2020
Số 40 và Lễ Phục Sinh mới
SỐ 40 VÀ LỄ PHỤC SINH MỚI
Trong Thánh Kinh, ai nào đó hơn một lần ngâm cứu hay lắng nghe một chút thì để ý đến các con số. Các con số đặc biệt mà nhiều người để ý là 3, 12 và 40. Có rất nhiều biến cố khác nhau trong Kinh Thánh liên quan đến con số 40. Theo các nhà nghiên cứu Thánh Kinh, ta thấy con số 40 xuất hiện 146 lần trong Kinh Thánh.
Có nhiều ý nghĩa khác nhau liên quan đến con số này, nhưng nổi bật lên, con số 40 nói đến một thời gian dài. Đó có thể là thời gian của thử thách, thời gian của thanh luyện, hay đó cũng là thời gian của sự chờ đợi để bắt đầu một điều mới mẻ, tốt đẹp.
Con số 40 trong Kinh Thánh mang nhiều ý nghĩa sâu xa khác trong đời sống tôn giáo của dân Do Thái ngày xưa. Và dĩ nhiên cũng liên quan đến đời sống phụng vụ người Kitô hữu ngày nay.
Con số 40 xuất hiện đầu tiên trong Kinh Thánh là nạn Hồng thủy kéo dài 40 đêm ngày thời ông Noê (St 7,4, 12, 17, 8;6). Qua chuyện này, ta thấy lúc đó dân mặt đất đã ra hư hỏng và Thiên Chúa muốn làm một cuộc gột rửa trái đất để mắt đầu sự sống mới. Gia đình Nôê là những người đẹp lòng Thiên Chúa và Thiên Chúa đã chỉ dạy cho họ biết phải làm gì để được cứu sống.
Dính dự đến Môsê vì Môsê là người đã dẫn dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập để đến vùng đất tự do Thiên Chúa hứa ban cho dân Israel. Ông Môsê đã sống 40 năm bên Ai Cập, sau đó ông sống 40 trong vùng sa mạc trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm người đứng đầu trong hành trình thoát ách nô lệ Ai Cập của người dân Israel. Ông là người đại diện dân Israel lên núi để nhận Mười điều răn và ông ở trên đó với Thiên Chúa 40 ngày đêm (Xh 24, 18). Ông cũng là người ra lệnh những người thăm dò vùng đất mới dân Israel sẽ tiến vào. Những người được sai đi mất 40 ngày đêm để thăm dò vùng đất đó (Ds 13, 25).
Hết sức đặc biệt, sau khi vượt qua Biển Đỏ thoát ách nô lệ Ai Cập, dân Israel đã phải sống trong sa mạc, loanh quanh trong đó đến 40 năm mới được vào đất hứa. Đây là thời gian Thiên Chúa dạy dỗ dân của Ngài. Đây là thời gian thử thách, thời gian chờ đợi để chuẩn bị bước vào vùng đất tự do, vùng đất của lời hứa. Con số 40 này cũng mang ý nghĩa một thế hệ qua đi, thế hệ đã kêu trách Thiên Chúa họ không được vào Đất Hứa.
Con số 40 cũng phần nào dính dự đến cuộc đời của các ngôn sứ: Ngôn sứ Êlia phải đi 40 ngày đêm đến núi Horeb trú ẩn vì hoàng hậu Elizabeth cho quân lính lùng bắt (1V18, 19). Ngôn sứ Giôna kêu gọi dân thành Ninivê ăn chay 40 ngày đêm để tỏ lòng sám hối vì những lỗi lầm đã phạm (Gn 3,1-10)
Và khi đến Kinh Thánh Tân Ước, ta thấy Thánh Kinh còn ghi : Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày để bắt đầu một sứ vụ loan báo Tin Mừng (Lc 4, 1-13) Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra và ở lại với các môn đệ của Ngài trong vòng 40 ngày, sau đó Ngài về trời (Cv 1, 3-9).
Hàng năm, trong lịch phụng vụ, ta thấy Hội thánh Công giáo cử hành Mùa Chay 40 ngày để bước vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và đón mừng niềm vui của đại lễ Phục Sinh, niềm vui của chiến thắng.
Và ta cứ tưởng chuyện Kinh Thánh là chuyện xa xưa, chuyện cổ tích như các cô giáo hay kể cho các cháu mầm non : “Cô kể cho các con câu chuyện này, xưa thiệt là xưa, xưa ơi là xưa …”. Kinh Thánh vẫn mới và mới trong từng ngày sống của nhân loại, của mỗi chúng ta dẫu rằng được viết ra hơn 20 thế kỷ.
Nhìn lại dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta vẫn bắt gặp đâu đó hình ảnh của một Đavit như thế này như thế kia … Ta vẫn bắt gặp hình ảnh của tông đồ đoàn như thời Chúa Giêsu vậy. Dù sống chung với Thầy nhưng toan tính tìm chỗ nhất chỗ nhì trong Vương Triều của Thầy. Tiếc thay lại vô cảm vì không biết Thầy để Thầy phải nói : “Này anh Philipphê, anh ở với Thầy bấy lâu mà anh không biết Thầy sao ?”
Và, con số 40 ngày qua dường như rất thiết thực trong đời sống của mỗi Kitô hữu.
40 ngày qua không đến Nhà Thờ dự Thánh Lễ như bình thường mà phải qua màn hình điện thoại hay vi tính.
40 ngày qua không được rước Mình Thánh Chúa vào lòng
40 ngày qua không được đến với Chúa một cách tự nhiên như trước
Và, trong sự trải nghiệm của 40 ngày, mỗi người sẽ có những tâm tình khác nhau. Thế nhưng rồi vẫn có mẫu số chung đó là 40 ngày trong lặng lẽ, trong gẫm suy của cuộc đời.
Phải chăng thời gian 40 ngày qua là thời gian mà Thiên Chúa muốn dạy dân Ngài như xưa dạy dân Do Thái 40 năm trong sa mạc. Phải chăng 40 ngày qua là 40 ngày mày Chúa muốn con cái nhìn lại đời sống đức tin của mình, nhìn lại tương quan giữa mình với Thiên Chúa và anh chị em đồng loại nhất là với những người thân trong gia đình cùng sống trong mái ấm. 40 ngày qua phải chăng là điều Chúa muốn nói với mọi người hãy suy nghĩ nhiều hơn về phận người, nhất là phận mỏng giòn mong manh dễ vỡ. 40 ngày qua phải chăng là 40 ngày Chúa nói rằng tất cả con người không làm gì được mà chỉ mình Thiên Chúa mới là chủ trái đất này thật sự mà thôi.
Hôm nay, khi mọi người được trở lại Thánh Đường, được trở lại tham dự Thánh Lễ thì phải chăng là mừng Lễ Phục Sinh mới hay không ? Dễ hiểu là 40 ngày qua, đặc biệt trong ngày Đại Lễ Phục Sinh, mọi người cứ âm thầm và lặng lẽ trông ngóng ngày Phục Sinh.
Cùng với Giáo Hội, ta mừng Lễ Phục Sinh mới cách long trọng và ý nghĩa. Xin Chúa Phục Sinh cho chúng ta cởi bỏ con người cũ và bước vào đời sống mới cùng với Đức Kitô Phục Sinh. Xin cho chúng ta hãy trở nên chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh của Chúa ngay trong thực tại hàng ngày của chúng ta.
Xin cho mỗi người chúng ta biết bỏ đi những cái cũ, những cái gì là cản trở tương quan của ta với Chúa và anh chị em chúng ta. Xin cho chúng ta luôn sống tâm tình trong mầu nhiệm Mân Côi thứ hai mùa Mừng : “Chúa đã sống lại thật xin cho được sống lại thật về phần linh hồn” nghĩa là đừng sống theo cảm nghĩ xác thịt nữa mà hãy hướng, hãy chuyên chăm lo phần hồn của mỗi người chúng ta.
Và xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương và phục vụ anh chị em chúng ta như Chúa đã yêu thương và phục vụ chúng ta trong cuộc sống đời thường của chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã sống lại thật Halleluia
Và ta cùng với Mẹ để thưa rằng :
Lạy Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng Halleluia
và ta tiếp tục với lời xin : Xin cầu cùng Chúa cho chúng con – Halleluia. Xin Mẹ hiệp lời cầu xin để cho cơn đại dịch mau qua, cho mọi người được bình an và nhất là xin cho mỗi người hãy làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh bằng đời sống của mỗi người Kitô hữu.
2020
Sức mạnh của lời cầu nguyện
Sức mạnh của lời cầu nguyện
Tân Thông Hội là một xã thuộc huyện Củ Chi, Sài Gòn. Vào năm 1970, sau biến cố chính trị ở Campuchia, đông đảo bà con Việt Nam sinh sống bên đất nước Campuchia hồi hương về nước. Một số đông đồng bào lương giáo được tiếp nhận và thành lập một Làng Việt kiều tại Xã Tân Thông Hội. Ấp Tân Tiến thuộc xã tân Thông Hội, lúc đó chỉ là rừng cây cao su, bà con đã khai hoang và dựng nhà để ở. Tân Thông Hội thời thập niên 1970- 1980 rất nghèo đói, dân chúng ở trong những căn nhà lá lụp sụp, chung quanh trồng trúc, họ làm đủ mọi việc để sinh sống. Các dòng tu cũng được Giáo quyền mời về đây phục vụ. Đáp lời mời, dòng Đức Bà Truyền Giáo (ĐBTG) đã đến Tân Thông Hội. Sứ mạng của các nữ tu ĐBTG trong giai đoạn này là phụ trách một Cô nhi viện, dạy nghề cho phụ nữ: may, thêu, móc, đan lát, thăm viếng, hàn gắn các gia đình có nguy cơ tan vỡ, phát lương thực, phát thuốc cho người nghèo.
Trong khu xóm nhỏ, có anh chị Thuận-Phượng là gia đình lương dân. Anh Thuận làm nghề thêu khăn bàn và các bức tranh đồng quê rất đẹp, còn vợ anh, chị Phượng, buôn bán ngoài chợ. Họ tên Thuận nhưng sống không hòa thuận chút nào. Tối ngày họ to tiếng với nhau, có lúc còn rượt nhau ra đường, hoặc khóc rấm rứt suốt đêm. Các nữ tu luôn phải khuyên giải và can ngăn…nhưng cũng chẳng đi đến đâu. Thế rồi như sợi dây đàn quá căng, thì phải đứt… Họ đi đến ly hôn, dù đã có với nhau một cậu con trai 2 tuổi, tên Thắng, rất đẹp và dễ thương. Từ đó anh Thuận bỏ đi nơi khác để sống.
Trong hoàn cảnh đó, các nữ tu Đức Bà Truyền Giáo đến thăm viếng, an ủi, khuyên bảo, hỗ trợ chị Phượng. Ngày qua ngày chị Phượng xin đọc kinh với các nữ tu, nhưng vẫn không muốn theo đạo Công giáo…
Vài tháng sau, một buổi tối, tôi sang nhà chị và đưa cho chị cuốn sách Tân Ước, vì chị ao ước đọc Kinh Thánh. Ôi, thật ngạc nhiên, tôi thấy anh Thuận có mặt trong phòng. Anh bẽn lẽn chào tôi, tôi hiểu ra sự việc, tôi quay về cộng đoàn của mình… Sau đó tôi khuyên họ trở về với nhau để lo cho con.
Sau vài năm tôi kiên trì cầu nguyện và khuyên nhủ, chị Phượng đã được ơn làm con cái Chúa, chị rất ngoan đạo, siêng năng học và thực hành Lời Chúa. Chị còn gia nhập gia đình Trợ Tá Truyền Giáo và tham gia các hoạt đồng truyền giáo rất tích cực, chị còn là thành viên của nhóm Kinh Thánh, tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa hằng tuần. Chị tâm sự với tôi:
– Con chỉ còn một mối quan tâm duy nhất là cầu xin tha thiết cho chồng con theo Chúa.
Thế rồi, một ngày kia, anh Thuận đi xe honda gặp phải một cô bé sang đường, anh không tránh kịp, nên tự té, nằm lăn quay ra, không sao chỗi dậy được, mọi người phải đỡ lên, nhưng anh không sao đi lại được nữa và anh cảm thấy quá đau đớn, toàn thân ê ẩm. Gia đình đưa anh đến bệnh viện Xuyên Á, cách nhà khoảng 7 km, sau khi chụp X quang bác sĩ cho biết: Anh bị gẫy 7 chiếc xương sườn, không bó bột được, bác sĩ cho thuốc về uống và bảo anh phải ngủ ngồi trong vòng 8 tuần lễ, và tiếp tục uống thuốc, rồi sẽ tái khám sau.
Từ đó anh không thể đi, đứng hay nằm được, suốt ngày đêm chỉ ngồi dựa lưng vào các chồng gối mà thôi. Anh cảm thấy đau đớn, mỏi mệt, chán chường và thất vọng vô cùng. Mọi người đến an ủi, một ngày, hai ngày rồi ba ngày… Thời gian coi như bất tận, miệt mài, dai dẳng… hết đêm rồi lại ngày, anh cố chợp mắt, vừa ngủ gật một cái thôi, các xương sườn gẫy của anh lên tiếng, cả thân thể anh rúng động. Ôi! cơn đau đớn không thể diễn tả được… Anh rên rỉ trong tuyệt vọng khốn cùng, và vẫn nhớ lời bác sĩ căn dặn:
– Anh phải ngồi ngủ như vậy trong 8 tuần lễ liên tục, đồng thời uống thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ mới hy vọng lành được những chiếc sương xườn đã gẫy.
Ba ngày ba đêm trôi qua, anh đau khổ vì không sao cựa quậy được, lại thêm mệt mỏi vì không thể ngả lưng xuống giường dù chỉ một giây. Anh ngồi như một bức tượng, chung quanh là những chiếc gối to nhỏ đủ kiểu chèn cho anh không bị ngả nghiêng… đến ngày thứ tư anh quá đau đớn, anh lại cảm thấy mình là gánh nặng của vợ con, anh bắt đầu nghĩ quẩn, không muốn sống nữa, anh cảm thấy chết còn sướng hơn… Anh âm thầm nói với người cháu:
– Chú không sao ngủ được, con ra tiệm thuốc tây mua cho chú thuốc an thần, nhiều nhiều vào để chú uống dần.
Ngày hôm đó, khi chị Phượng đang chăm sóc, anh rên rĩ đau đớn và nói với chị:
– Đám tang công giáo bên nhà ồn ào quá, chắc là đông người đến viếng xác, đọc kinh cầu lễ cho người quá cố phải không em?
Chị Phượng thủ thỉ:
– Anh Thuận ơi, em theo Chúa lâu rồi, chỉ còn anh chưa cùng chiến tuyến với em. Nếu anh có mệnh hệ gì, em biết làm sao đây. Bấy lâu nay, em nghĩ anh đã có lần tin Chúa. Vậy anh theo Chúa với em nhé, anh dọn lòng chịu phép thanh tẩy nghen.
Trong lúc cơn đau đang hành hạ anh từng đợt, mồ hôi tước ra nhễ nhại, anh yếu ớt gật đầu tỏ ý ưng thuận. Chị Phượng thấy sắc mặt anh nhợt nhạt, nhịp tim yếu, anh từ chối không ăn uống thứ gì. Chị Phượng lo lắng và sợ hãi nên kêu cô Châu là y tá đến truyền nước cho anh. Sau khi truyền hết một chai, cô thấy mạch cứ tụt dần, cô Châu liền nói với chị Phượng:
– Anh ấy yếu lắm rồi, phải đưa đi bệnh viện gấp thôi.
Chị Phượng nói vói chồng:
– Anh ơi, em mời Cha Sở rửa tội cho anh trước khi đi bệnh viện nhé.
Mắt anh vẫn nhắm chặt, nhưng anh gật đầu. Chị Phượng vội báo cho chị Thi, một phụ nữ đạo đức, và cũng là một Trợ Tá Truyền Giáo rất nhiệt thành trong công việc truyền giáo. Chị Thi nhanh nhẹn tìm cách liên lạc với cha sở để xin ngài đến rửa tội gấp, nhưng thật không may, chị không sao gặp được ngài…Cuối cùng chị xoay sở và tìm được cha phó Anton, cha mau mắn đi với chị đến nhà anh chị Thuận mặc dù đã rất khuya. Bí tích thánh tẩy được cử hành ngay và chỉ có 2 giáo dân tham dự, cha Antôn làm cha đỡ đầu cho anh Thuận luôn. Sau khi rửa tội xong, anh hé mắt thì thầm lời cám ơn cha Anton xong là anh rơi vào tình trạng hôn mê ngay. Chị Phượng tìm xe để đưa anh đi bệnh viện, nhưng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, phải chờ đến sáng mới có xe để đi bệnh viện. Chị Phượng lo lắng, chị càng cầu nguyện khẩn thiết hơn, vừa cầu nguyện chị vừa sắp xếp lại những chiếc gối cho anh, đến nữa đêm chị cảm thấy mệt, nên ghé nằm bên những đống gối của anh và thiếp ngủ. Bỗng chị nghe tiếng anh gọi:
– Em ơi, anh chưa chết hả? Hình như anh đang sống? Nhưng sao anh lại nằm xuống được? Em đỡ anh ngồi dậy thử xem. Ôi, sao anh hết đau rồi, hết đau rồi…
Lúc đó chị Phượng vừa sợ vừa ngạc nhiên vì thấy khuôn mặt anh Thuận đang thảng thốt, chị không biết thật hư ra sao. Chị lắp bắp:
– Anh sao rồi? Đừng làm em sợ.
Anh Thuận thì thầm:
– Anh còn sống thật hả em? Em cho anh nắm tay em thử xem…
Sau đó anh Thuận thú nhận với vợ là anh đã uống hết 40 viên thuốc an thần một lần để tự tử vì anh quá đau đớn và thất vọng, anh nghĩ quẫn rằng anh không thể nào chịu đựng tình trạng đau đớn này và phải ngồi im không ngủ được trong 8 tuần. Mỗi lần anh chuyển mình thì những chiếc xương sườn của anh như rú lên và gào thét. Anh nghĩ rằng anh không nên làm khổ vợ con nữa và muốn tìm cái chết nhanh nhất để giải phóng cho chính mình.
Câu chuyện được chữa lành của anh thật lạ lùng. Anh kể rằng:
– Chiều hôm đó, khi uống xong 40 viên thuốc an thần, tôi bị thuốc vật, ruột gan tôi đau đớn khủng khiếp, tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết trước khi mọi người có thể làm gì đó để cứu tôi, tôi không còn hy vọng gì cho đến khi cha phó Anton đến và ban phép Thanh Tẩy cho tôi, khi cha Anton mặc áo các phép, mắt tôi bổng như chói lòa bởi một luồng ánh sáng, sau khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, tôi thiếp đi luôn, tôi tự nghĩ mình đã chết, đã được giải thoát để về với Chúa. Nhưng tôi không ngờ, Chúa đã chữa lành cho tôi. Tạ ơn Chúa.
Chị Phượng vô cùng xúc động và biết ơn Chúa, chị liên tục nói lời tạ ơn Chúa và gọi báo tin cho mọi người biết anh Thuận đã được chữa lành cách kỳ diệu sau khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Mọi người xung quanh hân hoan chúc tụng quyền năng vô biên của Thiên chúa đã dành cho gia đình anh chị Thuận Phượng.
Nhờ lời cầu nguyện tha thiết và kiên trì của chị Phượng, Thiên Chúa đã ban những ân huệ đặc biệt cho gia đình: Anh Thuận được chữa lành khỏi bệnh tật thể lý và bệnh tật trong tâm hồn. Anh đã trở thành con cái của Thiên Chúa, hiệp thông trong đoàn chiên của giáo xứ Tân Thông Hội, và trở thành gia đình sống đạo gương mẫu và hạnh phúc.
Đó là câu chuyện về “Mãnh lực của lời cầu nguyện trong gia đình”, lời cầu nguyện chân thành của một người vợ trở lại đạo đã cứu lấy được gia đình mình và đem được người chồng gia nhập giáo hội Công giáo cùng với mình và trở thành con Thiên Chúa. Hiện nay anh chị có được 3 người con trai và cả 3 đã lập gia đình.
“Tạ ơn Thiên Chúa, đã thương đoái đến phận hèn tôi tớ Ngài. Từ nay muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc” …Đó là lời trong kinh Magnificat của Đức Maria, mà chị Phượng đã lập lại trong biến cố vô cùng trọng đại của gia đình chị.
Viết bài: Sr. M. Phạm Thị Tuyết Mai- Rndm
Dòng Đức Bà Truyền Giáo
2020
Biết!
Một lần kia, đang ngồi nói chuyện với một người. Đang nói chuyện bâng quơ thì người kia nhắc đến một người nọ. Bản thân tôi không biết rõ về nhân vật đó nên cứ lẳng lặng mà nghe :
– Chú biết hông ! Bà đó hả ! Cái gì bả cũng biết hết đó nha ! Bả hay lắm đó nha ! Có cái bả hổng biết à !
Thiệt tình nên tui hỏi :
– Cái gì bà ấy hổng biết hả cô ?
– Chời ơi ! Có cái bả hổng biết là hông biết điều đó chú.
“Hổng biết điều !” 3 từ nhưng xem cũng hay hay đó chứ ! Đơn giản rằng ở đời ai ai cũng mong mình được người khác đối xử tử tế với mình. Để được như vậy thì buộc mình phải sống tử tế với người khác. Và như vậy, ngược với tử tế đó là không biết điều.
Biết điều khởi đi từ chuyện biết người biết ta không cuộc sống. Chính vì ích kỷ, chính vì chỉ biết mình và không biết người khác nên nó sinh ra nhiều chuyện dở hơi.
Từ biết xem ra rất quan trọng trong cuộc sống. Đúng như người kia nói về người nọ là cái gì cũng biết nhưng biết ở mức độ nào và chuyện gì cần biết và chuyện gì không cần biết trong cuộc sống. Có lẽ vì không biết gì hết nên mới sống không biết điều với người khác.
Những ngày này, khi tham dự Thánh Lễ, ta nghe mãi, nghe tới nghe lui chuyện Chúa Giêsu ví mình như là vị mục tử nhân lành. Trong tâm tình đó, nhiều người đi tìm hiểu nào là cửa chuồng chiên, nào là mục tử xấu, mục tử tốt. Thế nhưng rồi, trong mạch văn Chúa nói đó, ta có thể dừng lại ở từ biết.
Chỉ trong đoạn Tin Mừng rất ngắn hôm nay, Chúa cứ nói đi nói lại từ biết : Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, 15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha.
Và như vậy, ta lại có dịp nhìn lại từ biết mà Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta. Chúa, dĩ nhiên như mục tử, Chúa biết từng con chiên và dĩ nhiên biết từ tình trạng của nó. Chúa lại yêu thương những con chiên ghẻ, những con chiên tật nguyền và nhất là những con chiên đi lạc. Chúa đã hào phóng để bỏ lại 99 con chiên mà quyết đi tìm con chiên lạc.
Khi suy nghĩ đến điều này, ta lại khám phá ra sự biết của Chúa về ta.
Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường hết.
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 138, 1)
Chúa là như vậy đó ! Còn ta, ta có biết Chúa không ? Dĩ nhiên là ta cũng sẽ nói là ta biết nhưng ta biết ở góc độ nào và như thế nào ? Hay là ta chỉ biết Chúa như những người Do Thái xưa và hành xử với Chúa như vậy. Nếu như biết Chúa thật sự thì họ sẽ không hành xử tàn bạo với Chúa như thế.
Cuộc đời của ta, chuyện rất quan trọng là ta biết Chúa. Một khi mình đã biết Chúa thì cuộc đời của mình sẽ thay đổi và sẽ không dở dở ương ương sáng nắng chiều mưa trưa trưa có bão.
Chắc chắn ta không quên Thánh Augustinô. Dường như cả cuộc đời ăn chơi trác táng trụy lạc nhưng rồi chạm phải con tim của Chúa thì Thánh nhân đã trở lại và trở thành vị Thánh lớn trong Giáo Hội. Khi gặp Chúa rồi thì Ngài thủ thỉ : Lạy Chúa xin cho con biết Chúa và cho con biết con. Xin cho con biết Chúa để con yêu mến Chúa hơn, và xin cho con biết con để con coi nhẹ con hơn.
Vâng ! Khi ta chưa biết Chúa đúng nghĩa, ta sẽ nghĩ ta thế này thế kia và tự cao tự đại. Chính vì sự tự cao tự đại đã làm cho bao nhiêu con người phải hư mất.
Sự thường ở đời, khi ta biết ai đó và ta yêu ai đó đủ thì ta chấp nhận hy sinh tất cả vì người đó. Có thể ở cái mức lý tưởng như Chúa Giêsu : Ta đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” thì mỗi người chúng ta khi yêu ai đó, khi biết ai đó thì cũng sống như Chúa Giêsu mời gọi. Tất cả mọi sự đều quy hướng về Chúa Giêsu là Chủ của đời ta.
Đặc biệt, khi biết Chúa và trong thinh lặng, nhà thơ Tagore thủ : Chỉ mong ngài lấy đi Mong chẳng còn gì thuộc về con Mong chẳng còn gì là của con. Để con được trắng tay Con chỉ còn ngài để giữ lấy Con được chọn Chúa Mãi là của con Chỉ mong Ngài xóa đi Mong chẳng còn gì Để chiếm hữu Con tìm được Ngài là chân lý Con được cùng Chúa đồng hành luôn.
Khó chứ không phải dễ để sống tâm tình như vậy. Thế nhưng rồi tưởng nghĩ khi ta kết hợp sâu lắng và mật thiết với Chúa cũng như nhờ ơn Chúa ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm với tất cả mọi sự trên đời này. Và cuối cùng, chỉ mình Chúa mới là nguồn Chân Lý chứ không còn chuyện nào khác. Thế cho nên, ngày mỗi ngày, ta cũng thưa với Chúa như Thánh Augustinô xưa : Xin cho con biết Chúa để con yêu mến Chúa hơn.
2020
Tháng hoa và đóa hoa Đức tin của đời ta
Tháng hoa và đóa hoa Đức tin của đời ta
Vô tình lang thang trên mạng, tôi đọc được bài vè hoa thật dễ thương. Đọc cho biết, biết rồi chia sẻ :
Tháng giêng nắng lắm, nước biển mặn mòi.
Vác mai đi xoi, là bông hoa giếng.
Hay bay hay liệng, là hoa chim chim.
Xuống biển mà chìm, là bông hoa đá.
Bầu bạn cùng cá, là đá san hô.
Hỏi Hán qua Hồ, là bông hoa sứ.
Gìn lòng nắm giữ, là hoa từ bi.
Ăn ở theo thì, là hoa bầu ngọt.
Thương ai chua xót, là hoa sầu đâu.
Có sông không cầu, là hoa nàng cách.
Đi mà đụng vách, là hoa mù u.
Cạo đầu đi tu, là bông hoa bụt.
Khói lên nghi ngút, là hoa hắc hương.
Nước chảy dầm đường, là hoa mồng tơi.
Rủ nhau đi cưới, là hoa bông dâu.
Nước chảy rạch sâu, là hoa muống biển.
Rủ nhau đi kiện, là hoa mít nài.
Gái mà theo trai, là hoa phát nhũ.
Đêm nằm không ngủ, là hoa nở ngày.
Ban chẳng lìa cành, là bông hoa cúc.
Nhập giang tùy khúc, là bông hoa chìu.
Ở mà lo nghèo, là hoa đu đủ.
Đi theo cậu chủ, là hoa mầng quân.
Đánh bạc cố quần, là bông hoa ngỗ.
Ngồi mà choán chỗ, là hoa dành dành.
Giận chẳng đua tranh, là bông hoa ngải.
Bắt đi tha lại, là hoa phù dung.
Ăn ở theo đường, là bông hoa thị.
Theo mẹ bán bí, là hoa hanh hao.
Cuộc sống của ta đẹp, đẹp lắm với các loại hoa và nếu như không có qua xem ra đời ta tẻ nhạt và chán ngắt. Mỗi loài hoa khoe mỗi sắc và mỗi hương cho đời để ta nghe thấy “cho đời chút hương”. Đến một nơi nào đó, một gia đình nào đó, một căn phòng nào đó có bài trí hoa, có chưng hoa ta cảm thấy nhẹ lòng.
Nhìn lại vườn hoa Nhà Chúa, đời sống đức tin của mỗi người trong lịch sử cứu độ được ví như một đóa hoa trong vườn hoa khoe sắc thắm.
Ta thử nhìn lại một chút những đóa hoa đức tin rất đẹp. Hoa đức tin Abraham. Nhìn đời của Abraham, ta thấy hoa Abraham tỏa một màu hoa phó thác. Abraham đi mà không biết mình đi đâu có có thể bỏ xác đâu đó mà không biết. Abraham đã phó thác cuộc đời mình cho Chúa và cứ đi theo lời Chúa chỉ vẽ. Bi đát nhất là khi Abraham bị thử thách là sát tế đứa con duy nhất nhưng ông vẫn sẵn lòng.
Kế đến, ta nhìn đóa hoa Môsê. Cả cuộc đời của Môsê là chịu đựng cả Chúa và cả dân của Ngài. Ta còn nhớ lần kia trong đời Môsê chịu biết bao nhiêu khó khăn. Ước mơ vào Đất Hứa nhưng rồi Chúa bảo ngươi đứng đó ngó đi và rồi Môsê chết. Đức tin của Môsê là một đức tin không có phần thưởng và không có phần thưởng. Đức tin của Môsê có màu sắc của khiêm nhường, của không công, không thưởng, không gì hết.
Dừng lại để ta nhìn Giêrêmia, Giêrêmia mở đầu sách viết rất dễ thương : “Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đã gọi ngươi khi ngươi chưa lọt lòng mẹ, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ”. Ông nói lên kinh nghiệm tình thương của Chúa và Thiên Chúa chọn ông từ khi ông còn trong bào thai. Và ta thấy chương 15, ông nói : “Con vô phúc quá mẹ ơi ! Mẹ sinh ra con làm gì ?”. Ngày xưa thì bảo con có phúc và nay thì than vãn : Thế mà cứ bị nguyền rủa. Lạy Chúa, tại sao Ngài cứ để con đau khổ hoài ? Tại sao Chúa làm con đau khổ như thế ! Ngài là ai ? Phải chăng Ngài mơ hồ và ảo mộng.
Cả đời dấn thân cho Chúa và nguyền rủa chính mình : “Con vô phúc quá ! Thà con đừng sinh ra thì hơn”.
Đức tin của Giêrêmia mang màu sắc của bóng đêm, của thử thách, màu sắc của phó thác hoàn toàn không thấy tương lai. Hoa đức tin của Giêrêmia là như vậy, là đóa hoa khoe sắc thử thách, khiêm nhường.
Đến với Tân Ước, ta bắt gặp một đóa hoa tuyệt vời mang tên Maria mà chúng ta mừng kính trong tháng 5. Lời sứ thần trong ngày truyền tin còn đó : “Này Bà sẽ cưu mang người con và vương quyền của người vô cùng vô tận”. Mẹ thấy tương lai sáng lạn trong ngày truyền tin nhưng rồi Mẹ thấy người ta không đến chúc tụng Mẹ và thậm chí còn đau khổ khi sinh con nơi máng cỏ và cả trốn sang Ai Cập để sinh sống một thời gian để tránh lưỡi gươm Hêrôđê.
Là Mẹ Chúa Giêsu nhưng không được một tiếng khen, chẳng thấy vương quyền gì cả chỉ thấy toàn gian nan thử thách. Thử thách lớn nhất mà Mẹ Maria chịu đó là thử thách như Abraham phải chịu : “Ngươi phải sát tế người con duy nhất”. Mẹ đã dâng hiến người con yêu cho Thiên Chúa
Mẹ thấy ngai vàng cho con Mẹ không có. Ngai vàng con của Mẹ là thập giá. Phải chăng Chúa không trung tín lời hứa của Ngài. Không cần gì cả, Chúa không cho phần thưởng nào cả, Chúa lấy hết, ấy vậy mà vang mãi lời ngân nga : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần Trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa của tôi !”
Hoa đức tin là vậy đó ! Hoa đức tin của Mẹ là như vậy đó. Tháng hoa, chúng ta dành tâm tình kính Mẹ nhưng rồi hoa đức tin của đời ta như thế nào ? Hoa đức tin của đời ta có nở, có tươi, có khoe sắ hoa Maria không ?
Maria đã bám chặt đời mình vào Thiên Chúa để Mẹ luôn tỏa ngát mùi hương xin vâng, màu hoa đón nhận đau khổ trong cuộc đời. Mẹ tin tưởng và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Hoa đức tin rất cần trong đời sống của ta nhưng hiện giờ hoa đức tin của ta ra sao ? Còn hay mất ? Có khi vì bám vào trần gian để rồi màu cũng phai mà hương cũng chẳng còn.
Hoa đức tin của ta rất cần nở hoa và khoe sắc. Nở hoa, khoe sắc để truyền cho con cháu và con cháu truyền cho hậu thế. Nếu như ta không nở hoa khoe sắc đời sống đức tin của chúng ta thì con cháu của chúng ta sẽ đi về đâu.
Chúng ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta trong kinh Tin Kính, trong đời sống hằng ngày. Niềm tin ấy cần diễn tả cách thực tế trong đời sống của chúng ta.
Tháng hoa, mỗi lần chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ thì xin cho từng giây từng phút của chúng ta luôn bám vào Chúa như Mẹ Maria đã bám. Khi ta bám vào Chúa rồi thì ta sẽ truyền nhựa sống đức tin cho con cháu chúng ta, cho anh chị em. Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta nhìn lên đóa hoa tinh tuyền, đóa hoa ngát hương Maria để chúng ta cũng tỏa hương và khoe sắc tin cậy mến như Mẹ trong cuộc đời.