẻ yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Chuyện yêu thương người dưng nước lã và nhất là yêu thương kẻ thù[14] là một điều phi lý ngược đời. Sự nghịch lý chỉ có thể vượt qua khi biết nâng cao tiêu chuẩn, nghĩa là nhìn đến tình yêu của Cha trên trời đã cho mưa nắng xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương. “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36). Vì lẽ đó, Đức Giêsu coi việc thực thi yêu thương cũng có giá trị như là việc thờ phượng Thiên Chúa:
+ Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với nguời anh ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình (Mt 5,23).
+ Trong bài giảng về cuộc phán xét, Đức Giêsu cho thấy rằng Chúa kể các việc lành làm cho anh em như là làm cho chính Chúa vậy (Mt 25,31-46).
CON NGƯỜI VỚI THIÊN CHÚA
Thiết tưởng chúng ta sẽ đánh giá sai sự nghiệp của Đức Giêsu nếu chúng ta chỉ coi Người như một nhà mô phạm luân lý. Những lời khuyên răn về yêu thương kẻ thù quả thực là đẹp, nhưng rất khó thực hành. Kẻ đối lập sẽ cho rằng đó là tư tưởng ngông cuồng, rởm đời, hơi đâu mà bận tâm! Thế nhưng nói được là những tư tưởng ấy đã đưa Người tới chỗ chết! Người ta giết Người không phải vì muốn loại trừ một tên khùng, nhưng là vì muốn trừng trị một kẻ đã can tội phạm thượng. Tại sao gọi là phạm thượng? Tại vì những giáo huấn của Người không phải chỉ liên hệ tới mối tương quan giữa con người với nhau mà còn liên hệ tới mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa nữa.
Chúng ta đã thấy phần nào điểm táo bạo trong giáo huấn của Đức Giêsu về sự thương yêu. Táo bạo ở chỗ lấy Thiên Chúa làm mẫu mực cho việc thương yêu tha nhân, không phân biệt kẻ lành người dữ. Táo bạo ở chỗ dám coi việc thương yêu tha nhân như là một hành vi thờ phượng Thiên Chúa (xc. Mt 12,7). Và như vậy mặc nhiên là Đức Giêsu đã xét lại toàn bộ mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, điển hình qua việc thờ phượng. Chính ở lãnh vực này Đức Giêsu đã đụng chạm nhiều lần với giới lãnh đạo Do Thái.
Chúng ta dễ hình dung rằng người Do Thái (cũng như bao nhiêu tín đồ sùng đạo khác) sẽ không thể nào tha thứ cho một người dám tự xưng là Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải Thánh Kinh hoài nghi không biết có khi nào Đức Giêsu lại dại dột làm chuyện đó hay không. Tin Mừng Nhất Lãm không bao giờ ghi lại lời tuyên bố như vậy cả. Các tước hiệu Kitô, Con Thiên Chúa được đặt trên môi của các môn đệ hay của các người khác (khi họ bày tỏ lòng tin đối với Người), chứ không phải là do Người tự xưng! Nhưng chúng ta tạm gác lại vấn đề căn cước của Đức Giêsu vào một dịp khác (chương 5, mục 2). Bây giờ chúng ta hãy dừng lại ở những lời phát biểu quan điểm của Người về việc thờ phượng Thiên Chúa thì cũng đủ hiểu được vì sao Người bị kết tội là phạm thượng. Tin Mừng thường ghi lại sự đụng độ giữa Đức Giêsu với cấp lãnh đạo tôn giáo Do Thái chung quanh việc giải thích các luật lệ quy định ngày Sabath và sự kiêng khem. Mặt khác, Đức Giêsu cũng đả kích thái độ cầu nguyện của dân ngoại và của nhóm Pharisee. Trước tiên, chúng ta hãy xem cuộc tranh luận về các luật lệ phụng tự.
Lề luật phụng tự
Như chúng ta đã biết, trong số 10 giới răn, thì 3 giới răn đầu chi phối các nghĩa vụ của con người đối với Thiên Chúa, còn các giới răn còn lại liên can tới các nghĩa vụ đối với tha nhân. Bằng lời nói và việc làm, Đức Giêsu đã nhiều lần công kích việc tuân giữ ngày Sabath, đối tượng của giới răn thứ ba. Theo Luật Moses (Xh 20,8-11; xc. Đnl 5,12-15), con người phải thánh hóa ngày Sabath bằng cách ngừng làm việc (Shabbat có nghĩa là: ngưng). Thế nhưng, trải qua thời gian, đã có rất nhiều cuộc tranh luận và học thuyết đề ra về thể thức tuân giữ ngày Sabath: việc gì được phép làm, việc gì không được phép làm trong ngày Sabath? Các việc được phép làm thì trong vòng mấy tiếng đồng hồ? Có thể di chuyển bao nhiêu dặm đường trong ngày Sabath?
Đức Giêsu đã công kích việc tuân giữ ngày Sabath một cách máy móc theo ý kiến của các Kinh sư mà bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy theo ý định của Thiên Chúa. Thay vì coi đó như là biến cố hân hoan vì được tự do phụng sự Thiên Chúa, các Kinh sư đã biến nó thành một cái ách đè nặng trên con người. Lập trường của Đức Giêsu được bày tỏ qua các việc chữa bệnh trong ngày Sabath (Mc 2,23-28; 3,1-6; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,9; 9,14), dường như muốn nêu bật điểm đó: Người muốn cho con người phục hồi tâm tình thoải mái trong ngày Sabath: “Ngày Sabath được làm cho con người, chứ không phải con người được làm cho ngày Sabath” (Mc 2,27). Đặc biệt là Người không muốn tách rời việc thờ phượng Thiên Chúa khỏi việc thực hành bác ái. Không thể lấy cớ nghỉ việc vì lý do thờ phượng để thoái thác giúp đỡ một nhu cầu cấp bách của tha nhân.
Một tục lệ khác gắn liền với công tác thờ phượng là việc tuân giữ sự thanh tịnh, tránh không được đụng chạm đến những người hay những đồ vật bị liệt vào hạng ô uế. Danh mục các loài ô uế đã được liệt kê trong sách Lêvi 11,1-47; Đnl 14,3-21. Nhưng với dòng thời gian, danh mục cứ tăng dần. Thực ra, vào lúc đầu, việc kiêng lánh các đồ ô uế biểu hiệu cho sự thanh sạch của Dân Thiên Chúa, nhất là khi họ tiến tới gần Đấng cực thánh (Lv 20,7). Tiếc rằng, dần dần người ta đã đánh mất đi ý hướng đó và chỉ còn chú ý tới các chi mục bề ngoài. Đức Giêsu công kích thái độ của những ai chỉ chú trọng tuân giữ sự thanh tịnh bề ngoài mà xao lãng sự thanh tịnh nội tâm (Mc 7,6-7). Người kết án thái độ ấy là giả hình.[15] Người nhấn mạnh tới sự ô uế phát sinh từ lòng dạ con người: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho ô uế.. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng, Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ô uế (Mc 7,15.20-23).
Đức Giêsu cũng nặng lời với thói tục buôn bán ở bên cạnh đền thờ (Mc 11,15; Ga 2,14-15). Thực ra thì tự nó, việc đó không phải là một chuyện đồi trụy, bởi vì các tín hữu cần phải sắm lễ vật để mang vào dâng tiến trong đền thờ. Tuy nhiên, cảnh ồn ào náo nhiệt đã làm mất vẻ tôn nghiêm của đền thờ, biến nhà cầu nguyện thành hang trộm cướp. Nói cách khác, Người công kích những ai biến chuyện đạo đức thành cơ hội buôn thần bán thánh.[16] Dù sao, những lời của Đức Giêsu chống lại đền thờ còn mang ý nghĩa sâu xa hơn dưới con mắt của các thánh sử (xc. Ga 2,19).[17] Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này khi xét tới lý do xử án Đức Giêsu.
Việc cầu nguyện
Những tục lệ vừa trưng dẫn mới chỉ ảnh hưởng cách gián tiếp đến việc thờ phượng. Bây giờ chúng ta hãy đi vào chính việc thờ phượng trực tiếp, biểu lộ qua việc cầu nguyện.
Chúng tôi đã có lần nhắc tới giáo huấn của Đức Giêsu về việc cầu nguyện. Người muốn con người hãy tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Kinh “Lạy Cha” biểu lộ phần nào lòng tin tưởng đó, khi chúng ta không ngại mở miệng xin Cha cơm bánh lương thực hằng ngày. Chúng tôi cũng có dịp nhắc tới lời căn dặn của Đức Kitô về việc cần thiết phải tha thứ cho tha nhân nếu chúng ta muốn được Cha tha thứ.
Ở đây, chúng tôi xin ghi nhận hai lời giáo huấn của Đức Giêsu có tính cách phản đề. Một lần Người bài xích lối cầu nguyện của dân ngoại; lần khác Người bài xích lối cầu nguyện của người Pharisee. Cả hai lối cầu nguyện ấy phản ánh hai hình ảnh lệch lạc về khuôn mặt của Thiên Chúa.
– a/ Sự đối chọi thứ nhất được Matthew ghi lại trong bài giảng trên núi:
Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin (Mt 6,7-8).
Có lẽ ở đây Đức Giêsu không đả kích việc đọc kinh dài hơi. Luca còn để lại cho ta lời khuyên của Người hãy kiên trì cầu nguyện, gõ cửa mãi thì cửa sẽ mở (Lc 11,5-10; 18,1-7). Sự đả kích nhằm tới chuyện đọc kinh cách máy móc, có vẻ như đặt tin tưởng vào hiệu năng của các lời bùa chú hơn là tin tưởng vào tình yêu của Cha (xc. Mt 7,21).
– b/ Sự đối chọi thứ hai cũng được ghi lại trong bài giảng trên núi, và còn được diễn tả thành một dụ ngôn ở Luca nữa.
Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thực anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh (Mt 6,5-6).
Có lẽ dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện được Luca thuật lại là một thí dụ điển hình cho thái độ đó. Tuy nhiên, vài nhà chú giải Thánh Kinh còn muốn vạch ra dụng ý thâm sâu hơn cả. Chúng ta hãy nghe dụ ngôn, rồi sau đó sẽ bình luận: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisee, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisee đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,10-14).
Câu kết luận của dụ ngôn hình như chỉ giới hạn vào bài học về thái độ khiêm nhường cần có khi cầu nguyện. Nhưng nếu chỉ có thế mà thôi, thì giáo huấn của Đức Giêsu chẳng có chi độc đáo. Các tâm tình kín đáo, trầm lặng, khiêm tốn đều đã được các nhà chân tu nhắc nhở rồi. Theo các nhà chú giải, dụ ngôn này không chỉ chứa đựng một lời khuyên luân lý mà còn liên can tới đạo lý về ơn cứu rỗi nữa. Người Pharisee tưởng rằng sự cứu rỗi là phần thưởng dành cho các cố gắng làm việc lành phúc đức, ăn chay bố thí; nhưng ông ta đã lầm! Còn người thu thuế không dám khoe khoang công trạng, mà chỉ biết cậy vào lòng nhân hậu của Chúa; và ông đã được hồng ân thương xót. Phải chăng đó mới là ý nghĩa chính của bài dụ ngôn: vừa muốn dạy cho chúng ta cách thức cầu nguyện (tâm tình thống hối khiêm nhường) vừa muốn chấn chỉnh não trạng của chúng ta về Thiên Chúa, một Thiên Chúa của lòng thương xót chứ không phải một Thiên Chúa chủ nhân trả tiền công? (Nếu đó là dụng ý của dụ ngôn thì nó có thể xếp cùng loại với dụ ngôn của người cha nhân hậu, hay dụ ngôn về ông chủ trả tiền công).
Nói như vậy, thì hóa ra Đức Giêsu thuộc hạng mị dân ư? Phải chăng Người khuyên chúng ta đừng tu thân tích đức làm gì cho khổ thân; chỉ cần tín thác vào Cha nhân lành là đủ rồi? Không phải thế! Đức Giêsu đã đặt ra nhiều yêu sách để được vào Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa mang theo nhiều yêu sách, nhưng là yêu sách của tình yêu.
III. NHỮNG YÊU SÁCH CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA
Khi giảng về Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn nêu bật một đặc điểm cố hữu là lòng thương xót vô hạn của Cha trên trời. Thiên Chúa thiết lập triều đại qua việc thi thố lòng nhân hậu đối với con người tội lỗi. Tuy nhiên, Tin Mừng của lòng lân tuất cũng đặt ra một số nghĩa vụ cho con người. Kèm theo việc công bố về triều đại Thiên Chúa đã đến là lời kêu gọi hoán cải. Chúng ta đã có dịp nhận thấy rằng xét vì Nước Thiên Chúa được dành cho người nghèo, người hèn mọn, cho nên con người cần phải trở nên nghèo và bé nhỏ thì mới cảm nhận được lòng thương xót của Cha nhân lành. Điển hình là các tội nhân, các người thu thuế dễ đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu hơn các người Pharisee.
Ngoài yêu sách phải cải hoán, thay đổi não trạng trong quan điểm về Thiên Chúa, Đức Giêsu còn nói tới những yêu sách khác nữa để có thể tiếp nhận Nước Thiên Chúa. Thiết tưởng đây là một điểm khó khăn trong việc trình bày bản chất của Nước Thiên Chúa; và sự khó khăn lại càng lớn hơn nữa khi phải mang ra áp dụng những yêu sách vừa nói.
Bản chất Nước Thiên Chúa
Chúng tôi có lần lưu ý về sự khó khăn trong việc dịch thuật từ ngữ basileia tou Theou. Khi muốn nhấn mạnh tới tác động của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử, thì có thể dịch là “Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa thiết lập chủ quyền”; còn khi muốn nói tới ảnh hưỏng không gian hay thời gian của tác động ấy thì có thể dịch là: “Nước (Vương quốc) Thiên Chúa, Triều đại của Thiên Chúa”.
Một khó khăn khác nữa là có khi thì Đức Giêsu cho biết rằng Nước Thiên Chúa đã đến rồi: Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử qua các hành động mà Đức Giêsu biểu lộ đối với người tội lỗi, người bệnh tật, người đau yếu. Đó là một sự can thiệp hoàn toàn do sáng khởi của Thiên Chúa. Con người chỉ cần biết tiếp nhận tình thương đó. Nhưng đôi khi Đức Giêsu lại nói tới nước Thiên Chúa trong tương lai, nơi chính Đức Giêsu sẽ vào, và Người đem theo các môn đệ vào dự tiệc với mình. Chính trong bối cảnh này, chúng ta đọc thấy nhiều lời tuyên bố về các điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa; và Người cũng không ngại cảnh cáo về nguy cơ sẽ bị loại khỏi Nước Thiên Chúa.
Như vậy ta thấy từ ngữ “Nước Thiên Chúa” bao hàm nhiều chiều kích xem ra đối nghịch nhau: vừa hiện tại vừa tương lai; vừa là hồng ân vừa đặt ra yêu sách; vừa là sáng khởi của Thiên Chúa vừa đòi hỏi sự đáp ứng của con người; vừa đề cao lòng thương xót vừa cảnh cáo sự xét xử nghiêm khắc đến nỗi có thể đưa con người tới chỗ diệt vong.
Chúng ta hãy điểm qua vài tính cách ấy trong lời giảng của Đức Giêsu.
Yêu sách của Nước Thiên Chúa
Những lời cảnh cáo về tính cách nghiêm trọng của việc đón nhận sứ điệp Đức Giêsu cũng như yêu sách phải uốn nắn cuộc đời đã được diễn tả qua hình ảnh của cơn cuồng phong hay nước lũ có thể lôi kéo theo sự tiêu hủy nhà cửa: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7,24-27; xc. Lc 6,47-49).
Dĩ nhiên, hình ảnh vừa rồi không nhằm tiên báo thời mục xấu sắp ập tới cho bằng nhằm cảnh giác con người hãy biết khôn ngoan chọn lựa vật liệu khi xây cất nhà cửa, liệu làm sao để cho nó được kiên cố, tránh cảnh sụp đổ vừa tan gia bại sản vừa thiệt mạng nữa.
Trong lời giảng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu nhiều lần nói tới hậu quả nghiêm trọng do sự thái độ quyết định của con người. Hậu quả đó được diễn tả qua từ ngữ “xét xử, thanh lọc, loại bỏ” về phía Thiên Chúa; nhưng chung quy cũng là tại thái độ về phía con người mà thôi.
– 1/ Hình ảnh thanh lọc được nói tới trong dụ ngôn về cỏ lùng phải gạn ra khỏi lúa tốt (Mt 13,24-30), về ngư phủ nhặt cá tốt và vứt cá xấu (Mt 13,47-50). Sự thanh lọc giả thiết sự chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu, giữa hàng tốt và hàng xấu (thí dụ như hai người đàn bà đang xay bột, thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại: Lc 17,35).
– 2/ Như vậy, sự thanh lọc (hay xét xử) không có tính cách độc đoán, nhưng dựa theo tiêu chuẩn khách quan của hành vi tốt hay xấu. Chính vì thế mà Đức Giêsu kêu gọi con người hãy ý thức về trách nhiệm trong các hành động của mình. Thực ra thì nhà mô phạm nào mà chẳng khuyên con người phải ăn ngay ở lành? Tuy nhiên, ngoài những lời khuyên răn có tính cách luân lý đạo đức, Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến tính cách khẩn trương, bởi vì công cuộc thanh lọc gần kề, có thể xảy tới lúc nào không biết được. Thực vậy, trong Tin Mừng, chúng ta đọc thấy những lời khuyên về sự trung tín tận tụy với bổn phận, chẳng hạn những dụ ngôn về các đầy tớ nhận lãnh nén bạc (Mt 25,14-30; Lc 19,12-27); đồng thời chúng ta cũng đọc thấy những lời khuyên về sự tỉnh thức, bởi vì không biết giờ nào ông chủ sẽ trở về tính toán sổ sách (Mt 24,45-51; Lc 12,37.43-46). Tính cách khẩn trương còn được nêu bật hơn nữa, qua hình ảnh về tên trộm: hắn lẻn vào ban đêm, vào lúc không ngờ; hắn không hề báo trước ngày giờ (Mt 24,42-43; Lc 12,39).[18]
– 3/ Qua những điều vừa ghi nhận, chúng ta thấy rằng Nước Thiên Chúa không phải chỉ là cái gì thoảng qua chốc lát trong cuộc đời của Đức Giêsu, nhưng nó có liên hệ tới định mạng vĩnh cửu của nhân loại nói chung và của từng người nói riêng. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa chính là hạnh phúc của con người. Vì thế, con người phải quyết định chọn lựa phương thế để được vào Nước Thiên Chúa, bởi vì ai bị loại khỏi Nước Thiên Chúa tất nhiên sẽ bị diệt vong. Con người cần phải biết đánh giá tất cả các sự việc ở đời này theo tiêu chuẩn đó, nghĩa là: chúng có đưa ta vào Nước Chúa, hay là chúng làm cho ta bị loại khỏi Nước Chúa? Đức Giêsu đã dùng nhiều lối nói, nhiều hình ảnh để diễn tả chân lý đó. Chúng ta thử xếp đặt lại một vài hình ảnh, từ chỗ có vẻ hãi hùng đến chỗ thanh tao; nhưng trong cả hai trường hợp chúng đều đòi hỏi con người phải cải hoán, phải hy sinh. Trước hết, sự lựa chọn từ bỏ được diễn tả qua hình ảnh cắt chặt cơ thể:
“Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi: thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9,43.45.47).
Hình ảnh vừa rồi xem ra tàn nhẫn nhưng vẫn còn mang tính cách ích kỷ, bởi vì chỉ cốt để tránh một thiệt hại to lớn hơn. Giữa hai sự dữ, ai chẳng lựa sự dữ kém hơn? Trong dụ ngôn tiếp theo đây thì tâm lý đã đổi hướng: khi đã khám phá được cái tốt hơn, thì người ta sẵn sàng khước từ một cái tốt nhưng không đáng giá bằng.
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có ngưòi kia gặp được thì đem chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44-46).
Văn chương tu Đức Kitô giáo thường áp dụng đoạn văn vừa rồi cho các tu sĩ, những người đã từ bỏ gia đình tài sản bởi vì họ đã khám phá ra giá trị cao quý của Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngày nay các nhà chú giải Thánh Kinh không chấp nhận lối giải thích đó, bởi vì theo họ, đoạn văn không có ý phân biệt giữa hai hạng người trong Hội Thánh, nhưng là nói đến phản ứng của con người trước sứ điệp của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Một cách tương tự như vậy, đoạn văn sau đây về người thanh niên giàu có không phải nhằm đặt cơ sở cho việc phân biệt giữa người “tín hữu bình thường” với người “tu sĩ muốn nên trọn lành”, nhưng là nhằm nói lên một yêu sách căn bản để được vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại đoạn văn đó, dưới ngọn bút của Marco (10,17-22):
“Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”.
Câu chuyện được thuật lại trong cả Tin Mừng Nhất Lãm (xc. Mt 19,16-12; Lc 18,18-23), với vài khác biệt chi tiết không nhỏ. Matthew coi phần thứ hai (bán tài sản, phân phát cho người nghèo) như là điều nhiệm ý (Mt 19,21: Nếu anh muốn nên hoàn thiện), và truyền thống tu Đức Kitô giáo đã dựa vào đó để phân biệt giữa “giới răn” (điều truyền buộc: preceptum), và “lời khuyên” (consilium) có tính cách nhiệm ý. Thế nhưng Marco và Luca ra như không biết tới sự phân biệt đó, bởi vì cả hai đều nằm trong yêu sách căn bản để được vào Nước Thiên Chúa. Thực vậy, Marco thuật tiếp như sau:
“Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”. Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều được” (Mc 10,23-27).
[1]Từ ngữ “Nước Thiên Chúa” còn được sử dụng ở sách Tông Đồ Công Vụ 6 lần: 1,3; 8,12; 14,22; 19,8; 28,23.31; và 4 lần ở các thư của thánh Phaolô: Rm 14,17; 1Cr 4,20; Cl 4,11; 2Tx 1,5. Còn Tin Mừng thứ IV ra như không biết tới, bởi vì chỉ nhắc tới 2 lần ở: 3,3-5. Sách Khải Huyền nói 1 lần ở 12,10.
[2]Đôi khi Matthew cũng dùng từ ngữ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43.
[3] Có thể thu lại vào 4 hoàn cảnh chính như sau: 1) Hân hoan chúc tụng: Mt 11,25-26 = Lc10,21. Có lẽ Ga 11,41 cũng xếp vào hoàn cảnh này. 2) Trong vườn Cây Dầu: Mc 14,36 = Mt 26,39.42 = Lc 22,42. Ga 12,27-28 bộc lộ tâm trạng tương tự. 3) Trên thập giá: riêng Lc 23,34.46. 4) Kinh nguyện thượng tế trong nhà Tiệc ly, theo chương 17 của Gioan.
[4] Tuy các bản dịch ra Hy Lạp và Việt ngữ không còn giữ được âm mục như là trong nguyên ngữ Aram nữa, nhưng khi đọc các bản dịch chúng ta vẫn thấy một nhịp điệu nào đó. Thí dụ: Mt 7,6: Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em (xc. Hc 6,2). Lc 6,39: Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (xc. Cn 6,27). Lc 11,9-10: Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.
[5] 1/ Người hùng (Mc 3,24-27; Mt 12,24-26; Lc 11,17-18.21-22). 2/ Hạt cải (Mc 4,30-32; Mt 13,31-32; Lc 13,18-19). 3/ Men (Mt 13,33; Lc 13,20-21). 4/ Hạt giống tự nó mọc lên (Mc 4,26-29). 5/ Kẻ gieo giống (Mt 13,3-9; Mc 4,3-9; Lc 8,5-8). 6/ Cỏ lùng (Mt 13,24-30). 7/ Đại tiệc (Lc 16,16-24; Mt 22,1-10). 8/ Hai đứa con (Mt 21,28-31). 9/ Các tá điền sát nhân (Mc 12,1-9; Lc 20,9-16; Mt 21,33-41). 10/ Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32). 11. Chiên lạc (Lc 15,4-7; Mt 18,12-14). 12/ Đồng tiền lạc (Lc 15,8-10). 13/ Hai kẻ mắc nợ (Lc 7,36-50). 14. Đầy tớ và chủ (Lc 7,7-10). 15/ Các người làm việc trong vườn nho (Mt 20,1-5). 16/ Người Pharisiêu và người thu thuế (Lc 18,9-14). 17/ Các đứa trẻ ngoài công viên (Mt 11,16-19; Lc 7,31-34). 18/ Kho tàng giấu ẩn (Mt 13,44). 19/ Viên ngọc quý (Mt 13,45). 20/ Đầy tớ ác ôn (Mt Mt 18,21-35). 21/ Người Samari nhân hậu (Lc 10,25-37). 22/ Hai kẻ tranh tụng (Mt 5,24-26; Lc 12,58-60). 23/ Quản lý tinh ranh (Lc 16,1-8). 24/ Ladarô và phú hộ (Lc 16,19-31). 25/ Phú hộ dại dột (Lc 12,16-20). 26/ Cây vả không có trái (Lc 13,6-8). 27/ Người canh cổng tỉnh thức (Mc 13,33-36; Lc 12,35-38). 28/ Kẻ trộm ban đêm (Mt 24,45-51; Lc 12,39-40). 29/ Đầy tớ trung tín (Mt 24,45-51; Lc 12,42-46). 30/ Mười trinh nữ (Mt 25,1-13). 31/ Người dự tiệc không mặc áo cưới (Mt 22,11-14). 32/ Các nén bạc (Mt 25,14-30; Lc 19,11-27). 33/ Người bạn quấy rầy (Lc 11,5-10). 34/ Bà góa kiên trì (Lc 18,2-8). 35/ Lưới (Mt 13,47)
[6] Tự nó, danh từ parabôlê trong tiếng Hy Lạp chỉ có nghĩa là: sánh ví, đối chiếu (similitudo, conlatio)
[7] Quan điểm này còn phảng phất qua lối nói lưu hành nơi các Kitô hữu gốc Do Thái, đồng hóa người thu thuế với dân ngoại: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18,17). “Người thu thuế không làm như vậy sao?… Người ngoại không làm như vậy sao?” (Mt 5,46.47).
[8] Thực ra trong nguyên bản Kinh Thánh chưa có tiếng “ngoại”, mà chỉ là “các dân” (ethnos). Lúc đầu từ ngữ này ám chỉ hết các dân tộc. Sau đó, mới có sự phân biệt giữa “Israel” (am: laos) với “chư dân” (gojim: ethnê). Israel được tuyển chọn làm dân riêng của Chúa, và thờ phượng Chúa chân thật. Còn các dân khác (= dân ngoại) thì thờ lạy ngẫu tượng. Sự lầm lẫn về phụng tự lôi kéo theo sự lầm lạc về luân lý.
[9] Chẳng hạn như vào năm 1864, D.F. Strauss viết tác phẩm Cuộc đời của đức Giêsu dành cho dân Đức, cho rằng các phép lạ là huyền thoại do các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã bịa ra.
[10] Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã đọc lại các biến cố (lời nói và việc làm) của Đức Kitô như là ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu ước. Vì vậy mà họ có khuynh hương đối chiếu Đức Kitô với các nhân vật trong Cựu ước. Do đó mà phép lạ hóa bánh và đi trên mặt nước được giải thích theo chiều hướng ví Đức Kitô là ông Môsê mới đã lấy manna nuôi dân trong sa mạc và dẫn họ vượt qua Biển Đỏ. Phép lạ cho con trai của bà góa sống lại (Lc 7,1-17) được trình bày với những nét song song với hành động của hai ngôn sứ Elia và Elisêô (1V 17,23; 2V 4,8.11.36).
[11] Sự phân biệt giữa việc chữa bệnh và trừ quỷ không đơn giản, bởi vì có những trường hợp Tin Mừng coi ma quỷ như là căn do của bệnh tật, thí dụ Mt 12,22 nói tới “một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm”. Trước đó, ở Mt 9,32-34 ta đã thấy một người câm bị quỷ ám.
[12] Ga 11,25-26. Các Tin Mừng chỉ nói tới ba trường hợp đức Giêsu cho kẻ chết sống lại: con gái ông Giairô (Mc 5,35-43), con trai bà góa ở Naim (Lc 7,11-17), Ladarô (Ga 11,17-44) .
[13] Matthew kể 19 trường hợp, Mc 18, Lc 20. Tuy nhiên con số này chỉ có tính cách tương đối, bởi vì có thể có những đoạn trùng hợp, chẳng hạn như phép lạ tăng bánh được kể hai lần ở Matthew (14,13-21; 15,32-38) và Marco (6,31-44; 8,1-10), nhưng Luca chỉ thuật một lần (9,10-17).
[14] Kẻ thù không phải chỉ là người thù địch của dân tộc, mà còn là kẻ ức hiếp (tát má bên phải), cướp giật (lấy áo ngoài), lường gạt ăn qụyt, bách hại, ngược đãi mình (Mt 5,39-44; Lc 6,27-35).
[15] “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén dĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp vô độ. Hỡi người Pharisiêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch” (Mt 23,25).
[16] “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các ngươi sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mt 23,14).
[17] Thực ra trước đây đã có những ngôn sứ đả kích những tệ đoan diễn ra nơi đền thờ, thậm chí họ cảnh cáo lòng tin tưởng mù qúang nơi đền thờ. Xc. Mk 3,9-12; Gr 26,1-15.
[18] Tin Mừng còn để lại vài dụ ngôn khác về người đầy tớ, nhưng với dụng ý khác. Dụ ngôn về quản gia bất lương (Lc 16,1-8) khuyến khích con người hãy biết “chớp lấy cơ hội”, nghĩa là thời buổi hồng ân của Tin Mừng. Đối lại, dụ ngôn về đầy tớ bất nhân (Mt 18,23-35) thì nhằm cảnh cáo những kẻ không biết thương xót tha nhân.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P.
2020
Phát triển vai trò tông đồ junior thuộc phong trào Legio Mariae trong mục vụ thăm viếng
Hiện nay, không ít người trẻ băn khoăn đi tìm ý nghĩa và hướng đi đích thực cho đời sống. Cũng như Chúa Kitô đã công bố Tin Mừng cho những người trẻ Emmau, cho các môn đệ, ngày nay Giáo Hội cũng muốn gửi đến các bạn trẻ sứ điệp của Tin Mừng: Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương các bạn trẻ, Chúa Kitô đã cứu độ các bạn; ngày hôm nay Người vẫn đang sống, vẫn đồng hành với các bạn như một người bạn thân thiết. Tuổi trẻ là ân sủng và quà tặng mà các bạn cần đón nhận với lòng biết ơn và sống sung mãn chứ không lãng phí, hãy phát huy những khả năng Chúa ban để trở thành một người trưởng thành toàn diện[1].
Tuổi trẻ là một phúc lành cho Giáo Hội và thế giới. Thật vậy, người trẻ không chỉ là đối tượng phục vụ của Giáo Hội, mà còn là chủ thể phản ánh Đức Giêsu Kitô giữa lòng nhân thế; không chỉ là tương lai mà còn là hiện tại của thế giới, họ đã và đang góp phần làm phong phú thế giới[2]. Chúa Kitô dù đã hiến mạng sống cho nhân loại, đã về trời, nhưng thực chất, người vẫn đang sống với mọi người nói chung, và cách riêng Người vẫn đồng hành với giới trẻ.
Người trẻ làm phong phú Giáo Hội và thế giới bằng nhiều cách, trước hết bằng việc nên thánh. Đồng thời, các bạn cũng thể hiện sự thánh thiện qua việc sống đức ái trong gia đình và trong xã hội. Nhiều người trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động giáo xứ hoặc dấn thân vào các hoạt động bác ái xã hội. Các phong trào vì môi trường ngày càng phổ biến mà thành phần đông đảo là người trẻ. Tất cả làm nên sức sống trẻ trung của Giáo Hội, đồng thời là sự dấn thân cụ thể để Phúc Âm Hóa xã hội và thế giới, mở rộng triều đại của Thiên Chúa[3].
Cùng với những thao thức của Giáo Hội trong việc định hướng cho sinh hoạt mục vụ giới trẻ tại các giáo xứ, trong phần này, tôi sẽ trình bày việc phát triển vai trò tông đồ Junior trong mục vụ thăm viếng, với mong ước giúp cho những người trẻ khám phá ra khả năng và đặc sủng mà Chúa đã ban; đồng thời giúp các bạn phát huy khả năng đó giữa một thế giới đầy những cám dỗ và thử thách này.
- Những thách đố của thời đại
Sống trong thời đại toàn cầu hóa, giới trẻ có nhiều cơ hội học hành, làm việc, sinh hoạt cộng đồng, du lịch, mở rộng giao lưu gặp gỡ, có những hoạt động phong phú trong lãnh vực văn hóa, thể thao…
Song song với nhiều thuận lợi, người trẻ cũng phải đối diện với những thách đố của thời đại mới. Hiện tượng di dân vừa đem lại những hiệu quả tích cực, vừa gây nhiều hệ lụy tiêu cực trong đời sống gia đình và xã hội. Thế giới kỹ thuật số vừa là một phương thế rất hữu hiệu cho việc truyền thông và thiết lập các mối tương quan, vừa là nguyên nhân gây nên nhiều tác hại cho bản thân người trẻ. Ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và trào lưu hưởng thụ đã làm cho nhiều người trẻ lạc hướng và rơi vào lối sống buông thả, sống ảo, sống vội, sống dửng dưng vô cảm và vô trách nhiệm. Một số khác lại lún sâu vào những cám dỗ của thời đại như nghiện ngập, buôn bán ma túy, hôn nhân thử, đồng tính, phá thai… Bạo lực ngày càng gia tăng với mức độ nguy hiểm nghiêm trọng.
Sống trong một thời đại đầy những thách đố, người tông đồ Junior gặp không ít những khó khăn về mặt xã hội như: Sự khác biệt về văn hóa, phong tục tập quán vùng miền; sự đối lập giữa các tôn giáo trong một xã hội đa tôn giáo; những khó khăn về ngôn ngữ trong một đất nước đa sắc tộc… Đó chính là lý do khiến người tông đồ Junoir đi sâu vào vấn đề học hỏi. Học hỏi không phải chỉ để mở mang kiến thức, mà còn là cơ hội cho họ biết phân định ơn gọi và sứ mạng của bản thân là: Đến với muôn dân để nên “Bí tích cứu độ phổ quát”[4].
Hơn thế nữa, người tông đồ Junior cũng phải đối đầu với những thách đố, khó khăn từ chính bản thân. Họ cũng là những giáo dân đến thăm viếng người khác để thi hành sứ mạng truyền giáo của mình. Họ không truyền giáo bằng lý thuyết, nhưng là bằng đời sống chứng tá. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội “Lumen Gentium” đã giải thích: “Như những Bí tích của luật mới, là của ăn nuôi dưỡng đời sống và hoạt động tông đồ của tín hữu, tiên báo trời mới và đất mới thế nào (x. Xh 21,1), thì giáo dân cũng mạnh mẽ loan báo lòng tin vào điều mình trông đợi như thế (x. Dt 11,1), nếu họ không ngần ngại nối kết đời sống đức tin với việc tuyên xưng đức tin làm một. Công cuộc rao giảng Phúc Âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần gian”[5]. Công tác thăm viếng của tông đồ Junior là một hành động cụ thể và rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ đó.
Tuy không phải đối đầu với những khó khăn thách đố như những nhà chuyên môn, nhưng bản thân người Kitô hữu nói chung và cách riêng là tông đồ Junior cũng gặp những thách đố từ bản thân, đó là: Họ hầu như không được học hỏi nên chưa nhận thức được đầy đủ và còn sợ sệt trong việc loan báo Tin Mừng. Đến ngày khánh nhật Truyền Giáo (tháng 10 hằng năm), nhiều người chỉ nhắc đi nhắc lại điệp khúc “Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh”, chứ không thể hiện bản chất ấy thành những hành động cụ thể như thế nào trong đời sống. Nhiều tín hữu còn cho rằng loan báo Tin Mừng là công việc chuyên môn của linh mục, tu sĩ hay một số giáo dân chuyên nghiệp đã được học về thần học, chứ không phải là bổn phận của chính mình. Không những thế, phần lớn những Kitô hữu có tinh thần ngại khó, ngại khổ; họ cho rằng thuộc nhiều kinh, siêng năng đi lễ là được rồi, còn những công việc khác chỉ dành riêng cho những giáo sĩ, tu sĩ. Họ quên mất một điều căn bản: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). Người Kitô hữu nói chung và người tông đồ Junior nói riêng cần phải hiểu chính bản thân mình đang ở vùng “tiền đồn truyền giáo”, thì công việc truyền giáo chính là sứ vụ chủ yếu của bản thân. Từ đó khắc phục những hạn chế, tích cực học hỏi, nhất là đời sống cầu nguyện của bản thân để đóng góp sức mình vào sứ vụ chung của Giáo Hội.
Trước những khó khăn thách đố chung của xã hội và của bản thân người tông đồ Junior, thì họ cần khắc phục để có hướng đi cho sứ vụ của mình. Một điều chúng ta phải công nhận là trong đời sống của họ có một khoảng cách khá lớn giữa điều người ta hiểu và điều người ta sống. Đời sống đạo tập trung vào các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong. Hơn nữa, những người trẻ cũng đang có xu hướng chạy theo cái đẹp qua sự say mê cuồng nhiệt đối với các thần tượng như: Cầu thủ, diễn viên, người mẫu và ham chuộng thời trang, âm nhạc, thể thao như biểu hiện của cái đẹp. Trong khi đó, người Kitô hữu hô hào những người trẻ hãy xóa bỏ những thần tượng, sống đơn giản, nghèo khó, nhưng lại chưa giới thiệu cho họ một Thiên Chúa là chủ của cái đẹp và chưa giúp họ hiểu tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu thật sự là gì.
Từ những thách đố, khó khăn, người tông đồ Junior ý thức được sứ vụ của mình là làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống, trong sự kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa; cùng với sự đồng hành, hướng dẫn của Đức Maria. Từ đó, họ sẽ được ơn Chúa soi sáng để đưa ra đường hướng hoạt động cho mục vụ thăm viếng của mình.
- Đường lối hoạt động của tông đồ Junior
Trong bối cảnh của tuần lễ đầu tiên sau ngày Phục Sinh, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô đã gieo vào lòng các Tông đồ nào hoang mang, nào khiếp sợ, các ngài hội họp nhau lại, cửa đóng then cài. Bỗng Đức Giêsu Kitô xuất hiện giữa họ, chúc bình an rồi phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Lời nói trên mang lại cho chúng ta ý nghĩa hết sức quan trọng đó là: Chúng ta chia sẻ với Đức Giêsu Kitô sứ mạng cứu độ nhân loại; đồng thời tiếp nối sứ mạng ấy theo đường lối của Chúa Giêsu Kitô. Vì từ nay, Đức Giêsu không còn hiện diện một cách thể lý nơi trần gian, nên Ngài không có đôi chân nào khác, ngoài đôi chân của chúng ta để đến với tha nhân; Ngài không có bàn tay nào khác, ngoài bàn tay của chúng ta để xoa dịu nỗi đau khổ của nhân loại; Ngài không có trái tim nào khác ngoài trái tim của chúng ta để đập theo nhịp vui buồn của loài người. Như vậy sứ mạng của chúng ta, nói rõ hơn là sứ mạng của người tông đồ Junior rất trọng đại, rất quan trọng và đường lối hoạt động đó phải dựa vào đường lối của chính Đức Giêsu Kitô nghĩa là: Được sự tác động của Chúa Thánh Thần, kết hợp với Đức Mẹ Maria, đồng thời sống hòa hợp và phục vụ tha nhân.
Vì thế, xét về bản thân người tông đồ Junior cần xác tín về sứ mạng cứu độ Chúa Cha trao cho mình, hội nhập cùng với Đức Kitô, gắn bó mật thiết với Chúa Thánh Thần và hiệp thông sâu xa với Giáo Hội. Khi hội đủ những yếu tố này, bản thân người tông đồ Junior trở thành hình ảnh sống động của Chúa Ba Ngôi, trở nên hiện thân của Chúa Giêsu Kitô ở trần gian và trở nên Tin Mừng sống động là nội dung của việc truyền giáo (x. Gl 2,20). Việc truyền giáo ngày nay không chỉ tìm đến một dân tộc xa lạ, đến với những người khác mình về tôn giáo, văn hóa, cũng không chỉ là việc dạy giáo lý hoặc thăng tiến con người và phát triển cộng đồng; nhưng là tiếp xúc với mọi người trong đời sống thường ngày để chia sẻ niềm tin của bản thân mình cho họ như chính Đức Kitô đã làm.
Cũng vì tấm bánh Đức Kitô cần phải được bẻ ra để nuôi sống thế giới; người tông đồ Junior cần phải trở lại với Đức Kitô và hòa nhập thành một với Người qua đời sống cầu nguyện và phụng vụ, để Người chuyển thông quyền năng làm chứng cho Tin Mừng qua các dấu lạ như chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, nói được thứ ngôn ngữ mới lạ của tình thương mà Thánh Thần thúc đẩy trong lòng (x. Mc 16,16-20). Người tông đồ Junior có thể chữa lành bệnh tật không phải như một bác sĩ hay xua trừ ma quỷ không phải như một thầy pháp, nhưng với tư cách là chứng nhân của Đức Kitô vì họ có thể làm được mọi sự với Đấng ban sức mạnh cho họ: “Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4, 12-13). Như thế, việc rao giảng Lời Chúa, cử hành Bí tích và bác ái đều gắn bó mật thiết với nhau, hình thành nên bản chất của Giáo Hội mà người tông đồ nào cũng cần thể hiện trong đời sống.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên biết các đối tượng mà người tông đồ Junior thăm viếng trong công tác hằng tuần của họ. Theo Thủ bản của Legio Mariae đã cho chúng ta biết đối tượng thăm viếng của tông đồ Junior là: Thăm gia đình – giáo xứ, thăm bệnh nhân, thăm tôn giáo bạn, thăm người nhập cư, thăm người khô khan, nguội lạnh[6]… Tất cả nghệ thuật thăm viếng nhằm giúp cho nhân loại nhận ra và tin nhận Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm Người, chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Vì “Đức Giêsu chính là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
Sau khi tìm hiểu đường lối hoạt động và đối tượng trong mục vụ thăm viếng của người tông đồ Junior, chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương thăm viếng của Mẹ Maria, để chúng ta xác tín hơn vì có Mẹ cùng đồng hành với chúng ta trong sứ vụ này.
- Mẫu gương thăm viếng của Đức Maria
Một câu hỏi được đặt ra: Đâu là nghệ thuật thăm viếng của Đức Mẹ Maria? Quả thật không ai cho cái mình không có, vậy Mẹ Maria có cái gì? Khi đọc lại trình thuật truyền tin (x. Lc 1,39-45), chúng ta thấy Mẹ có Chúa Giêsu đang là bào thai, là máu thịt Mẹ, ngay sau lời Mẹ xin vâng, đây là yếu tố quyết định thành công trong nghệ thuật thăm viếng của Mẹ. Bên cạnh đó, Mẹ có mẩu tin quan trọng do Thiên Sứ Gabriel tiết lộ: “Kìa, bà Êlisabét tuy già cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng” (Lc 1,36). Thông tin này quyết định việc thăm viếng, chia vui, phục vụ cách thích hợp của Mẹ Maria. Khi gặp bà Êlisabét, Mẹ có thái độ cung kính, lời chào ngọt ngào, yêu thương nồng thắm đến độ: “Đứa con trong bụng vừa nghe được, cũng nhảy lên vui sướng” (Lc 1,44). Đây là nghệ thuật dùng lời nói của Mẹ Maria, vì người Việt thường nói: “Nói ngọt lọt đến xương”.
Từ nghệ thuật thăm viếng của Mẹ Maria đã mang lại những tác dụng siêu nhiên cho mẹ con bà Êlisabét, đó là được tràn đầy Chúa Thánh Thần nên được ơn hiểu biết, nói tiên tri: “Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ – con em đang cưu mang là quả phúc” (Lc 1,45). Đồng thời xác tín và tuyên xưng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi?” (Lc 1,43). Hơn nữa quả quyết Đức Maria có phúc vì đã tin lời Thiên Chúa. Đó cũng là lời chúc vinh Thiên Chúa, và ca ngợi người em mình là Mẹ Maria.
Khi đó chính Đức Maria cũng tràn ngập trong Thánh Thần nên đã cất tiếng ngợi ca: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1,46). Mẹ chúc tụng Thiên Chúa, nói tiên tri về niềm hạnh phúc Chúa ban cho mình trổi vượt suốt lịch sử nhân loại. Mẹ ca ngợi tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho người khiêm tốn, khó nghèo, cùng khổ. Mẹ hát khen sự thánh thiện, lòng trung thành của Thiên Chúa đối với dân riêng Ngài. Sau cùng thể hiện tinh thần nhập thể của Con Mẹ: “Vui sướng ở giữa dân Người” và “phục vụ là niềm vui”, Mẹ đã ở lại để giúp đỡ bà chị suốt ba tháng (x. Lc 1,56).
Như vậy, khi “đến với anh em, con gặp được cả Chúa lẫn anh em”. Điều đó càng làm rõ hơn giới luật Mến Chúa – Yêu Người không thể tách rời nhau. Đó thật là niềm vui lớn lao; chính những vết chân đi thăm viếng của Mẹ đã khai mạc công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, và người tông đồ Junior lấy làm mẫu mực chuẩn xác cho mình trong mục vụ thăm viếng.
- Vai trò tông đồ Junior trong mục vụ thăm viếng
Học ở trường Mẹ Maria, người tông đồ Junior được Thánh Thần Chúa hướng dẫn, để noi gương Đức Maria khiêm nhường là gốc là dụng cụ hoạt động của họ. Trong đường lối hoạt động của Legio, khiêm nhường giữ vai trò số một. Trước hết, khiêm nhường là dụng cụ căn bản của hoạt động tông đồ Junior. Khi tiếp cận với từng người, họ đặt trọng tâm vào việc này, những hội viên đi công tác phải lễ độ, khiêm tốn, vì thế họ phải khiêm nhường thực trong lòng. Khiêm nhường không ở cử chỉ bên ngoài. Khiêm nhường phải là gốc của hoạt động thăm viếng. Thiếu khiêm nhường, mọi hoạt động sẽ không có kết quả[7].
Tuy nhiên, người tông đồ Junior cần thanh tẩy những tiêu cực như: Cái tôi ích kỷ, tự cao, tự phụ, tự đắc, vị kỷ, tự ái, tự mãn, tự tôn, tự ý. Một khi họ thanh tẩy được những tiêu cực nghĩa là đã từ bỏ chính mình, thực sự quên mình để hướng về Đức Maria; thì Mẹ sẽ chụp lấy cơ hội và đưa họ tiến lên, làm cho họ được chết đi với con người cũ, như thế là đi đúng luật sống của Kitô hữu, tuy nghiêm khắc nhưng hữu ích (x. Ga 12, 24-25). Mẹ sẽ không gặp trở ngại khi truyền thông đức tính của Mẹ. Mẹ đã xây dựng một nghị lực và lòng hy sinh tuyệt vời, để họ nên người lính tốt của Chúa Kitô (x. 2Tm 2,3), dám nhận những công tác khó khăn mà nghiệp vụ đòi buộc[8]. “Chúa muốn làm việc từ con số không: Từ cái hư vô, Chúa đã dựng nên mọi sự do quyền năng của Người. Ta vừa phải sốt sắng làm vinh danh Chúa, vừa phải hiểu tự sức mình không làm nổi. Hãy tự dìm mình trong vực hư vô của bản thân. Hãy ẩn mình trong bóng tối của sự thấp hèn nơi ta. Hãy bình tĩnh chờ Đấng Tối Cao, lúc nào tùy ý Người sẽ dùng sự cố gắng tích cực của ta để làm sáng danh Người. Về điểm này, Người sử dụng những phương tiện thực là trái ngược ngoài sức tưởng tượng. Sau Chúa Kitô, chưa có ai làm sáng danh Chúa như Đức Maria, nhưng riêng Đức Mẹ chỉ nghĩ có sự hư vô của chính mình. Sự khiêm nhường này tưởng là gây trở ngại do ý định của Chúa, nhưng ngờ đâu chính sự khiêm nhường này đã giúp Chúa thực hiện chương trình từ bi cao nhất của Người”. (Group: Tâm hồn Chúa Giêsu và Mẹ Maria)[9].
Khi làm công tác mục vụ thăm viếng, người tông đồ Junior đừng đóng vai là một quan tòa và luôn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán” (Mt 7,1). Nhưng hãy kính trọng người khác, không phải chỉ bằng thái độ bên ngoài mà còn tận trong tâm hồn. Sứ mạng của người tông đồ Junior không cho phép họ tự đặt mình làm quan tòa xét xử anh em, hoặc tự coi mình như mẫu mực, bắt anh em phải suy nghĩ, phải hành động rập khuôn như mình. Không nên hồ đồ cho rằng những ai không đồng quan điểm với mình, không đón tiếp mình, thậm chí chống đối mình, đều là những kẻ không ra gì. Vì thế, người tông đồ Junior hãy sống như Đức Maria để luôn có suy nghĩ và cặp mắt dịu dàng của Mẹ khi nhìn về người khác. Và hãy như Nicôđêmô, người giàu đã lén tìm Chúa giữa đêm, hoạt động giúp Chúa nhiều, đưa về với Chúa nhiều bạn, yêu Chúa thành thực, sau cùng hưởng ơn cao cả là dự phần táng xác Chúa[10].
Để đem lại lợi ích thiêng liêng trong mục vụ thăm viếng, người tông đồ Junior không tìm tư lợi, không quyên tiền, không để ai lợi dụng như phương tiện đem lợi ích vật chất về cho một người nào trong hội đoàn. Hội viên đừng để ai khai thác một cách bất xứng danh nghĩa đoàn viên của mình, dù họ là ai, trong hay ngoài Legio[11].
Khi thanh thoát với những vật chất khi đi mục vụ thăm viếng thì đó là dịp thuận tiện để đạt tới lợi ích thiêng liêng.
Như vậy, khi người tông đồ Junior biết quên mình, từ bỏ cái tôi ích kỷ, thì Chúa mới thực sự được lớn lên trong mình; một khi có Chúa thì họ mới đem Chúa đến cho những người mà họ thăm viếng. Chính lúc đó thì Đức Maria và Giáo hội cũng được quảng bá đến cho mọi người.
Bên cạnh đó, vai trò của người tông đồ Junior còn được thể hiện trong phương pháp tiếp cận để làm sao hấp dẫn được đối tượng bằng thái độ tự tin nhưng không tự kiêu và tự ti… Luôn cư xử chân thành với mọi người, chân thành ca ngợi những điểm mạnh của đối tượng. Đặt mình vào địa vị của đối tượng để cảm thông. Có sự hiểu biết thiết thực về điều mình nói nhất là về giáo lý. Luôn mỉm cười với đối tượng thăm viếng. Biết dùng đôi mắt để biểu thị tình cảm; đừng tiếc sự hào phóng nhiệt tình và đừng quên sự khôi hài dí dỏm, nhưng cũng đừng quá lố! Thế nhưng cũng hãy biết tự kiềm chế mình để cẩn thận cân nhắc trong lời nói, biết bao dung độ lượng và luôn trả lời vui vẻ các câu hỏi.
Ngoài ra khi thăm viếng người tông đồ Junior cần có thái độ lắng nghe vì: “Nói là bạc, im là vàng, lắng nghe là kim cương”. Mục đích của việc lắng nghe là nắm bắt được nội dung vấn đề, thu thập được nhiều thông tin. Lắng nghe còn tạo mối quan hệ tốt đẹp, lắng nghe để tìm biện pháp hữu hiệu, và lắng nghe để đối tượng thấy họ được tôn trọng, nên sẽ cởi mở hơn. Nghĩa là làm sao để họ thấy mình lắng nghe bằng cả con tim và khối óc. Tất cả đều bày tỏ mối quan tâm và tôn trọng người khác, tạo cảm giác họ là người đặc biệt tôn trọng đối với ta. Ngay cả khi chưa cất tiếng chào, thì những nét tươi cười cũng đã tạo ấn tượng sâu sắc bền vững trong tâm hồn người khác.
Như vậy, tất cả nghệ thuật thăm viếng phải làm sao giới thiệu và giúp cho nhân loại nhận ra và đón nhận Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm Người, đã chịu nạn, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Vì “Đức Giêsu chính là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong mọi trường hợp, người tông đồ Junior khôn ngoan, biết cùng Mẹ Maria quay về phòng tiệc ly tâm hồn, khấn xin Chúa Thánh Thần: “Ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy anh em biết những điều phải nói” (x. Mc 13, 11).
Khi đã ý thức được vai trò cao quý của mình, người tông đồ Junior phải ra đi để trở thành chứng nhân bằng đời sống ngay trong thời đại này.
- Tông đồ Junior, chứng nhân truyền giáo trong thời đại ngày nay
Khi Đức Giêsu chạnh lòng thương trước đám đông bơ vơ không người chăn dắt, Người đã lên tiếng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…” (Lc 10,2). Câu nói ấy cũng là lời mời gọi người tông đồ Junior hãy cộng tác nhiệt thành vào công việc truyền giáo. Vì sứ mạng truyền giáo không chỉ đặt ra cho các linh mục, tu sĩ, hay một số người chuyên biệt nào đó, mà còn là cho mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên, sứ mạng truyền giáo của tông đồ Junior không hẳn là đi đây đi đó, nhưng là “ra đi” giữa lòng đời, ở giữa xã hội để rao truyền tình thương Thiên Chúa bằng đời sống yêu thương, trong một cộng đoàn hiệp nhất. Thư mục vụ năm 2003 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã mời gọi người công giáo mạnh dạn dấn thân đến những môi trường mới: “Có thể đó là những môi trường địa lý chưa bao giờ được nghe rao giảng Tin Mừng, những vùng đất chưa in dấu chân nhà truyền giáo. Đó là những môi trường văn hóa, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật… Hãy đến với những người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng, hoặc đã nghe mà chưa sống Tin Mừng. Hãy hiện diện trong mọi môi trường của nhân loại, vì không có gì của con người mà xa lạ với Hội Thánh”.
Vì thế, ơn gọi thừa sai đòi hỏi người tông đồ Junior phải thể hiện tính lữ hành, năng động, không ngừng di chuyển về những biên cương mới của xã hội, đó là: Biên cương của bất công, đói nghèo: Theo xu hướng toàn cầu hóa, xã hội Việt Nam cũng đang xảy ra sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc. Một số ít trở nên cực kỳ giàu có, nhưng ngày càng có nhiều người nghèo hơn. Họ là những người thấp cổ bé miệng cần được bênh đỡ, họ là các dân tộc ít người, những người thất nghiệp, di dân…
Biên cương của tệ nạn xã hội và sự loại trừ: Việc buôn bán sử dụng ma túy, nhiều người bị nhiễm HIV, thực sự đang là quốc nạn của Việt Nam chúng ta. Những tệ nạn này đã nhanh chóng lan rộng khắp nước. Các đối tượng bị xã hội kỳ thị này, rất cần ai đó quan tâm, thăm nom và truyền rao Tin Mừng cho họ.
Biên cương của việc đối thoại liên tôn. Châu Á được mệnh danh là chiếc nôi của các tôn giáo lớn, trong đó Kitô giáo chỉ đóng vai trò thiểu số. Cho nên, việc gặp gỡ, đối thoại với các tôn giáo ấy cũng là một thách đố lớn trong sứ mạng truyền giáo.
Quả thực, truyền giáo không phải là việc dễ dàng chút nào, mỗi người đều có kinh nghiệm về điều đó. Và có lẽ, thánh Phaolô Tông đồ là người có nhiều kinh nghiệm ấy hơn bất cứ ai. Việc truyền giáo của ngài rất thành công, vì ngài đã có được bí quyết về mặt tâm linh: Đó là luôn chăm chỉ cầu nguyện, khiêm tốn cậy dựa vào Chúa. Ngài luôn xác tín rằng quyền năng của Thiên Chúa luôn luôn được biểu lộ xuyên qua sự yếu đuối của con người và ở trong một trái tim người nghèo. Theo thánh Phaolô, chúng ta là những bình sành dễ vỡ (x. 2Cr 4,7), nên ngài mời gọi chúng ta hãy phó thác mọi sự nơi Thiên Chúa vì chỉ mình Người có quyền năng. Bên cạnh tâm hồn khiêm tốn là lòng nhiệt thành hăng hái của ngài: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2Tm 4,2).
Tâm tình của thánh Phaolô cũng chính là tâm tình của người tông đồ Junior hôm nay. Với lòng nhiệt tâm, chúng ta có thể truyền giáo bằng nhiều cách khác nhau: Qua việc rao giảng, bằng việc thăm viếng, từ thiện, bằng chứng tá đời sống… Nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải cầu nguyện cho công việc truyền giáo: Cầu nguyện cho có nhiều thợ gặt, là những người dám xả thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng; cầu nguyện cho những nhà truyền giáo để họ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc loan báo Tin Mừng, nhất là tại các vùng sâu vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số, tại các nơi mà đạo Chúa đang bị cấm cách và bách hại; cầu nguyện cho những người Kitô hữu luôn sống xứng đáng với danh nghĩa của mình, để họ trở nên chứng nhân Tin Mừng sống động; cầu nguyện cho những người không phải là Kitô hữu, những người vô thần để họ có cơ hội nhận biết Chúa… Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo 2016, đã mời gọi mọi người hãy “đi ra” như những môn đệ truyền giáo. Đồng thời, ngài cũng gợi mở một hình thức cầu nguyện mà có thể thúc đẩy chúng ta dấn thân cho công cuộc truyền giáo, và tìm kiếm lợi ích cho người khác là kinh nguyện chuyển cầu, trong đó kinh nguyện có giá trị chuyển cầu hơn cả cho việc truyền giáo chính là kinh Mân Côi, lời kinh mà người tông đồ Junior luôn truyền bá và cổ động. Qua việc sùng kính Đức Maria và lần chuỗi Mân Côi, nhiều người sẽ nhờ Mẹ Maria mà đến được với Chúa Giêsu.
Tóm lại, tự thân cuộc sống luôn đầy ắp những thách thức, chông gai, những biến động không ngừng và vô vàn những khó khăn thử thách. Thế nhưng, sứ vụ của những người trẻ và việc chăm sóc mục vụ gia đình cần phải được hội nhập và phối hợp, nhằm bảo đảm một sự đồng hành liên tục và thích hợp cho ơn gọi làm tông đồ của họ. Được như vậy, người tông đồ trẻ sẽ hiên ngang lên đường thay vì ngồi lại một chỗ, cởi mở thay vì khư khư bảo thủ; chia sẻ tận tình thay vì khép kín một cách nghèo nàn; cùng đồng hành với nhau trong hành trình đức tin và tin tưởng luôn có Chúa ở cùng. Cần phải hiểu Tin Mừng không chỉ đơn giản là một ngôn từ, nhưng là một chứng từ yêu thương vô điều kiện và tín trung. Đó là ra khỏi chính mình để đến gặp gỡ người khác, gần gũi với người bị cuộc sống làm tổn thương, là chia sẻ với người túng thiếu, là ở bên những ai đau yếu, già cả hay bị loại trừ.
Trong tâm tình đó, người trẻ hãy đến với Mẹ Maria, cũng vì khi Đức Mẹ hoài thai Chúa Giêsu, Mẹ cũng là một người trẻ. Mẹ đã đồng hành với người trẻ Giêsu trong công cuộc cứu chuộc. Mẹ đã lắng nghe, suy đi nghĩ lại trong lòng, và quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu gọi. Và một khi đã thưa “xin vâng”, Mẹ dấn bước với tất cả tình yêu trung tín, kể cả trong những lúc khó khăn và thử thách nhất. Mẹ thực sự là mẫu gương và hơn nữa là Ngôi Sao Hy Vọng dẫn bước chúng ta vượt qua mọi gian nan thử thách để bước đi trên con đường của Tin Mừng. Chúng ta cũng hướng về Đức Maria với tâm tình cậy trông và yêu mến; để Mẹ luôn đồng hành và chúc phúc cho tất cả người trẻ chúng ta trong việc thực thi sứ vụ tông đồ giữa lòng thế giới hôm nay.
Lm. Giuse Nguyễn Trường Phước
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 119 (Tháng 7 & 8 năm 2020)
[1] x. Tông Huấn “Christus vivit”, số 31.
[2] x. Tông Huấn “Christus vivit”, số 64.
[3] x. Tông Huấn “ Christus vivit”, số 168.
[4] x. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 48.
[5] x. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 35.
[6] Thủ bản của Legio Mariae, chương 37 “Khuyến dụ về công tác”.
[7] x. Thủ bản của Legio Mariae, số lề 39.
[8] x. Thủ bản của Legio Mariae, số lề 45, 46.
[9] x. Thủ bản của Legio Mariae, số lề 46.
[10] x. Thủ bản Legio Mariae, số lề 503, 504.
[11] x. Thủ bản Legio Mariae, số lề 513.
2020
Giáo lý Tam Phụ và Đạo Hiếu
Cụm từ “Hội Nhập Văn Hóa”, hay nói cách khác, sự liên hệ giữa niềm tin và văn hoá trong phương thức truyền giáo là một đề tài được quan tâm trong giới thần học trên 40 năm qua. Khái niệm này được diễn tả dưới các thuật ngữ “chuyển thể văn hoá” (cultural translation), “bản địa hoá” (indigenization), “bối cảnh hoá (contextualization), “thích nghi văn hoá” (cultural adaptation / accommodation), hoặc “đạo vào đời” (incarnation). Từ xưa người Việt đã có câu “nhập gia tuỳ tục” (tháp nhập văn hoá, acculturation) để chỉ hiện tượng thích nghi văn hoá của một người đến từ bên ngoài nền văn hoá đó.
Trong xã hội học danh từ “enculturation” (hội nhập văn hoá) được dùng để chỉ tiến trình thích nghi, hấp thụ, và tích hợp văn hóa của một cá nhân hay tập thể đến từ bên ngoài nền văn hoá đó. Trong thần học danh từ “inculturation” được dùng để nói đến mối liên hệ hỗ tương giữa Tin Mừng và Văn Hoá, cũng được dịch là hội nhập văn hoá.[1] Nhưng trong tiến trình nhập thể của Tin Mừng vào một nền văn hoá nào đó, Tin Mừng không chỉ mặc lấy giá trị, ngôn ngữ và biểu tượng của văn hoá ấy mà còn chuyển tải những giá trị của Tin Mừng vào nền văn hoá đó. Như vậy, hội nhập văn hoá trong thần học (inculturation) là một tiến trình hai chiều, một mặt hấp thụ và tích hợp các giá trị văn hoá tích cực vào đức tin Kitô giáo, và mặt khác tháp nhập đức tin Kitô giáo vào nền văn hoá ấy.
Hội nhập văn hoá không phải là khái niệm mới. Mầu nhiệm nhập thể “Ngôi Lời mặc lấy xác phàm” (incarnation) đã bao gồm ý niệm này. Con Thiên Chúa khi muốn đến với con người cũng phải đi vào văn hoá, ngôn ngữ và cách sống của con người. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã đi đầu trong việc hội nhập văn hoá khi trở thành một người trong chúng ta. Nhưng hơn thế nữa, chính việc nhập thể của Ngài đã đem chiều kích siêu nhiên vào bản tính tự nhiên của nhân loại. Các giáo phụ Irênêô, Clêmentê thành Alexandria và đặc biệt Athanasiô đều giải thích: “Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy nhân tính để con người có được thiên tính”[2]
Ngay từ thời Tân Ước đã có những cố gắng đem Tin Mừng vào nền văn hoá La-Hy. Tại công nghị Giêrusalem năm 45, thánh Phaolô đã phải tranh luận với nhóm bảo thủ trong Hội Thánh muốn áp đặt tất cả tập tục của người Do Thái trên các tín hữu tân tòng dân ngoại. Kết quả của cuộc tranh luận này là người tín hữu Kitô không còn bị ràng buộc bởi văn hoá và lề luật của người Do thái. Dần dà theo thời gian, đức tin Kitô giáo mặc lấy những mô hình văn hoá và hệ thống xã hội của các dân tộc khác nhau ở trong đế quốc La Mã trải rộng từ Tiểu Á đến Tây Ban Nha. Kế đó Tin Mừng được truyền bá đến các bộ tộc người Celt, người Bắc Âu và người Slav. Cuối thiên niên kỷ thứ nhất toàn thể Âu Châu đã trở thành thế giới Kitô. Từ đó văn hóa Âu Châu gắn liền với niềm tin Kitô giáo đến nỗi Hilaire Beloc đã nhận xét: “Âu Châu là Kitô giáo, Kitô giáo là Á Châu.”[3]
Khi người Âu Châu bắt đầu vươn ra khỏi thế giới văn hoá của chính mình và đi truyền giáo tại Á Châu, họ phải đối diện với những thử thách mới. Khác với việc truyền giáo ở Nam Mỹ và Phi Châu, các dân tộc Á Châu từ Ấn Độ đến Trung Hoa, Nhật Bản đều đã có những nền văn hoá khá cao mà không dễ dàng bị thu phục. Mặc dù Tin Mừng đã được rao giảng tại Nhật Bản từ khi thánh Phanxicô Xaviê đặt chân đến xứ này vào năm 1549, tình hình không mấy khả quan cho đến khi Alessandro Valignano (1539-1606), vị kinh lược xứ của dòng Tên đặc trách vùng Đông Á, thay đổi chính sách truyền giáo ở Á Châu. Valignano chủ trương hội nhập vào văn hóa bản địa thay vì “xóa bàn làm lại” như chính sách truyền giáo ở Nam Mỹ, Goa, Malacca và Philippines. Trong khi một số nhà truyền giáo nghĩ rằng xoá bỏ hoàn toàn các thói quen tôn giáo và tục lệ cũ là điều cần thiết trước khi xây dựng niềm tin Kitô giáo thì Valignano lại chọn một đường lối nhẹ nhàng hơn: nên tôn trọng văn hoá bản địa và chỉ thay đổi những gì cần thiết nơi các tập tục địa phương để phù hợp với Tin Mừng, nhưng trong mức độ vừa phải.
Chiến lược truyền giáo của Valignano đòi buộc các thừa sai hai điều. Trước tiên, họ phải học tiếng bản xứ đủ để có thể rao giảng Tin Mừng và soạn các bài giáo lý, kinh nguyện bằng tiếng địa phương. Thứ đến, họ phải tìm hiểu sâu xa về nền văn hoá bản địa, tôn trọng những giá trị truyền thống, miễn là chúng không trái ngược với đức tin Kitô giáo. Chính sách hội nhập văn hoá do Valignano khởi xướng đã đào tạo nên một thế hệ các nhà truyền giáo dòng Tên am hiểu tinh thần và phương pháp hội nhập văn hoá như Matteo Ricci tại Trung Hoa, Roberto de Nobili tại Ấn Độ hay Girolamo Maiorica và Alexandre de Rhodes tại Việt Nam.
Từ kinh nghiệm truyền giáo tại Nhật Bản và Trung Hoa, các nhà truyền giáo Dòng Tên khi đến Việt Nam đã cẩn thận tìm một cách thích hợp để giới thiệu Tin Mừng cho một dân tộc đã gắn bó lâu đời với những giá trị và đạo đức Nho giáo. Để tận dụng những lý tưởng “trung” và “hiếu” đặc trưng của xã hội truyền thống Việt Nam, các thừa sai đã sáng tạo ra giáo lý “Tam Phụ” (Ba đấng làm Cha) như một phương thức hội nhập, bản-địa-hoá đức tin Kitô giáo vào văn hóa truyền thống của người Việt.
Bài nghiên cứu này trình bày học thuyết Tam Phụ qua một số sách giáo lý và luận văn Công giáo thuộc thế kỷ XVII và XVIII. Trước tiên tôi sẽ trình bày về hoàn cảnh phát sinh ra giáo lý này. Tiếp theo, tôi sẽ diễn giải ngắn gọn về học thuyết này trong sách giáo lý Phép Giảng Tám Ngày (1651) của giáo sĩ De Rhodes rồi đến hai tác phẩm hộ giáo của thế kỷ thứ mười tám: Phép Giảng Đạo Thật và Hội Đồng Tứ Giáo. Và sau cùng tôi sẽ lượng giá sự đóng góp của giáo lý Tam Phụ cho người Công giáo Việt Nam trong xã hội Nho giáo.
- BỐI CẢNH HÌNH THÀNH NÊN GIÁO LÝ TAM PHỤ
1.1 Tin Mừng Gặp Văn Hóa Việt
Từ giữa thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, Nho giáo trở thành tư tưởng chủ đạo tại Việt Nam. Sau khi giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh (1407-1418), các vua triều Lê đã đề cao Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống để có được lòng trung thành, thiết lập luật pháp và trật tự, và mang lại sự ổn định cho xã hội. Mặc dù được hỗ trợ bởi triều đình và các sĩ phu, chỉ có vài tư tưởng Nho giáo cơ bản đến được với quần chúng. Người bình dân Việt Nam chỉ biết đến đạo Nho một cách chung chung như khái niệm Tam Cương Ngũ Thường, Tam Tòng Tứ Đức.
Các sĩ phu và học giả thì chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng của các nho gia đời Tống, đặc biệt là của Chu Hy. Tuy nhiên, Nho giáo ở Việt Nam chưa bao giờ phát triển về mặt học thuật như ở Hàn Quốc hay Nhật Bản cùng thời đại.[4] Các nhà Nho Việt Nam dành phần lớn thời giờ học thuộc lòng và nghiền ngẫm các kinh điển đã được Chu Hy hệ thống hoá như Tứ Thư và Ngũ Kinh để có thể thi đậu ở các kỳ thi do triều đình tổ chức.[5] Họ ít quan tâm đến các vấn đề siêu hình học hay đưa ra những phát kiến mới hoặc tham gia vào các cuộc tranh luận giữa các trường phái Nho giáo như ở các nước Đông Á khác. Nho gia Việt Nam chủ yếu tập trung vào các vấn đề luân lý đạo đức, các quy tắc ứng xử và lễ nghi. Kết quả là Nho giáo Việt Nam đã không gây dựng được một hệ tư tưởng đặc thù nào hoặc một tác phẩm lý luận kinh điển nào. Các nhà nho Việt Nam, kể cả những người uyên bác nhất như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, chỉ để lại cho hậu thế những tập thơ và các sách lịch sử, địa lý.
Đạo Thiên Chúa đến với người dân đất Việt trong thời điểm đất nước bị chia đôi. Cuộc chiến giữa nhà Mạc và liên minh Trịnh-Nguyễn, rồi đến chiến tranh giữa nhà Trịnh và nhà Nguyễn làm lòng dân hoang mang, mệt mỏi. Chiến tranh, loạn lạc, đói kém khiến con người dễ tìm đến tín ngưỡng và tôn giáo như một chỗ dựa tinh thần cho những bất ổn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong thời điểm này, các tín ngưỡng truyền thống như đạo Phật đạo Nho cũng đang bị suy thoái và mất đi ít nhiều sức hấp dẫn với đại đa số quần chúng.
Theo dã sử được trích lại trong sách Khâm Định Việt Sử Cương Giám Thông Mục của quốc sử quán triều Nguyễn thì năm Nguyên Hoà nguyên niên đời vua Lê Trang Tông (1533) đã có người Tây dương “I-ni-khu” đến giảng đạo ở miền duyên hải Bắc Việt. Sau đó cũng đã có các nhóm thừa sai dòng Đaminh và dòng Phanxicô đến rao giảng tin mừng. Nhưng vì bất đồng ngôn ngữ nên kết quả không mấy khả quan. Phải đợi đến năm 1615 khi nhóm thừa sai dòng Tên đặt chân đến Cửa Hàn và sau đó xuống Hội An thì việc truyền giáo tại Việt Nam mới thực sự khởi sắc. Các thừa sai dòng Tên đã mau chóng học tiếng Việt và xây dựng các giáo đoàn tại Đàng Trong. Hơn một thập niên sau, dựa trên kinh nghiệm truyền giáo tại Đàng Trong, công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài khởi đầu với Alexandre de Rhodes và Pedro Marques trong những năm 1627-1630 đã đem lại những thành quả tốt đẹp. Các báo cáo cho thấy trong vòng 30 năm sau đó, số lượng tín hữu đã gia tăng với mức độ thần tốc. Con số vài ngàn tín hữu lúc De Rhodes rời Đàng Ngoài đã gia tăng tới hơn vài trăm ngàn người Công giáo vào đầu thập niên 1660.[6] Sự phát triển nhanh chóng của đạo Công giáo ở thời kỳ đầu tại Việt Nam vừa là do chiến lược của dòng Tên, vừa là do tôn giáo mới này đã đáp ứng được các nhu cầu tâm linh của quần chúng vốn quá mệt mỏi vì chiến tranh và đau khổ.
1.2 Thuận Lợi và Khó Khăn
Chính sách về hội nhập văn hóa trong việc truyền giáo cho vùng Đông Á đã giúp Kitô giáo bám rễ được vào một đất nước vốn có một quá trình gắn bó văn hóa và tôn giáo sâu đậm với Nho giáo và Phật giáo. Khi các thừa sai Dòng Tên đến Nhật Bản năm 1543, sau đó đến Trung Hoa năm 1583, và cuối cùng đến Việt Nam năm 1615, họ đã tìm thấy nơi các xã hội Nho giáo vùng đất màu mỡ cho việc truyền bá sứ điệp Kitô giáo. Các giáo sĩ nhận thấy trong các đặc tính tôn giáo bản địa của người Việt đã có một khuynh hướng tự nhiên của đức tin Kitô giáo. Người Việt biết đến ông Trời, có một niềm tin mạnh mẽ vào định mệnh và thưởng phạt đời sau. Họ quý trọng các nhân đức và các tương quan xã hội, nhấn mạnh đến lòng trung thành và hiếu thảo hơn những giá trị tinh thần khác.[7]
Mối quan tâm chính của các nhà truyền giáo là làm thế nào để thích nghi Tin Mừng trong một vùng đất mới mà không làm thay đổi hoàn toàn sứ điệp cơ bản. Phương pháp sư phạm thường áp dụng là mô hình tiệm tiến, từng bước một, bắt đầu với những gì thân quen và cụ thể trong cuộc sống của các dân tộc, làm việc theo cung cách của họ, rồi từ từ dẫn đến các thực hành Kitô giáo. Ví dụ, biết rằng người Việt rất sùng kính tổ tiên, các thừa sai dòng Tên cho phép giáo dân Việt Nam được tôn vinh người chết theo phong tục địa phương nhưng kèm theo những thay đổi nho nhỏ để đảm bảo rằng họ không đi theo mê tín dị đoan.[8]
Bên cạnh những thuận lợi nhất định, các nhà truyền giáo cũng phải đối diện với nhiều khó khăn và khác biệt nơi văn hoá truyền thống. Việc chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa, không thờ cúng các thần thánh khác, chống lại chế độ đa thê, cấm các tín hữu tham gia vào các lễ hội tôn giáo địa phương, bài bác một số tục lệ về tang tế, và hạn chế một số nghi lễ trong việc thờ cúng tổ tiên: những điều đó bị những người chống đối đạo mới coi là chối bỏ văn hóa của tổ tiên để chạy theo văn hóa ngoại lai.
Đối với người Việt, đạo Hiếu là đặc trưng của nhiệm vụ tôn giáo và đạo đức. Hiếu thảo được coi là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức để duy trì sự hài hòa trong xã hội. Nếu một người giữ được lòng hiếu thảo, người đó có thể được coi là người biết đến lễ nghĩa và giữ được lòng trung thành. Từ bậc vua quan cho đến người thấp hèn trong xã hội, không một ai muốn bị cáo buộc là bất hiếu. Do đó, khi người ngoài Công giáo không thấy các tín hữu Công giáo Việt Nam bày tỏ lòng hiếu thảo theo tập tục truyền thống, nhất là trong nghi lễ tang ma, họ nghi ngờ rằng người Công giáo đã từ bỏ “đạo ông bà”.
Ngoài ra, việc giáo dân Việt Nam tuân phục Đức Giáo Hoàng, một người Tây phương, làm dấy lên nghi ngờ về lòng trung thành của người Công giáo đối với triều đình. Sự hiểu lầm này xảy ra một phần vì các sĩ phu và quan lại thời đó không phân biệt được các quốc gia khác nhau của phương Tây, và quan trọng hơn, họ không hiểu được sự khác biệt giữa lòng trung thành về mặt tinh thần và trung thành về mặt chính trị. Đạo Thiên Chúa bị coi là tôn giáo của người Bồ Đào Nha (Đạo Hoa Lang) và Đức Giáo Hoàng là “vua của Bồ Đào Nha.” Trong tác phẩm Phép Giảng Tám Ngày, Alexandre de Rhodes đã tìm cách bác bỏ sự hiểu lầm này:
“Chớ có nói, đạo này là đạo Pha Lang [Lusitanorum legem, luật lệ của người Bồ]. Vì chưng đạo thánh đức Chúa trời là sáng, trước và lớn hơn mặt trời…. Vì chưng mặt trời là chung cả và thế giới, mà đã có trước hơn nước ấy soi cho. Đạo thánh đức Chúa Trời, cũng vậy: dù mà nước nào đã chịu đạo trước, cũng chẳng nên gọi là đạo nước nọ nước kia, thật tên là đạo thánh Đức Chúa Trời, là Chúa trên hết mọi sự”.[9]
Trọng tâm của Nho giáo là giữ gìn các quan hệ và giá trị đạo đức của Tam Cương và Ngũ Thường. Những giá trị nền tảng như trung và hiếu được xem là yếu tố cần thiết để hỗ trợ cho một xã hội ổn định. Đây là yếu tố đo lường sự thành công hoặc thất bại của bất kỳ học thuyết hoặc tôn giáo nào trong xã hội Nho giáo. Thí dụ, Phật giáo lúc bắt đầu du nhập vào Trung Quốc đã gặp nhiều chống đối của giới Nho gia. Phải mất nhiều thế kỷ trước khi tôn giáo này có thể được chấp nhận là phù hợp với những giá trị căn bản của Nho giáo.
Trong bối cảnh này, một số tác phẩm hộ giáo đã ra đời trong thế kỷ XVIII và XIX ở Việt Nam nhằm thuyết phục các bổn đạo mới và những người có thành kiến với họ rằng người Công giáo không chống lại đất nước hoặc tổ tiên của mình. Ngược lại, các tín hữu cũng giữ nguyên những ưu điểm của lòng hiếu thảo và trung thành của truyền thống Việt Nam trong giáo lý Công giáo cũng như trong thực hành, cho dù cách thể hiện và thực hành của đạo hiếu có vẻ khác với sự mong đợi của xã hội.
- GIÁO LÝ TAM PHỤ – MỘT LỜI GIẢI ĐÁP CHO NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT
Giáo lý “Tam Phụ” (ba đấng làm cha) ra đời trong bối cảnh này. Mục đích là để đảm bảo cho các tân tòng và dự tòng người Việt rằng việc đón nhận một niềm tin tôn giáo mới không đòi hỏi họ phải từ bỏ các giá trị truyền thống, nhưng ngược lại càng giúp họ sống như người con hiếu, người tôi trung. Việc đề cao lòng trung hiếu trong giáo lý Tam Phụ cũng nhắm đến hoá giải một số hiểu lầm và những luận điệu cho rằng đây là một tôn giáo ngoại lai “có hại” cho đất nước
Sau đây, tôi sẽ trình bày thuyết Tam Phụ trong bốn quyển sách giáo lý và hộ giáo có tầm ảnh hưởng trong việc giới thiệu Tin Mừng cho người Việt. Đó là sách Thiên Chủ Thực Nghĩa (1603) của Matteo Ricci; Phép Giảng Tám Ngày (1651) của Alexandre de Rhodes; và hai tác phẩm khuyết danh Phép Giảng Đạo Thật (còn gọi là Chân Đạo Yếu Lý, 1758) và Hội Đồng Tứ Giáo (giữa thế kỷ XIX).
2.1 Từ Tam Cương đến Tam Phụ
Giáo lý Tam Phụ xuất hiện lần đầu trong tác phẩm Thiên Chủ Thực Nghĩa (Lẽ Thật về Thiên Chúa) xuất bản năm 1603 tại Trung Hoa của vị thừa sai dòng Tên nổi tiếng, giáo sĩ Matteo Ricci (1522-1610). Ricci đã trình bày việc tôn kính Tam Phụ như một phần của nhiệm vụ hiếu thảo của một Kitô hữu. Ricci đã khéo léo vận dụng khái niệm Tam Cương – bổn phận với quân (vua), sư (thầy) và phụ (cha), để sáng tạo ra thuyết Tam Phụ. Giáo sĩ này viết:
“Để xác định ý nghĩa của lòng hiếu trước tiên ta phải xác định mối liên hệ phụ tử. Trong cuộc sống, người ta có ba đấng làm cha (tam phụ): người cha cao nhất (thượng phụ) là Thiên Chúa, thứ đến trung phụ là vị quân vương, rồi tới hạ phụ người cha trong gia đình. Không vâng phục ba đấng ấy là bất hiếu.
Một người con nên vâng theo mệnh lệnh của vị thượng phụ, ngay cả khi điều ấy nghịch với mệnh lệnh của trung phụ, hạ phụ. Làm như thế thì không bị xem là bất hiếu. Nếu ngược lại, vâng lời người cha cấp thấp mà nghịch mệnh người cha cấp cao hơn thì là đại bất hiếu vậy”.[10]
Nét sáng tạo của Ricci là ông đã vận dụng lòng trung và hiếu của mô hình xã hội Tam Cương để lý giải việc thờ phụng Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thiên Chúa xứng đáng được tôn thờ, phụng sự và vâng phục trên hết mọi người và mọi sự, vì Ngài là đấng cao trọng hơn hết thảy mọi loài. Ngài là người cha của muôn loài và chủ tể của muôn nước. Trong giáo lý Tam Phụ, lòng trung và hiếu được áp dụng ở các mức độ khác nhau: lòng trung hiếu trước hết phải dành cho Thiên Chúa rồi mới đến vua chúa và cha mẹ. Ricci cho rằng việc thờ phượng và yêu mến một Thiên Chúa không ngăn cản người ta thực hành đạo hiếu đối với cha mẹ hoặc lòng trung thành của họ đối với quân vương. Nếu một người yêu mến Thiên Chúa, người ấy sẽ trung thành với vua chúa và hiếu thảo với cha mẹ của mình.
2.2 Giáo Lý Tam Phụ của De Rhodes
Mặc dù lấy lại tư tưởng của Ricci về thuyết Tam Phụ, Alexandre De Rhodes đã sửa đổi học thuyết này cho phù hợp với tâm lý của người Việt. Trong sách giáo lý Phép Giảng Tám Ngày, De Rhodes cũng phân biệt giữa ba mức độ tôn kính dành cho ba bậc làm cha, nhưng ngài đã trình bày chúng theo thứ tự ngược lại:
“Bây giờ ta phải hay có ba đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta; Đấng giữa là vua chúa trị nước; Đấng trên là đức Chúa trời đất, làm Chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống được ở…
Vì chưng ta có cha mẹ thì mới được thân xác thịt này mà sinh ra mà chớ… Ta chịu ơn mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm. Có khi thì mẹ cất của miệng mình mà cho con ăn; cũng có khi mẹ ăn miếng đắng mà miếng ngon để dành cho con. Lại có khi mẹ nằm chỗ ướt mà chỗ khô ráo để con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo việc nuôi nấng, vì vậy có khi thì cha thức sớm chẳng ngủ mà làm nghề nọ nghề kia, chạy xuôi chạy ngược, kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải [= phải lắm], ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng [= chịu] vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng.
Vua chúa cùng gọi là cha cả và [= tất cả] nước, cùng các dân: chẳng có vua chúa thì nước ở an lành chẳng được: vì chưng vua chúa trị nước cho dân được an lành. Vì vâỵ vua chúa thì giữ nước, và cho kẻo giặc bề ngoài phá nước làm khốn dân, sau thì sửa trong nước làm cho đại thần hoà thuận cùng nhau và tiểu dân yêu đang [= yêu thương] thông việc cùng nhau nữa. Ví bằng chẳng có vua chúa sửa nước một ngày thì thật có ra những sự long đong, hỗn hào trong dân mà chớ… Vì vậy hễ là kẻ ở trong nước thì phải kính dái [= kính sợ] vua chúa . Ví bằng có ai trong nước mà theo ngụy thì chịu phạt đã đáng.
Hãy còn Cha cả là Chúa trên hết mọi sự: đã hoá nên và gìn giữ trời đất muôn vật cùng hết mọi sự. Nào ai có hồ nghi và chẳng chịu thờ phượng đấng ấy trên hết mọi sự mà chẳng dại ru ?… Thật trời đất cùng mọi sự ở trong thế giới này bởi một đức Chúa trời rộng rãi vô cùng mà có. Vì vậy ta cám ơn đức Chúa trời là cha cả chúng tôi, và thờ phượng đấng ấy trên hết mọi sự thì thậm phải”.[11]
De Rhodes xem lễ tế Nam Giao là bằng chứng rằng người Việt đã biết đến việc thờ phượng Tam Phụ, dù việc thờ phượng ấy chưa hoàn hảo. Ông quan sát thấy trong cuộc tế Nam giao, trước mặt bá quan văn võ, nhà vua long trọng tế Trời mặc dù không biết Trời chính là Thiên Chúa chí tôn: đó là việc thờ phượng bậc một. Sau khi tế Trời thì cả triều đình khấu đầu trước mặt vua để tỏ lòng tận trung: đó là việc thờ phượng bậc hai. Sau đó khi mọi người về nhà cúng bái tổ tiên, cúi lậy ông bà cha mẹ: đó là việc thờ phượng bậc ba.[12]
Để nhấn mạnh về bổn phận của một người đối với Thiên Chúa, De Rhodes đã bàn về ba mức độ trừng phạt hay khen thưởng của mỗi bậc làm cha. Một người cha trong gia đình có thể cho các con của cải nếu họ tuân phục mình, và lấy đi quyền thừa kế nếu họ không vâng lời mình. Một vị vua có thể ban thưởng cho người bề tôi trung thành tiền bạc, nhà cửa, ruộng nương và chức quyền, nhưng ông cũng có thể ra hình phạt và thậm chí xử tử các bề tôi nếu họ vi phạm pháp luật hoặc nổi loạn chống lại ông. Vậy Thiên Chúa, Đấng thẩm phán tối cao, có thể ban phát tất cả mọi thứ mà những người cha, những vị vua ở trần gian này có thể cung cấp, và Ngài cũng có thể lấy đi tất cả mọi thứ, kể cả cuộc sống của một người, không chỉ ở đời này mà còn ở đời sau.[13]
2.3 Triển Khai Giáo Lý Tam Phụ Trong Các Sách Giáo Lý và Hộ Giáo Ở Thế Kỷ XVIII và XIX
Mặc dù Ricci và De Rhodes đã trình bày giáo lý Tam Phụ và lý giải tầm quan trọng của nó, họ lại không đưa ra những chỉ dẫn cụ thể trong việc tôn kính và vâng phục Tam Phụ như thế nào. Các sách giáo lý và hộ giáo của thế kỷ XVIII đã bổ xung cho những thiếu sót này. Trong số các tác phẩm này, có mấy tác phẩm trực tiếp bàn về vấn đề nêu trên. Đó là sách Bổn Giảng Đạo Thật (còn gọi là Chân Đạo Yếu Lý), sách bổn hỏi thưa của đức cha Bá Đa Lộc Pigneaux de Béhaine (còn gọi là Thánh Giáo Yếu Quốc Ngữ) và Hội Đồng Tứ Giáo. Các sách này sách được chép lại bằng chữ Nôm và Quốc ngữ và được in rất nhiều lần.
2.3.1 Sách Bổn Giảng Đạo Thật (1758)
Bổn Giảng Đạo Thật là một sách giáo lý khuyết danh ra đời khoảng 100 năm sau sách giáo lý của De Rhodes. Bản thảo còn lưu trữ được của sách Bổn Giảng Đạo Thật là một sổ tay viết bằng chữ quốc ngữ được bảo quản trong Văn Khố của Hội Thừa Sai Ba Lê (AMEP, số danh mục V-1183). Sách có khổ 16 x 22 cm, 143 trang, ghi năm MDCCLVIII (1758) ở trang cuối. Vì bản thảo khuyết danh nên ta không biết nhiều về tác giả hoặc hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này. Tuy nhiên, nếu xem qua các chủ đề được trình bày theo thứ tự, tác phẩm này là một sách giáo lý để chuẩn bị cho người dự tòng chịu phép rửa tội. Sách có cấu trúc phần nào cũng theo một trật tự như sách giáo lý của De Rhodes.[14] Sang đến thế kỷ XIX, sách được khắc in bằng chữ Nôm và xuất bản nhiều lần dưới tựa đề Chân Đạo Yếu Lý.[15] Bản Quốc ngữ 1758 và các bản Nôm sau này (thế kỷ XIX) có một chút khác biệt về cấu trúc và nội dung của mấy chương cuối mang nhiều tính chất hộ giáo hơn trong hoàn cảnh đạo Thiên Chúa bị bách hại dưới triều Nguyễn.[16] Tuy vậy phần liên quan đến giáo lý Tam Phụ trong sách Bổn Giảng Đạo Thật và Chân Đạo Yếu Lý không khác biệt nhiều. Phần có liên quan đến giáo lý Tam Phụ là Chương 3 của bản quốc ngữ. Tác giả đã dành ra 19 ½ trang để “giảng về sự Tam Phụ”, tính ra là đến 13,6% của toàn bộ bản văn (bản Nôm dành 26 trên 360 trang). Lời văn tuy xưa nhưng được viết bằng một ngôn ngữ bình dân, dễ hiểu không cần nhiều giải thích.
Đầu tiên, bản văn giải thích ý nghĩa cốt yếu của giáo lý Tam Phụ:
“Vậy có ba đấng gọi là Tam Phụ, vì ba Đấng ấy hay thương người ta như cha thương con. Cho nên người ta phải kính thờ Đấng có lòng thương mình như con kính thờ cha vậy. Nhưng mà ba đấng ấy có sai đẳng chẳng bằng nhau. Vì trong Tam Phụ có một Đấng trọng nhất gọi là Thượng Phụ thì Đấng ấy có phép tắc vô cùng gọi là Đức Chúa Trời là thật vua cả dựng nên trời đất muôn vật, và cầm quyền thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ đời này và đời sau… Trung Phụ là đấng làm vua được quyền Đức Chúa Trời ban cho mà sửa sang trong nước cho các xứ, phủ, huyện và mọi nơi về nước người trị được bằng yên… Hạ Phụ là cha mẹ sinh ra ta về phần xác và gìn giữ, nuôi nấng cùng dạy dỗ cho khôn lớn” (tr. 97-98).[17]
Sau khi mô tả từng đấng trong Tam Phụ, bản văn nêu ra những quy định về bổn phận và nhiệm vụ người ta phải có đối với mỗi đấng làm cha, theo thứ tự từ dưới lên trên: đầu tiên, là các bổn phận của người con hiếu thảo, kế đến là những bổn phận của một bề tôi trung tín, cuối cùng là những bổn phận ta phải có đối với Thiên Chúa.
Thảo Kính Cha Mẹ: Đạo làm con đối với cha mẹ được nêu rõ chi tiết:
“Vậy ta muốn tỏ ra lòng báo hiếu cho được phúc khỏi tội thì phải cứ [= theo] bảy điều đã dạy trong Đạo thánh Đức Chúa Trời thì mới được giữ đạo con cái cho nên:
“Thứ nhất. Phải kính sợ cha mẹ, là chẳng dám nói lời chi, làm việc gì mất lòng cha mẹ…
Thứ hai. Phải vâng lời cha mẹ cho hết lòng hết sức… dù mà việc ấy lời ấy trái ý ta, lấy làm khó nhọc cũng phải vâng chẳng nên buồn hay cãi trả…
Thứ ba. Phải nuôi cha mẹ, chẳng nên bỏ cha mẹ đói khát rách rưới, mà khi nuôi cha mẹ làm vậy bề ngoài thì bưng cơm, bưng nước, trong lòng thì có thảo có kính…
Thứ bốn. Khi cha mẹ ốm đau lâu ngày thì con cái phải nhịn nhục chịu khó giữ gìn xem sóc [= coi sóc] cha mẹ chiều hôm sớm mai cho hết lòng hết sức dù lâu ngày tốn của tốn công khó nhọc cách nào cũng chẳng nên buồn, chẳng nên bỏ…
Thứ năm. Khi cha mẹ qua đời thì con cái phải ra sức xem sóc mọi sự trước sau cho phải lẽ, chẳng nên lánh đi mà mời kẻ khác đến…” (tr. 99-103)
Năm điều trên là bổn phận hiếu thảo của mọi người, không phân biệt tôn giáo. Hai điều kế tiếp nói rõ hơn cách người Công giáo bầy tỏ lòng hiếu kính đối với cha mẹ, không những chỉ lo về phần xác cho các ngài mà còn phải lo về phần hồn nữa.
“Thứ sáu. Cũng phải trả ơn về phần hồn nữa thì mới trọn sự báo hiếu, ví bằng [= nếu như] cha mẹ chưa có đạo thì phải ra sức khuyên người chịu đạo cho được rỗi linh hồn… nếu cha mẹ đã có đạo gần ngày mệnh chung thì phải lo liệu cho người chịu các phép trong đạo cho được ích trọng về phần linh hồn, lại khi cha mẹ đã qua đời, đoạn thì phải đọc kinh cầu nguyện ăn chay, ví bằng có của đủ ăn mặc cũng phải thí tiền thí gạo thí áo cho kẻ khó khăn rách rưới cùng phải làm những việc lành khác bổn đạo quen làm, mà có ý cầu khấn cùng ĐCT cho linh hồn cha mẹ có đạo khỏi mọi sự khó nhọc được mọi sự lành trên thiên đàng đời đời chẳng cùng. Ấy là sự báo hiếu về phần linh hồn.
Thứ bảy. Phải xem sóc mồ mả dù mà chẳng còn xem thấy mặt cha mẹ nữa mặc lòng, thì cũng phải có lòng kính lòng nhớ mãi cho đến trọn đời, mà bao giờ làm giỗ chạp nhớ ngày người đã qua đời thì phải cứ sự thật [= theo việc thật], sự phải lẽ, chẳng nên làm sự dối trá mà có tội” (tr. 103-104).
Phụng Sự Quân Vương: Sau trình bày về đạo làm con, bản văn tiếp tục bàn đến bổn phận của người bầy tôi trung thành với vua chúa là thế nào. Lòng trung quân ái quốc được cũng đặt trên nền tảng của đạo hiếu và triển khai như sau:
“Vậy thì ai nấy phải ra hết sức hết lòng làm tôi và trong đạo thánh ĐCT đã dạy tóm lại năm sự này mà tôn kính đấng làm vua
“Thứ nhất. Phải kính mến đấng cai trị trong nước… mà lòng kính ấy thì phải giữ cho trọn, là chẳng bao giờ nói lời gì làm việc gì phạm đến đấng làm vua…
Thứ hai. Phải vâng mệnh đấng làm vua. Vậy khi đấng trọng ấy phán lời gì hay khiến việc gì phải lẽ, chẳng lỗi phép đạo thánh ĐCT thì trong lòng và bề ngoài phải vâng phục, phải cứ cho trọn dù mà một ý khó nhọc thế nào…
Thứ ba. Phải chịu bô việc [= việc vua] cùng nộp tiền năm canh quý [= nộp thuế]. Vậy khi vua phán dạy đào kinh, đắp đường, làm kho…. thì phải vâng mà làm chẳng nên trốn lánh…
Thứ tư… Khi nhà nước có việc như khi đánh giặc thì phải dâng công, ra sức phù hộ…
Thứ năm. Kẻ muốn giữ đạo thánh ĐCT cho nên thì chớ có bao giờ mống lòng làm ngụy, dù có ai xúi dục dỗ dành cho của cải… thà chịu khó khăn khốn nạn, thà mất sự sống chẳng thà mất sự trung cùng vua… Kẻ ngoan đạo chẳng những là ở hết lòng ngay cùng vua mà lại hằng ngày hằng cầu xin ĐCT phù hộ thêm sức cho vua được trường cửu mà trị nước cho bằng an lâu dài…” (tr. 105-109)
Thờ Phượng Thiên Chúa: Sau khi đã bàn đến những bổn phận của người làm con, làm bầy tôi, văn bản giải thích lý do Thiên Chúa phải được tôn kính và sùng mộ trên hết mọi sự. Bằng cách lý luận tiệm tiến, bản văn cho thấy cha mẹ có công nuôi dưỡng dạy dỗ thì phải báo hiếu, mà vua chúa có công trị nước thì phải trả ơn, thì đối với đức Thượng Phụ là Thiên Chúa, là cha muôn loài, là vua trên hết các vua thì phải trả ơn báo hiếu đến dường nào. Mặc dù tâm trí con người không thể hiểu hết được sự vĩ đại của Thiên Chúa, tác giả vẫn liệt kê năm lý do cho lòng biết ơn này:
“Thứ nhất. [Vì] ĐCT sinh ra ta thì ta mới có, vì vốn ta là không, ví bằng ĐCT chẳng sinh ra ta thì chẳng lẽ nào mà có ta… dù cha mẹ sinh ra thì cũng có ĐCT sinh ra mới có…
Thứ hai. [Vì] ĐCT hằng gìn giữ ta liên. Ví bằng ĐCT chẳng gìn giữ ta một giây thì ta liền ra không tức thì…
Thứ ba. [Vì] ĐCT chẳng những sinh ra ta, gìn giữ ta mà còn sinh ra muôn vàn giống để nuôi dưỡng ta…
Thứ tư. Những kẻ có đạo phải cám ơn riêng ĐCT vì đã thương ta cách lạ là mở lòng cho ta được chịu đạo Thánh Người truyền…
Thứ năm.… [Vì ĐCT đã xuống bấy nhiêu ơn cho ta] thì ta phải thờ phượng Người vì Người là Đấng tốt lành, cùng phải kính mến Người vì Người là Đấng nhân lành, phải vâng phép Người vì Người là Đấng công bằng vô cùng, là Đấng cầm quyền, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ…” (tr. 110-118)
Bổn phận đối với Thiên Chúa là giữ các giới răn của Ngài cùng chuyên cần đọc kinh cầu nguyện được giải thích như sau:
Thứ nhất,… ta phải lấy hết lòng mà kính sợ cùng vâng lời ĐCT hơn vua chúa hơn cha mẹ muôn vàn trùng… phải giữ mọi sự trong lòng và bề ngoài thì mới đẹp lòng ĐCT bằng mười sự răn…
Thứ hai,… là hết sức thờ phượng kính mến tạ ơn ĐCT… năng chầu chực vua cả trên hết các vua chẳng nên trễ nải, và khi làm việc thờ phượng ĐCT thì bề ngoài quỳ gối chắp tay, trong lòng thì tin cậy kính mến…” (tr. 119-123).
Qua những trích đoạn nêu trên chúng ta thấy sách Bổn Giảng Đạo Thật/Chân Đạo Yếu Lý đã trình bày mạch lạc chi li việc thực hành giáo lý Tam Phụ như thế nào. Có thể nói đây là bản văn quan trọng nhất bàn về giáo lý Tam Phụ có tầm ảnh hưởng trên các sách giáo lý và hộ giáo sau này như sách Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ của Giám Mục Pierre (Pedro, Bá Đa Lộc) Pigneaux de Béhaine và sách Hội Đồng Tứ Giáo.
2.3.2 Sách Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ (1774)
Đây là cuốn giáo lý toát yếu theo dạng hỏi thưa dành cho giáo dân. Trong thư viện và văn khố của Hội Thừa Sai Ba-Lê (Missions étrangères de Paris) còn lưu trữ được bản viết tay bằng chữ quốc ngữ năm 1774 và bản chữ Nôm viết năm 1782. Bản Nôm cũng được khắc in và phổ biến rộng rãi ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.[18] Vì đây là sách giáo lý tóm tắt nên thuyết Tam Phụ chỉ được trình bày sơ lược trong giới răn thứ bốn (Thảo Kính Cha Mẹ) như sau:
“Hỏi: Giái [= giới] thứ bốn dạy ta những gì ? Thưa: Dạy ta phải thảo kính, vâng lời chịu lụy cùng giúp đỡ cha mẹ” (tr. 50)
“Hỏi: Giái này dạy ta phải thảo kính cha mẹ mà thôi sao ? Thưa: Cũng dạy ta phải kính thờ mọi kẻ bề trên, như vua chúa quan quờn [quyền], chúa nhà cùng thầy dậy dỗ và những kẻ già nua tuổi tác nữa” (tr. 52)
Sách giáo lý còn thêm vào đó những bổn phận của người trên đối với kẻ dưới như dạy dỗ, sửa phạt, làm gương tốt, và dưỡng nuôi (tr. 53). Trong những ấn bản chữ Nôm cũng như quốc ngữ sau này có bổ xung thêm những chi tiết về Tam Phụ và thường lấy lại trong sách Chân Đạo Yếu Lý.
2.3.3 Sách Hội Đồng Tứ Giáo (1864)
Sách Hội Đồng Tứ Giáo là một sách hộ giáo thuộc thế kỷ XIX có tầm ảnh hưởng sâu rộng vì được in bằng cả chữ Nôm lẫn quốc ngữ rất nhiều lần.[19] Được viết bởi một tác giả vô danh ở khoảng giữa thế kỷ XIX, cuốn Hội Đồng Tứ Giáo kể lại một cuộc tranh luận tôn giáo kéo dài ba ngày giữa một nho sĩ, một đạo sĩ, một tăng sĩ và một “tây sĩ” (giáo sĩ thừa sai) đã diễn ra năm 1773 dưới thời Chúa Trịnh Sâm. Cuộc tranh luận xoay quanh ba chủ đề: Ngày thứ nhất: Con người và vũ trụ từ đâu đến? Ngày thứ hai: Sống trên đời ta phải làm gì? và Ngày thứ ba: Chết rồi thì sẽ ra sao? Theo bản văn, mục đích chính của cuộc tranh luận này là để giải thích và biện hộ cho đạo Công giáo trước sự vu khống cho rằng đó là một tôn giáo ngoại lai, gieo rắc lầm lạc và gây nguy hại. Phần bàn về giáo lý Tam Phụ được trình bày trong ngày thứ hai, tóm tắt những điểm chính của sách Bổn Giảng Đạo Thật/Chân Đạo Yếu Lý bằng những câu chữ Hán, có lẽ để phổ biến cho các nhà Nho:
“Nho sĩ rằng: Bên đạo có dạy thờ phượng đấng làm vua chúa chăng?
Tây sĩ rằng: Có, vì trong đạo gọi đấng làm vua chúa là cha cả trong nước, coi sóc mọi người như con vì vậy dạy phải lấy 5 sự này mà kính thờ vua chúa:
Nhất tắc tôn kính vi nhất quốc chi thượng [= một phải tôn kính người làm bề trên cả trong nước]; Nhị tắc thụ mệnh tuy lao khổ bất từ [= hai phải vâng lệnh người dạy, dầu khó nhọc chẳng từ]; Tam tắc phục tòng cung cấp [= ba phải phục dịch đóng sưu thuế]; Tứ tắc hữu sự tương trợ [= bốn khi có việc phải sẵn lòng giúp đỡ]; Ngũ tắc tận trung ân báo bất khả manh tâm tiếm loạn [= năm hết lòng báo ân, chớ nuôi lòng phản loạn].”
“Nho sĩ rằng: Trong đạo có dạy thờ cha mẹ là thể nào nữa chăng?
Tây sĩ rằng: Trong đạo thánh có điều răn thứ bốn dạy con cái thảo kính cha mẹ, là điều răn đầu hết về loài người ta buộc kẻ làm con phải làm 7 sự này để mà phụng dưỡng cha mẹ là Nhất tắc kính uý [=một phải kính sợ]; Nhị tắc tòng mệnh [= hai phải vâng lời]; Tam tắc phụng dưỡng [= ba phải nuôi dưỡng]; Tứ tắc khuất nhẫn [= bốn phải nhẫn nhục chịu lụy]; Ngũ tắc tử hậu dĩ lễ táng chi [= năm phải dùng lễ mà an táng]; Lục tắc xả thí bần nhân vi phụ mẫu linh hồn khẩn kỳ ư Thiên Chúa [= sáu phải bố thí kẻ nghèo vì linh hồn cha mẹ mà cầu khẩn với Thiên Chúa]; Thất tắc cảm tư chung thì, thụ khán phần mộ, thường hành kỵ lạp, truy tư báo bản [= bẩy phải trọn đời cảm nhớ, chăm sóc mồ mả, hay làm giỗ chạp tưởng nhớ báo hiếu]. Ấy là phép trong đạo dạy thờ Tam Phụ: Thượng Phụ là Thiên Chúa, Trung Phụ là Quốc Vương, Hạ Phụ là cha mẹ vậy. (tr. 71-72)[20]
Giáo lý Tam Phụ chứng minh rằng người Công giáo có thể làm tròn tất cả các bổn phận luân lý Nho giáo đối với bề trên của mình. Hơn thế nữa cách người Công giáo thực hành đạo trung hiếu có phần vượt trội hơn Nho gia. Các nhà Nho chỉ đưa ra những bổn phận trung hiếu ở mức độ nhân bản, giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa người cầm quyền và bề tôi. Người Công giáo tìm cách mở rộng các nhân đức này vào lĩnh vực tâm linh. Họ cầu nguyện cho bề trên của mình trong khi còn sống cũng như khi qua đời.
- NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT VÀ ĐẠO TRUNG HIẾU
Như chúng ta đã thấy, học thuyết Tam Phụ là câu trả lời của người Công giáo trước cáo buộc rằng các Kitô hữu đã từ bỏ tổ quốc và cha mẹ của mình khi theo một tôn giáo Tây phương. Quan điểm của người Công giáo là Thiên Chúa mà họ phụng thờ chính là “thiên địa chân chủ”, là Chúa cả trời đất muôn vật, là vị Cha chung của muôn người muôn nước. Các tài liệu trên đã tìm cách trình bày giáo lý Tam Phụ trên nền tảng điều răn thứ tư của truyền thống Do thái – Kitô giáo: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Đồng thời, họ tìm cách thể hiện điều răn thứ nhất: “Ngươi sẽ không có Thiên Chúa nào khác bên cạnh Ta” trong bối cảnh tam cương ngũ thường ở Việt Nam.
Bằng cách đặt Thiên Chúa trên các vua chúa và các bậc cha mẹ, giáo lý Tam Phụ muốn nhấn mạnh chủ quyền của Chúa trên tất cả loài thọ tạo khác. Vì thế, đây có thể được xem là phương cách hội nhập văn hóa của giới răn thứ nhất trong bối cảnh Nho giáo ở Việt Nam.
3.1 Hiếu thảo và Thiên Chúa
Mặc dù truyền thống tâm linh Việt Nam thừa nhận một Ông Trời, rất ít người được tiếp xúc trực tiếp với Ngài. Chỉ có vua, người được coi là “con Trời” (thiên tử), mới phép đại diện cho tất cả mọi người thờ Trời. Ông Trời hay Hoàng Thiên Thượng Đế của Nho giáo là một Đấng Cao Cả, nhưng Đấng này chỉ liên hệ đến vạn vật trong một cách chung chung. Trời được cho là cội rễ của vạn vật, là nguồn gốc của nguyên tắc đạo đức, là vị thẩm phán tối cao. Vì Matteo Ricci đã thừa nhận rằng khái niệm Nho giáo cổ điển về Hoàng Thiên Thượng Đế có phần tương thích với khái niệm Thiên Chúa của Kitô giáo, sự sáng tạo của học thuyết Tam Phụ là đem Thiên Chúa vào cấu trúc gia đình, trong đó Ngài được xem là vị thuỷ tổ của mọi người. Thay vì là một năng lực siêu nhiên lạ lẫm, ông Trời của đạo Thiên Chúa được coi là người cha chăm sóc cho con cái mình, quan tâm đến đời sống con người và xét xử các hành vi đạo đức của họ.
Trong việc giải thích giáo lý Tam Phụ, hai tác phẩm Bổn Giảng Đạo Thật và Hội Đồng Tứ Giáo cùng dùng một từ đã được truyền thống Việt Nam sử dụng. Từ này vừa diễn tả lòng tôn kính đối với cha mẹ hoặc vua chúa của mình, vừa diễn tả lòng sùng kính đối với Thiên Chúa. Đó là động từ “thờ”. Không giống như khái niệm của phương Tây coi “thờ” hay “thờ phượng” (Latinh: adorare) là hành vi tôn giáo chỉ dành cho một mình Thiên Chúa,[21] khái niệm “thờ” của người Việt được áp dụng cho Thiên Chúa, cho cả người sống (thờ cha mẹ) và người chết (thờ tổ tiên), cho cả con người (thờ vua) và thần thánh (thờ thần Phật). Như thế, “thờ” là một từ mang nhiều ý nghĩa trong tâm thức người Việt. Bởi đó các vị thừa sai phân biệt các mức độ khác nhau của việc “thờ” và “kính”. Thí dụ, khi phản bác lại việc các nhà Nho cho rằng người Công giáo không giữ tập tục tang chế, tức là không báo hiếu, sách Hội Đồng Tứ Giáo khẳng định:
“Nho sĩ rằng: Điều báo hiếu là điều nói cho hay vậy. Vì khi cha mẹ chết thì đem chôn sấp chôn ngửa mà thôi nào có thấy tế lễ chi đâu mà rằng thờ phụng, nào có thấy mão gậy chi đâu mà cho ra tang chế như thói nhà nước mà rằng báo hiếu?
Tây sĩ rằng: Trong đạo thờ Tam Phụ, xong có sai đẳng chẳng bằng nhau mà việc tế lễ là cách thờ phượng trọng thể nhất, thì có một Đấng Thượng Phụ đáng việc trọng thể ấy mà thôi. Vậy con cái chẳng dám lấy cha mẹ là bực hạ phụ làm bằng Thượng Phụ đâu…” (tr. 73)
Chỉ Thiên Chúa chí tôn, vị Thượng Phụ, mới xứng đáng được thờ phượng với lễ nghi trọng thể nhất. Khi áp dụng chữ “thờ” cho vua chúa và cha mẹ, tác giả chỉ nói đến thái độ tôn kính và phụng sự các ngài trong quan hệ giữa người với người. “Thờ” Trung Phụ có nghĩa là tuân lệnh và phục vụ vị vua của mình trong bổn phận của người bầy tôi: tôn trọng vua như người đứng đầu dân tộc; chấp hành mệnh lệnh của vua; đóng góp vào việc công ích; giúp triều đình dẹp loạn và chống ngoại xâm; tỏ lòng biết ơn và trung thành, không bao giờ nổi loạn và cướp ngôi. Tương tự như vậy, “thờ” Hạ Phụ chủ yếu nhắm đến nhiệm vụ làm con đối với cha mẹ của mình, sống đạo hiếu qua việc kính sợ, vâng phục, yêu mến, chăm sóc, quan tâm, phục vụ cha mẹ khi còn sống, và tưởng nhớ cầu nguyện khi họ qua đời.
3.2 Hiếu Kính Tổ Tiên
Về chủ đề thờ cúng tổ tiên, các tác giả Công giáo đều khá thận trọng khi suy xét về việc tôn kính thích hợp dành cho ông bà cha mẹ. Khi bàn về điều răn thảo kính cha mẹ, là điều răn đứng đầu trong số các điều răn về tương quan giữa người với người, các văn bản quy định làm cách nào để người Công giáo Việt thực hành đạo hiếu với tổ tiên mà không vi phạm điều răn thứ nhất là chỉ thờ phượng một Thiên Chúa mà thôi. Trong sách Bổn Giảng Đạo Thật, người tín hữu được nhắc nhở phải tổ chức an táng, giỗ chạp theo nghi thức Công giáo và không pha trộn mê tín dị đoan. Việc thực hành đạo hiếu cốt ở lòng thành chứ không phải chỉ theo thói tục mà không suy xét. Thí dụ như để phản bác lại việc người Công giáo không cúng đồ ăn, rượu thịt cho người đã qua đời, sách Hội Đồng Tứ Giáo lý luận rằng:
“Nguyên sự ăn uống của dương thế, thì chỉ có một xác ăn cho được khoẻ được sống, song khi đã chết thì thôi, vì ngũ quan đã hư nát, ngũ tạng đã hủ lậu, còn ăn đí gì được nữa mà mời… Linh hồn là tính thiêng liêng hằng sống mãi, chẳng hay mòn, chẳng hay nát cùng chẳng hề có ăn uống của thế gian này sốt. Vả lại linh hồn trọng hơn xác muôn vàn phần. Nếu lấy của phàm trần xác ăn mà mời linh hồn ăn, chốc ấy chẳng những là chẳng làm ích gì cho người về phần linh hồn mà lại mất lòng người, ra như trêu ngươi nhạo người vậy…” (tr. 74-75)
… Cứ xem hai bên, một bên thì tin thật ông bà cha mẹ đã về kiếp khác thì thôi con cháu chẳng đơm cúng chẳng mời khấn nữa. Mà bên kia tin rằng linh hồn còn đi về còn ăn uống của nuôi xác như thuở bình sinh và lại có phép vưng hộ con cháu. Tin làm vậy mà lại bỏ chẳng cho ăn uống hay là một năm mới cho ăn một bữa, rồi lại tống người đi. Thế bên nào thật bên nào hư ?” (tr. 77).
Đối với người bên lương, người Công giáo có vẻ không hiếu kính cha mẹ vì không cúng tế hoặc giữ những tục lệ về tang chế, giỗ chạp như những người Việt khác, chẳng hạn như cúi lậy phủ phục trước người đã khuất, hoặc tham dự vào các nghi thức cúng giỗ ở nhà từ đường với họ hàng. Để trả lời cho những cáo buộc này, các tác giả Công giáo nhấn mạnh rằng họ thật sự là những con cháu hiếu thảo, nhưng họ không bầy tỏ lòng hiếu thảo theo các phong tục tập quán mà họ thấy là trái ngược với đức tin. Người Công giáo Việt từ xưa đến nay vẫn cầu nguyện cho ông bà cha mẹ tổ tiên, nhưng không cúng tế vì họ tin rằng linh hồn ông bà cha mẹ đã rời bỏ thế giới này để chịu phán xét và thưởng phạt đời sau. Điều quan trọng hơn chính là cầu nguyện cho linh hồn của người chết được siêu thoát chứ không phải là thực hành một số nghi thức bề ngoài. Đối với tác giả của sách Hội Đồng Tứ Giáo, việc cúi lạy trước một xác chết vô hồn hoặc cúng thức ăn mà người chết không còn ăn được, không phải là hành vi hiếu thảo, nhưng là một sự nhạo báng người chết.[22] Linh hồn người quá cố đang sống trong thế giới thiêng liêng và cần lời cầu nguyện, chứ không phải của cải và thực phẩm của người sống. Nếu thực hiện theo nguyên tắc Nho giáo “sự tử như sự sinh” (phụng sự người quá cố như người còn đang sống vậy) thì người Công giáo cho rằng việc cầu nguyện, bố thí, hy sinh, thì sinh ích lợi cho ông bà cha mẹ đã qua đời hơn là thực hành các nghi thức mà họ cho rằng không đem lại lợi ích thiêng liêng nào cả.[23]
3.3 Trung Quân Ái Quốc
Các nhà nho và vua quan triều Nguyễn ghét đạo, cấm đạo trong thế kỷ XVIII và XIX vì họ cho rằng người Công giáo không biết gì đến đạo hiếu, đạo trung. Bài hịch của phong trào “bình tây sát tả” của nhóm Văn Thân đã lên án người Công giáo là “vô quân vô phụ” (không biết đến vua, không biết đến cha). Rõ ràng là những người có đầu óc kỳ thị tôn giáo đã bỏ qua tất cả những sách vở Công giáo viết bằng chữ Nôm. Các sĩ phu và vua quan triều đình ít người chịu tìm hiểu kỹ càng về những người theo đạo Thiên Chúa xem họ ăn ở ra sao. Họ giữ khư khư những quan niệm và định kiến sai lạc về đạo mặc dù đã có nhiều lời trần tình và giải thích từ những sĩ phu Công giáo như Nguyễn Trường Tộ hay linh mục Đặng Đức Tuấn.
Trong bối cảnh trọng Nho giáo của nhà Nguyễn, thì việc đề cao thuyết Tam Phụ cho thấy người Công giáo tuân lệnh vua một cách có suy nghĩ, có lựa chọn, tuân giữ luật lệ hợp lý, nhưng sẵn sàng phản đối điều nghịch lý trái với lương tâm mình. Thí dụ như khi bị ép buộc bước qua thánh giá, linh mục Phêrô Nguyễn Văn Tự (1796-1838) đã trả lời quan tòa rằng: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”[24]
Trong suốt thế kỷ XIX, có rất ít trường hợp người Công giáo nổi loạn bạo động chống lại vua và triều đình, ngay cả khi họ bị đàn áp nặng nề.[25] Vào thời điểm Pháp xâm lược ở Nam Kỳ (1862-1867) và sau đó ở Bắc Kỳ (1874-1882), một số giáo sĩ người Pháp đã trông đợi vào sự tiếp tay của người Công giáo Việt Nam cho quân đội Pháp, nhưng điều đó đã không xảy ra. Người Công giáo Việt đã chứng minh rằng họ là bầy tôi trung thành nhất của triều đình. Tỷ lệ người Công giáo đi theo thực dân Pháp chỉ là số ít và không cao hơn những người bên lương, kể cả các mệnh quan triều đình cộng tác với thực dân. Đáng tiếc là những người thù ghét Công giáo và chống Tây như phong trào Văn Thân ở thế kỷ XIX đã không chú ý đến điều này mà tiếp tục vu khống người Công giáo là những người bất trung bất hiếu – một nhận thức sai lầm kéo dài trong suốt thời Pháp thuộc, và còn tiếp tục nơi những kẻ cực đoan ngày nay.
- KẾT LUẬN
Giáo lý Tam Phụ là một nỗ lực hoà nhập vào xã hội Việt Nam thời xưa khi dùng khái niệm văn hoá để diễn tả đức tin Công giáo cho người dự tòng và tân tòng. Khi giáo sĩ De Rhodes giới thiệu thuyết Tam Phụ của Ricci với người Việt, ngài đã tìm cách trình bày niềm tin độc thần của đạo Thiên Chúa sao cho hợp với trật tự tam cương ngũ thường của xã hội Nho giáo. Trong cấu trúc gia đình và xã hội thời đó, Thiên Chúa chính là vị Thượng Phụ, là người cha cả xứng đáng với địa vị và vinh dự cao trọng nhất. Đây là một thích nghi sáng tạo cho phép các Kitô hữu giữ lòng kính tôn cao nhất dành riêng cho Thiên Chúa, vượt trên các mối quan hệ khác trong xã hội. Trong hai tác phẩm Bổn Giảng Đạo Thật (Chân Đạo Yếu Lý) và Hội Đồng Tứ Giáo, chúng ta thấy người Công giáo tự tin cho rằng tôn giáo của họ có thể phù hợp với đạo đức Nho giáo truyền thống. Thuyết Tam Phụ được đề xuất và bảo vệ cho đến cuối thế kỷ XIX, điều đó chứng minh rằng giáo lý Công giáo có thể thích nghi với thế giới quan và nền văn hoá sẵn có. Như thế một quá trình bản địa hoá của đức tin Kitô giáo đã được bắt đầu.
Qua giáo lý Tam Phụ, người Công giáo Việt Nam đã phản bác quan niệm cho rằng theo đạo Thiên Chúa là bỏ truyền thống dân tộc, bỏ ông bà cha mẹ, là không trung quân ái quốc. Truyền thống Việt Nam xem trọng đạo trung hiếu vì đó là nền tảng cho một xã hội ổn định, là các giá trị đạo đức cần thiết cho cuộc sống gia đình. Người Công giáo khẳng định chữ trung với vua, chữ hiếu với cha mẹ, cho dù cách bầy tỏ không giống với lễ nghi của người đương thời. Có thể nói, tự bản chất, đạo Thiên Chúa cũng là đạo Hiếu, nên Đạo này có thể thích nghi và đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người Việt như các tôn giáo khác.
Đối với người Công giáo, họ không thấy tôn giáo mà họ đang theo là xa lạ và đối chọi với văn hoá và truyền thống dân tộc. Niềm tin vào một Đấng chí tôn mà họ gọi là đức Chúa trời đất, và một đời sống luân lý dựa trên lòng bác ái và trung hiếu: “Trước kính mến một ĐCT, sau lại yêu người như mình ta vậy”, những điều này không có gì trái với xã hội và con người Việt Nam. Nếu có ai đó cho rằng đạo Thiên Chúa là đạo ngoại lai thì thật ra đạo này cũng không ngoại lai hơn Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo vốn là sản phẩm của Trung Quốc và Ấn Độ. Mặc dù biểu hiện có thể khác nhau, tự bản chất đạo Thiên Chúa cũng có thể hoà mình vào xã hội Việt như Tam Giáo đã làm trước đó.
Hội nhập văn hóa là đọc các dấu chỉ của thời đại và đưa ra một thích ứng phù hợp. Giáo lý Tam Phụ được hình thành để đáp ứng nhu cầu trong những thế kỷ trước. Đó là để củng cố đức tin của nhóm người Công giáo bị kỳ thị và đàn áp, cũng như để xua tan nỗi sợ hãi và nghi ngờ của những kẻ chống đối họ. Trong Giáo hội Việt Nam ngày nay, thách đố mới là làm sao tạo được cuộc đối thoại giữa tôn giáo và thế tục. Chúng ta phải đối diện với sự xói mòn của văn hóa truyền thống, sự toàn cầu hóa và tương đối hoá các giá trị nhân bản do ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông. Vì vậy hội nhập văn hóa đòi chúng ta phải thích nghi một cách sáng tạo các giá trị Kitô giáo cho một xã hội đương đại mà vẫn giữ được cốt lõi của đức tin truyền thống.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 86 (Tháng 1 & 2 năm 2015)
[1] Thuật ngữ Latinh “inculturatio” xuất hiện trước hết tại Tổng Hội của dòng Tên lần thứ 32 năm 1975 và trong các văn kiện chính thức của Giáo Hội từ tông huấn của Đức Gioan Phaolô II về giáo lý Catechesi Tradendae (1979) trở về sau, chẳng hạn như Slavorum Apostoli (1985), Redemptoris Missio (1990), Fidei et Ratio (1998), Ecclesia in Africa (1995), Ecclesia in America (1999), Ecclesia in Asia (1999), Ecclesia in Oceania (2001), Ecclesia in Europa (2003), Ecclesia de Eucharistia (2003).
[2] Xem Irenaeus of Lyons: “[T]he Word of God, our Lord Jesus Christ, who did, through His transcendent love, become what we are, that He might bring us to be even what He is Himself” (Against Heresies, Book 5, Preface); Clement of Alexandria: “[T]he Word of God became man, that thou mayest learn from man how man may become God (Exhortation to the Heathen, Chapter 1); Athanasius of Alexandria: “For He was made man that we might be made God” (On the Incarnation of the Word of God, paragragh 54).
[3] Dẫn theo “Inculturation” trong New Dictionary of Theology do Komochok, Collins & Lane chủ biên (Michael Glazier, 1987), tr. 510-513.
[4] Ở Hàn Quốc dưới triều đại Joseon (Chosôn), có các triết gia nổi tiếng như Yi Hwang T’oe-gye (1501-1570) và Yi I Yul-gok (1536-1584). Ở Nhật Bản có ba học phái trong triều đại Edo: Chu Tử Học: Fujiwara Seika (1561-1617), Hayashi Razan (1583-1657), Yamazaki Ansai (1619-1682); Dương Minh Học: Nakae Tôju (1608-1648) Kumazawa Banzan (1619-1691); Cổ Học: Yamaga Sokô (1622-1685), Itô Jinsai (1627-1705), Ogyû Sorai (1666-1728).
[5] Chu Hy (1130-1200) triết gia đời Tống đã đưa Tứ Thư (sách Đại Học. Trung Dung. Luận Ngữ, Mạnh Tử) vào quy điển của Nho gia mà các sĩ tử cần phải biết. Ở Trung Hoa, các sách chú giải của Chu Hy là sách giáo khoa được dùng gần 600 năm trong các kỳ thi (từ 1313 đến 1905).
[6] Theo báo cáo của giáo sĩ dòng Tên Joseph Tissanier (xem Montézon, Mission de la Cochinchine et du Tonkin, Paris 1868, tr. 143, 159) thì năm 1663 đã có 300 ngàn tín hữu ở Đàng Ngoài. Nhưng theo các thừa sai MEP thì chỉ có hơn 80.000 tín hữu thôi (Adrien Launay, Histoire de la Mission du Tonkin, Paris 1927, tr. 86). Xem nhận xét và phê bình của Trương Bá Cần, Lịch Sử Phát Triển Công Giáo ở Việt Nam (NXB Tôn Giáo, 2008) tr. 176-177.
[7] Giáo sĩ Buzomi đã nhận xét: “Nhờ Nho giáo, xã hội và gia đình ở đất nước này (Đàng Trong) đã có một tổ chức rất cao. Người dân nước này có những đức tính và phong tục đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” dẫn theo Nguyên Hồng Lịch Sử Truyền Giáo ở Việt Nam (Saigon, 1959), tr. 55.
[8] Trong việc tang ma chằng hạn, người Công giáo Việt không chọn hướng mồ mả theo phong thủy địa lý, không chọn ngày giờ để chôn, không đốt vàng mã. Người Công giáo Việt Nam không cúng rượu thịt mà chỉ dâng hương hoa. Họ vẫn để tang ông bà cha mẹ và đặc biệt là dâng lễ đọc kinh, cầu siêu cho người quá cố.
[9] Phép Giảng Tám Ngày – Ngày Thứ Nhất (Tủ Sách Đại Kết, 1993) tr. 25-26.
[10] Dịch theo bản song ngữ Hán-Anh, The True Meaning of the Lord of Heaven, do Douglas Lancashire and Peter Hu Kuo-chen dịch và chú (Institute of Jesuit Sources, 1986), đoạn 558,tr. 433.
[11] Phép Giảng Tám Ngày — Ngày thứ Nhất, tr. 17-21.
[12] Xem sđd, tr. 21-23.
[13] Xem sđd, tr. 23-24.
[14] Xem qua mục lục của bản thảo ta sẽ thấy có các chủ đề sau: 1) Giảng lẽ đời này cùng sự chết và sự xác cùng linh hồn cùng muôn vật (tr. 1-15); 2) Giảng lẽ về sự trời đất, cùng các tích về thờ dối là thể nào (15-49); 3) Giảng về Tam Phụ (50-69); 4) Giảng Đức Chúa Trời là thể nào cùng mọi sự Đức Chúa Trời đã sinh ra, gọi là tạo thiên lập địa (69-91); 5) Giảng sự con Đức Chúa Trời ra đời (91-103); 6) Giảng sự phán cùng sự thiên đàng và sự địa ngục (103-114); 7) Giảng Bốn Mối Cả (Kinh Tin Kính, Kinh Lạy Cha, Bí tích, và điều răn (114-129); 8) Giảng toàn lại các sự cho người ta được chịu phép rửa tội (129-138); 9) Giảng cho người ta những sự phải giữ khi đã chịu phép rửa tội.
[15] Theo Mục lục thư tịch Hán Nôm tàng trữ tại Hội Thừa Sai Ba Lê do Chan Hing-ho và Isabelle Landry-Deron sưu tập (Paris, 2004), có ít là 4 ấn bản Nôm của sách Chân Đạo Yếu Lý: Cấm Sơn 1829, 1864; Gia Định 1867, Phát Diệm 1909.
[16] Nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo của cố linh mục Thanh Lãng và Nguyễn Hưng đã dịch sang quốc ngữ và lưu hành nội bộ từ năm 2007. Bản văn Nôm “Bổn Giảng Đạo Thật” dùng để dịch bị mất trang đầu nên không rõ năm in, nhưng xét theo cách hành văn và lối khắc chữ mộc bản, có lẽ đây là bản Nôm được khắc in dưới thời Thiệu Trị hoặc đầu thời Tự Đức vì có nhắc đến việc tha đạo bên Trung Quốc dưới thời Đạo Quang hoàng đế (1821-1850) (tr. 262). Sách Bổn Giảng Đạo Thật giữ lại 7 chương đầu của bản quốc ngữ 1758 (tr. 13-215), nhưng thêm hai chương mới và phần bổ xung: 8) Giảng về đôi lời về Kinh Thánh đã có chứng (215-240); 9) Giảng về sự ngũ thường cùng giảng nhiều điều bỏ vạ cho kẻ giảng đạo (240-258); Bổ xung: Giảng một đôi lời giải những điều bỏ vạ cho kẻ giảng đạo (258-271). Bản văn bị rách hết những trang sau cùng nên không rõ cả thẩy có bao nhiêu trang.
[17] Tất cả trích dẫn về giáo lý Tam Phụ sẽ theo bản dịch từ chữ Nôm của nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo (“Chân Đạo Yếu Lý” do linh mục Nguyễn Hưng xuất bản năm 2007) thay vì bản thảo năm 1758 để dễ dàng cho độc giả tiện việc tra cứu. Những khác biệt giữa hai bản văn không ảnh hưởng nhiều đến việc tìm hiểu về giáo lý này.
[18] Nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo cũng đã in và lưu hành một bản dịch quốc ngữ từ bản Nôm.
[19] Theo Mục lục thư tịch Hán Nôm tàng trữ tại Hội Thừa Sai Ba Lê do Chan Hing-ho và Isabelle Landry-Deron sưu tập (Paris, 2004), có ít là 9 ấn bản Nôm của sách Hội Đồng Tứ Giáo (1864, 1867, 1869; Phát Diệm 1867, 1869, 1909; Hongkong 1897, 1903, 1905). Ngoài ra còn có hai bản Nôm in tại Kẻ Sở 1911 và 1924, khoảng 80 trang. Bản quốc ngữ được nhà in Tân Định in lần thứ 3 năm 1887, lần thứ 6 năm 1915, và lần thứ 14 năm 1959, khoảng 76 trang. Rõ ràng là cuốn sách đứng kỷ lục về lần xuất bản.
[20] Trích theo bản dịch từ chữ Nôm của nhóm dịch thuật Hán Nôm Công Giáo ấn hành năm 1996.
[21] De Rhodes trong sách Phép Giảng Tám Ngày – Ngày Thứ Tám, khi bàn về điều răn thứ nhất đã giải thích vê latria, dulia và hyperdulia (xem sdd, tr. 285). Thần học phương Tây phân biệt những mức độ khác nhau của việc suy tôn: “latria” (tôn thờ Thiên Chúa), “dulia” (tôn kính các thánh ), và “hyperdulia” (tôn kính đặc biệt Đức Trinh Nữ Maria).
[22] Xem lý luận trong Hội Đồng Tứ Giáo tr. 73-80 bàn về việc cúng tế và bái lậy người chết.
[23] Nên nhớ các thừa sai ở những thế kỷ trước cho rằng việc bái lậy, cúng tế là những hành vi tôn giáo nghịch lại với điều răn thờ phượng ĐCT trên hết mọi sự. Ngày nay thì việc bái lậy, dâng hương và cúng giỗ được coi là truyền thống văn hoá và không trái nghịch với điều răn thứ nhất.
[24] Dẫn theo tinmung.net
[25] Những cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi dưới thời Minh Mạng ở Gia Định, hay Tạ Văn Phụng dưới thời Tự Đức ở Bắc Việt xuất phát từ động cơ chính trị chứ không phải tôn giáo.