2020
Ở lại
Ở lại
Đọc Tin Mừng theo Thánh Gioan, ta bắt gặp tâm tình “ở lại” của Chúa Giêsu nhiều lần nói với các môn đệ. Khái niệm “ở lại” trong Tin Mừng Thánh Gioan mang ý nghĩa đặc biệt. Động từ này không chỉ diễn tả sự cư ngụ trong một khoảng không gian, nhưng nói lên sự gắn bó, liên kết, hiệp thông thiêng liêng với Chúa.
“Ở lại” là tâm tình của người môn đệ trung tín với Thầy mình, kể cả lúc gian nan tăm tối. Chính Chúa Giêsu luôn luôn ở lại trong Chúa Cha.
Ta thấy Chúa Giêsu luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và bằng lòng trung thành. Các tác giả Tân ước kể lại, vào lúc khởi đầu một ngày mới, hoặc sau một ngày làm việc vất vả, Chúa Giêsu thường lánh ra nơi thanh vắng để cầu nguyện. Chúng ta không biết rõ nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu những lúc ấy, nhưng chắc chắn đó là những tâm tình trìu mến và gắn bó thâm sâu. Chắc chắn Chúa Giêsu thân thưa với Chúa Cha về sứ mạng của Người và về những khó khăn Người gặp phải.
Quan trọng nhất và trước nhất, đó là những tâm tình của người con thảo đối với Cha mình. Những giây phút cầu nguyện này tiếp thêm nghị lực cho Người, để Người đi cho đến cùng sứ mạng Thiên sai, mặc dù phải trải qua biến cố thập giá. Vào lúc cao điểm của thử thách, tức là trên cây thập giá, Chúa Giêsu vẫn “ở lại” với Chúa Cha bằng niềm phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Nhìn vào cuộc đời cũng như tâm tình của Chúa Giêsu, ta thấy ngày hôm nay con người bất an bởi lẽ quá bận rộn. Chính vì bôn ba nhiều quá, bận rộn nhiều quá nên có chăng chỉ là sự bình an giả tạo, sự bình an ở bên ngoài.
Từ suy nghĩ đó, ta nhìn lại trong tư cách là Kitô hữu, ta tiến bước như thế nào với Chúa trong đời sống của mình.
Quá bận rộn việc mưu sinh dễ dẫn đến chuyện thiếu thời giờ chiêm ngắm Thiên Chúa. May ra dành chút thời gian đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ nhưng không có thời gian ở lại bên Chúa. Dần dần, con người đi theo tôn giáo theo chủ nghĩa bận rộn.
Chính vì thế, cần lắm sự chiêm ngắm Thiên Chúa, cần lắm sự lắng nghe lời Chúa. Muốn được như vậy, không có cách nào khác hơn là ở lại bên Chúa.
Có thể làm việc tốt, có thể ta làm việc bác ái, có thể ta hy sinh chuyện này chuyện kia để lo cho người này người nọ nhưng thiếu chiêm niệm để rồi thiếu bình an. Nói như thế, có người sẽ nghĩ và phản bác ngay rằng chiêm niệm không phải là không làm gì ?
Nhìn vào cuộc đời Thánh Phaolô và trong thư của Ngài. Thánh Phaolô chia sẻ rằng khi Thiên Chúa chọn Ngài thì Ngài không lên đường đi loan báo về Chúa ngay nhưng Ngài chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô không đi làm ngay nhưng cầu nguyện và nhìn ngắm Thiên Chúa. Phaolô phải lòng Thiên Chúa khi ở lại bên Chúa để chiêm ngắm Chúa, lắng nghe Chúa. Và đây chính là từ khóa để không phạm sai lầm.
Ở lại trong tình yêu Thiên Chúa phải chăng là điều căn cốt trong đời Kitô hữu.
Ta cần dừng lại để biết mình ở thái cực nào. Có khi ta quá bận rộn hay có khi ta thái quá trong đời sống chiêm niệm. Ta cần phải quân bình đời sống tâm linh của ta.
Ta tự vấn mình : tôi có đang yêu Chúa không ? Tôi có chắc Chúa chọn tôi hay tôi sống đời Kitô hữu của mình thế này, làm những việc thế kia.
Tôi làm việc này việc kia nhưng con tim của tôi như thế nào ? Khi làm việc như thế, ta có kèm theo việc chiêm niệm không ? Có thể ta làm việc gì đó chỉ vì đánh bóng tên tuổi của ta, lưu danh của ta chứ không hề vinh danh Chúa.
Ở lại trong Chúa và phục vụ đó chính là lối đi trong đời sống chúng ta.
Nói tới đây tôi lại nhớ đến hình ảnh của thuyền và biển của nhà thơ Xuân Diệu rất dễ thương để nghĩ đến chuyện ở lại :
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau – rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió”
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố.
Có thể ví von như vậy cho đời thêm vui. Nếu phải cách xa Chúa, đời Kitô hữu của ta chỉ còn bão tố mà thôi. Chính vì thế, cần lắm sự hiện diện và ở lại bên Chúa như Chúa mời gọi.
Ta được mời gọi phải dành thời gian cho Chúa trong phục vụ người khác. Ta thử xét xem ta dành bao nhiêu thời gian mỗi ngày để chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Giêsu và sau đó tôi làm việc thế nào ? Ta có làm nhiều đến độ xa lạ chính mình hay tôi làm việc với việc phục vụ tin Mừng
“Ở lại trong Thầy” sẽ giúp chúng ta tìm được niềm vui trong cuộc sống hiện tại. Vì chúng ta xác tín Chúa đang cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế. Dù phong ba bão táp, dù thử thách đau thương, chúng ta vẫn an toàn, như con thơ ngủ yên trong tay mẹ hiền. Hạnh phúc chẳng phải tìm đâu xa, chỉ đơn giản là hãy “ở lại trong Thầy”, để được Người che chở, chúc lành và hướng dẫn.
Và điều quan trọng nhất rằng ta có ý thức đời ta có giá trị, ý nghĩa, sinh hoa trái cho đời khi tựa như cành nho gắn liền cây nho. Từ nay ta sẽ ở lại trong Chúa nhiều hơn trong thực tại của cuộc sống của ta bằng việc thực hành hai điều trên đây: siêng năng suy niệm Lời Chúa và rước Thánh Thể.
2020
Niềm hy vọng chữa lành
Nhu Cầu Chữa Lành Của Chúng Ta
Có quá nhiều những nỗi đau thương trên thế giới cần được chữa lành. Chúng ta chỉ cần thoáng nhìn những gì đang diễn ra chung quanh ta. Hiện tượng toàn cầu nóng lên gây ra những thay đổi bất thường như hạn hán, lũ lụt, khiến người ta không còn khả năng dựa trên kinh nghiệm để dự đoán đúng về thời tiết nữa; hậu quả là mất mùa, đói kém; hận thù được thanh toán bằng những hành vi tội ác; mạng sống con người xem chừng như bị coi rẻ; rồi những hành vi vô luân xảy ra liên tục như hiếp dâm, lạm dụng phụ nữ, trẻ em; những hình thức nghiện ngập, và con số những bệnh nhân tâm thần tăng lên. Những hình ảnh này ít nhiều đã gây phiền nhiễu nơi tâm trí của chúng ta.
Nhìn thấy một thế giới đầy những vấn nạn, nhiều người trong chúng ta vẫn tưởng rằng những tương giao cá nhân riêng tư của ta có thể thoát khỏi những rắc rối trong vòng xoáy của toàn cầu. Nhưng không, chính mỗi người chúng ta đang chứng kiến sự tác động hỗ tương này.
Chúng ta nhận thức rằng thỉnh thoảng có những người đã làm cho ta bị suy sụp, khiến cho ta thất vọng, và gây tổn thương nơi ta. Nếu chúng ta có một cái nhìn trung thực, chúng ta có thể nhận thức rằng còn có nhiều vết thương khác cần được chữa lành nơi chính bản thân ta và trong các mối tương giao của ta.
Thậm chí ngay cả khi chúng ta không sao tránh được những quan hệ ít nhiều cũng gây rắc rối cho ta, thì chúng ta vẫn mong sao những mối tương giao này được diễn ra lành mạnh. Chúng ta có thể xin lỗi, tha thứ, thỏa thuận, hợp tác và mơ ước. Chúng ta có thể hy sinh để duy trì mối quan hệ sao cho đúng hợp, hơn là chỉ nghĩ đến việc thể hiện đúng bản bản thân. Và chúng ta có thể có được niềm hy vọng để chữa lành.
Từ Con-Tim-Đến-Con-Tim[1]
Mối tương giao cảm-xúc-của-con-tim là điều ràng buộc chúng ta với người khác. Trong các mối tương giao từ-con-tim-đến-con-tim, chúng ta mở lòng mình ra với người khác. Nhưng, việc cởi mở cõi lòng này cũng đồng nghĩa là việc ta chấp nhận rủi ro: chấp nhận người khác vào trong thế giới riêng của bản thân sẽ khiến ta dễ bị họ gây ra những tổn thương; cũng đồng nghĩa là ta trao cho người khác sức mạnh có thể gây thương tích nơi ta. Khi họ gây tổn thương, ta thường xuyên phủ nhận nỗi đau. Một đứa trẻ nói “không có đau đâu mà” trong khi nước mắt tuôn chảy; hay ai đó vẫn cứ ngân nga điệp khúc “gậy gộc hay gạch đá mới làm gãy xương, chứ lời nói thoảng qua sẽ không bao giờ gây cho tôi đau đớn”. Thế nhưng, một cách rõ ràng khi đưa ra những phủ nhận này, xem chừng như ta đang “cố chịu đấm ăn xôi” để rồi ta có thể tiếp tục bám víu vào những người mà ta đang gắn bó, thậm chí cả khi họ gây thương tích cho ta.
Đôi khi, những vết thương chưa lành của ta lại trở thành nguyên nhân khiến ta lại gây thương tích nơi người khác. Ví dụ, một người cha trong gia đình, khi ông còn nhỏ, bản thân ông không được cha mẹ coi trọng, có thể dẫn đến việc hiện nay ông hết sức nghiêm khắc đòi hỏi các con của ông trong sự nỗ lực sao cho ông được các con kính trọng. Điều này biểu hiện khao khát tìm kiếm sự bù đắp cho những tổn thương mà cha mẹ đã gây ra nơi cá nhân ông vào thời thơ ấu. Ông có thể gọi đó là việc nghiêm khắc dạy dỗ cho các con có được thái độ “tôn trọng người khác”. Một ví dụ khác, một người mẹ không nhận được sự yêu thương nồng ấm từ cha mẹ của bà. Để thỏa mãn nhu cầu bù đắp tình yêu thương của bản thân, bà có thể mong đợi sự chăm sóc đặc biệt từ các con của bà. Trong khi cố gắng nhằm xoa dịu nỗi đau của bản thân, bà vô tình đòi hỏi từ con cái những gì bà khao khát từ cha mẹ. Khi các bậc cha mẹ mang những vết thương chưa được chữa lành, họ sẽ chuyển di cùng một thương tích tương tự như thế qua những hành vi họ cư xử với các con.
Khái niệm chuyển di sự đổ vỡ từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo là một ý tưởng cổ xưa. Chẳng hạn, Thánh Kinh nói về những tội của người cha được truyền lại cho con cháu.Tất nhiên, điều này không chỉ xảy ra giữa cha mẹ và con cái. Những đau đớn chưa được chữa lành vẫn có thể gây tác động hủy hoại bất cứ ai can dự ít nhiều vào trong những mối tương quan.
Chúng Ta Được Chữa Lành Như Thế Nào?
Di sản thương tích gây ra nơi ta khiến ta có thể cảm thấy như đang phải mang vác gánh nặng nề. Làm thế nào chúng ta có thể cảm nhận được năng lượng sẵn sàng sống hết lòng trong những tương giao lành mạnh? Chúng ta có thể làm gì để chúng ta sẽ không gây thương tích cho những người mà chúng ta quan tâm chăm sóc? Có cách nào để chữa lành vết thương mà ta đã thừa hưởng từ gia đình không?
Thương tích trong ta luôn thúc đẩy nhu cầu cần được chữa lành. Đồng thời, lại có một nghịch lý diễn ra nơi ta, ta cảm thấy lo sợ khi phải đối diện với những tổn thương chưa được chữa lành của chính bản thân. Thế nhưng chính khi ta can đảm nhìn nhận những vết thương của chính mình, đó lại là bước khởi sự cho tiến trình chữa lành được bắt đầu.
Trong bài nói chuyện ngày 24/9/2015 với đề tài Gia Đình, Mái Ấm Cho Những Trái Tim Bị Thương Tích tại Đại Hội Gia Đình Thế Giới tại Philadelphia (Hoa Kỳ), Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám Mục Manila, đã trích dẫn thư gửi tín hữu Do thái chương 10, cho thấy Đức Kitô đã trở nên một vị Thượng tế thập toàn và biết cảm thương, một người anh nhân hậu, vì Ngài đã chịu thử thách mọi bề như chúng ta, Ngài trải qua tất cả những đau thương của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Và Ngài đã biến đổi những đau thương ấy thành chiến thắng của tình yêu. Chính vì vậy mà Đức Kitô phục sinh vẫn mang dấu vết của những thương tích. Những thương tích ấy sẽ không biến mất. Quả thực, chính Đấng bị thương tích đã cứu độ chúng ta. Bởi thế, vì tất cả chúng ta đều mang những vết thương, nên những thương tích của chúng ta sẽ làm cho chúng ta thành những nẻo đường dẫn tới sự hiểu biết, giàu lòng trắc ẩn, liên đới và yêu thương. Và chính mỗi người chúng ta sẽ được tình yêu Chúa chữa lành, đồng thời Ngài cũng trao ban sức mạnh của Thánh Thần, làm cho chúng ta trở nên những môn đệ của Ngài. Từ kinh nghiệm được ơn chữa lành, chúng ta lại trở nên những người tiếp tục thực hiện sứ mạng chữa lành cho những anh chị em khác đang cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Như Chúa Giêsu đã từng sai mười hai tông đồ ra đi và chỉ thị rằng: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10:7-8),” Ngài cũng vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Bên cạnh yếu tố ân sủng chữa lành mà mỗi cá nhân có những trải nghiệm đặc thù, các nhà tâm lý cũng nỗ lực đưa ra những phương thế hỗ trợ cho tiến trình này. Trong Hành Trình Của Con Tim (Journeys by Heart), Rita Nakashima Brock mô tả tiến trình chữa lành gồm ba bước, trong đó chúng ta (i) nhớ lại chúng ta đã bị tổn thương như thế nào, (ii) chúng ta bộc lộ cảm xúc qua cơn giận vì những gì đã xảy ra với chúng ta, và (iii) đau buồn về sự mỏng giòn dễ vỡ của chúng ta.
Nhớ Lại
Bước đầu tiên trong tiến trình chữa lành là nhớ lại ta đã bị tổn thương như thế nào. Nhớ về nỗi đau của ta đôi khi cũng đau đớn như lần đầu tiên chúng ta bị thương tích. Vì vậy, chúng ta thường cho rằng mình đừng nên nhớ đến những vết thương này bằng cách tự nhủ thầm với bản thân rằng: “vết thương ấy thuộc về quá khứ rồi”, “điều gì đã trôi qua, hãy để chúng qua đi, không khơi dậy lại nữa”, “đừng hối tiếc về những gì đã mất”, “quên đi quá khứ để vui sống”.
Nhiều người trong chúng ta muốn quên đi những cảm xúc mà chúng ta đã từng trải qua, chẳng hạn cảm xúc bị ba mẹ bỏ rơi lúc còn thơ bé. Ví dụ, anh A đã từng trải nghiệm cảm xúc về sự vắng mặt của cha mình – một người cha tham công tiếc việc. Anh A có thể trách cha mình rằng đã không ở bên cạnh anh lúc anh còn bé, nhưng anh không muốn nhớ đến cảm xúc của cha đã gây ra cho anh nỗi đau đớn đến mức nào về sự vắng mặt của ông. Không muốn lặp lại sai lầm của cha mình, anh A sẽ sắp xếp dành nhiều thời gian cho con cái. Đáng buồn thay, anh A sẽ dễ dàng cho con mình lượng thời gian của anh hơn là trao ban sự hiện diện mang lại sự ấm áp yêu thương mà các con thật sự mong đợi. Bao lâu anh A không muốn nhớ lại nỗi đau thương mà anh đã từng chịu đựng khi bị cha bỏ rơi, thì anh sẽ vẫn bị mắc kẹt trong việc thể hiện cảm xúc với chính bản thân mình và với những người khác, cụ thể là các con của anh.
Mỗi chúng ta đều có khả năng để nhớ lại. Trong ký ức, chúng ta thu thập những bức ảnh chụp lại những khoảnh khắc quan trọng trong cuộc sống của ta. Một số người trong chúng ta lại thấy mình bị cuốn hút hết lần này đến lần khác vào trong những hình ảnh đau thương. Điều thu hút sự chú ý của ta vào những tổn thương này lại trở thành niềm hy vọng chữa lành. Khi chúng ta bước theo niềm hy vọng mà ta mang vào trong trí nhớ, chúng ta đang thực hiện bước đầu tiên trong hành trình chữa lành bản thân và hòa giải với người khác.
Cơn Giận
Bước thứ hai trong tiến trình chữa lành là hãy để cho ta trải qua cảm xúc của cơn giận vì đã bị thương tích. Giận là cảm xúc hữu ích mà nhờ đó báo động cho ta biết khi những điều không đúng nào đó đã xảy ra, và những điều ấy đã không đúng với ai. Rất tiếc là cơn giận thường bị phán xét bởi một cáo buộc sai lầm.
Ai trong chúng ta cũng từng chứng kiến người khác tức giận, và chắc chắn bản thân ta cũng đã từng nổi giận không lúc này thì lúc khác. Thường chúng ta được khuyên nhủ rằng cơn nóng giận là cảm xúc tiêu cực nên kiềm chế. Thế nhưng trong thực tế, chúng ta thường cảm thấy mình có lý do chính đáng để nổi giận, ví dụ như làm sao ta lại không giận khi chứng kiến hay có liên hệ với một người có hành động không phù hợp với đạo đức, công bằng. Các chuyên gia tâm lý thuộc Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đều cho rằng nóng giận là cảm xúc lành mạnh của con người và hoàn toàn bình thường. Dường như quan điểm này cũng hợp lý, vì chính thánh tông đồ Phao-lô cũng đã nhìn nhận là đôi lúc người ta cũng phải trải qua cảm xúc nóng giận. Ngài khuyên: “Có nóng giận, thì sao cho đừng mắc tội… (Ê-phê-xô 4, 26)” Vấn đề là chúng ta biểu lộ cơn giận của mình như thế nào để không trở nên cớ vấp phạm, gây tổn thương, hoặc mắc thêm lỗi thiếu bác ái.
Cơn giận là một cảm xúc mạnh đến mức một số người trong chúng ta sợ phải trải nghiệm nó. Chúng ta có thể sợ rằng trải nghiệm cơn giận sẽ chỉ làm cho vấn đề tồi tệ hơn qua việc gây tổn thương cho chính mình hoặc gây ra cho những người khác. Vì vậy, để bảo vệ bản thân và những người chúng ta yêu thương, chúng ta cố gắng bỏ qua, “nhắm mắt làm ngơ” những cảm xúc tức giận. Nhưng càng phớt lờ, cơn giận tìm cách biểu lộ ra qua những hình thức khác là những cơn la hét giận dữ[2], gây hấn – thụ động[3], hoặc trầm cảm.
Nhưng vẫn còn có hướng giải quyết. Khi chúng ta trải nghiệm và hiểu được cơn giận, điều này không phá hủy các mối quan hệ; hoàn toàn ngược lại, nó còn cứu giúp những mối quan hệ ấy. Khi chúng ta trải qua cơn giận, chúng ta có thể can đảm trực diện với các mối quan hệ. Chính tại thời điểm này, ta hãy dành thời gian để nhìn nhận các vấn đề, các mối tương quan một cách sâu xa hơn.Việc nhìn bao quát điều đang diễn ra chắc chắn sẽ giúp chúng ta kiểm soát cảm xúc của mình, và rồi ta sẽ nhận ra phương thế để thể hiện việc quan tâm chăm sóc cho bản thân cũng như cho người khác. Và khi chúng ta đạt được khả năng kiểm soát và sử dụng cơn giận của mình một cách khôn ngoan và có tính xây dựng, thay vì trút cơn tức giận vào người khác, thì chính cơn giận sẽ là động lực thúc đẩy ta làm thế nào để chữa lành thay vì gây thêm đau đớn.
Đối với hầu hết chúng ta, trong thực tế, việc xem cơn giận như là một người bạn quả thật là điều hết sức căng thẳng. Vậy chúng ta hãy xuất phát từ khởi điểm rất hữu ích này là đón nhận cảm xúc của cơn giận như là niềm hy vọng để điều chỉnh cho mọi sự trở nên đúng đắn. Khi chúng ta có khả năng đón nhận cơn giận bằng sự hiểu biết, chúng ta có thể sử dụng những cảm xúc của cơn giận để giúp chúng ta chữa lành.
Đau Buồn
Bước thứ ba trong tiến trình chữa lành là đau buồn về sự đổ vỡ của ta. Đôi khi điều này xem chừng như gây ra nơi ta sự thất vọng. Bạn có thể hỏi: Làm thế nào để tôi có thể vượt qua được những năm tháng bị loại trừ bởi chính người phối ngẫu, người mà đã không hề trao cho tôi bất cứ cử chỉ biểu lộ sự ấm áp hay cảm xúc thương yêu nào? Giờ đây, làm sao để tôi có thể làm bất cứ điều gì cho cha mẹ tôi, những người mà đã từng không hề yêu tôi? Làm sao tôi có thể chữa lành vết thương khi con tôi hoặc một người bạn của tôi đã không hề thậm chí muốn nói chuyện với tôi? Thật là rất dễ bị mắc kẹt nơi những mất mát đau đớn như thế này, mà dường như không thể chữa lành.
Giống như cơn giận, đau buồn đã phải chịu mang tiếng xấu và hầu hết chúng ta không biết làm gì với nó. Khi chúng ta cảm thấy đau buồn, điều này thúc đẩy ta đối diện với những mất mát; và phản ứng của ta thường là thoái lui.Những người mang trong tâm trí ý nghĩ tích cực có thể cho rằng đối diện với nỗi đau buồn là cách để hy vọng, nhưng rồi đôi khi xem chừng như cũng cảm thấy vô vọng.
Vậy, niềm hy vọng ở đâu? Đau buồn có thể mở ra cho chúng ta hy vọng. Trong trải nghiệm của thánh Phê-rô, sau khi chối Thầy Giê-su, thánh Mát-thêu thuật lại cho chúng ta biết: “Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết (26, 75).” Trải qua cảm xúc đau buồn này đã giúp Phê-rô nhận chân lại thân phận thực tế của mình: “… vì con là kẻ tội lỗi (Lu-ca 5, 8),”để từ đó ông hy vọng đón nhận ơn tha thứ của Thầy Chí Thánh, và ông đã được chữa lành. Khi chúng ta đau buồn, chúng ta đối diện với thực tế rằng chúng ta không thể chiếm hữu được mọi thứ theo như cách thức mà ta mong muốn. Nhận ra thực tế về những gì mà ta không thể có được, chúng ta mới bắt đầu thấy ra những gì chúng ta đang có. Đau buồn gỡ ta ra khỏi gọng kìm về những mong muốn bất khả thể nơi ta, để rồi chúng ta có thể nắm bắt được những khả năng thực tế. Mong ước kìm giữ ta, khiến ta bị mắc kẹt trong những thương tích; đau buồn giải thoát niềm đam mê và sáng tạo cho tình yêu và công việc của ta được triển nở.
Chốn An Toàn Để Chữa Lành
Một khi chúng ta đã bị thương tích, chúng ta không muốn bị tổn thương thêm một lần nữa. Chúng ta cần một cảm giác an toàn trước khi có thể tìm ra con đường của mình thông qua việc nhớ lại những ký ức riêng có, đấu tranh để đón nhận và kiểm soát cơn giận, và những mất mát do đau buồn.
Trong tiếng Anh, người ta có câu “Home is where the heart is” nhà là nơi con tim hiện diện, và nhà có thể là nơi an toàn để chữa lành. Nhưng, đối với một số người trong chúng ta, nhà là nơi chúng ta bị tổn thương, và thương tích đã không hề dừng lại. Ít là tại thời điểm khởi sự cho tiến trình chữa lành, nhà không phải là chốn đủ an toàn.
Khi nhà không là chốn an toàn, một cộng đồng đức tin có thể cung cấp một chốn để trú ẩn. Giáo hội có truyền thống nhớ đến những ai đang mang trong mình những thương tích và cung cấp sự an toàn để chữa lành[4]. Nhưng, nếu ta tập trung vào đau khổ của người khác nhằm để chuyển hướng sự chú ý khỏi nỗi đau của chính bản thân mình, thì đó chỉ là hành động tránh né việc chữa lành bằng một giải pháp “ăn liền” tạm bợ cho niềm hy vọng. Hầu như trong các giáo xứ nhu cầu cần trợ giúp để chữa lành đã vượt quá khả năng cung ứng của các vị mục tử và các vị đồng sự. Vì thế cần xây dựng các cộng đồng đức tin Kitô hữu nhỏ, và nếu những cộng đồng nhỏ này hoạt động một cách hữu hiệu, sẽ trở thành những nguồn lực chữa lành rất lớn.
Và rồi, đôi khi chúng ta cần tìm một nơi chốn mới trong cuộc sống của mình để dành cho việc chữa lành, nơi ấy sự đổ vỡ của chính ta sẽ là trung tâm của câu chuyện và là nơi ta sẽ không bị thương tích thêm một lần nữa.
Không Ai Chữa Lành Một Mình
Khi chúng ta thực sự vật lộn với một điều gì đó, theo bản năng chúng ta biết tầm quan trọng của việc cần có một người để trao đổi, trò chuyện. Người ta thường có khuynh hướng tìm đến với một đối tác thân thiết, một thành viên gia đình, một người bạn, hoặc một mối tương giao trong mục vụ.
Một mối tương quan tâm lý trị liệu có thể cung cấp một chốn an toàn, riêng tư, nơi có người đồng hành, nâng đỡ, và trợ giúp ta. Các nhà trị liệu có kỹ năng giúp người ta nhìn vào bản thân mình một cách trung thực, nhận ra tầm quan trọng của những trải nghiệm đau đớn, và nhìn thấy những lựa chọn mở ra cho họ.Vì thế, trong một số trường hợp việc đến gặp một nhà tham vấn, trị liệu là điều cần thiết trong tiến trình chữa lành của ta.
Ân Sủng Tuyệt Vời
Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi những thương tích xảy ra trong cuộc sống. Một khi đã bị tổn thương, nhiều người trong chúng ta đưa ra phán quyết: như thế là quá đủ cho tôi. Chúng ta có thể bị mắc kẹt ở giữa những thương tích, hoặc ta chọn ở vị thế cho rằng đó không phải là lỗi của tôi. Điều này không đem lại hiệu quả gì cả. Cho dẫu chúng ta không có trách nhiệm trong việc gây ra tổn thương bởi vì là do người khác, nhưng chúng ta phải có trách nhiệm trong việc đón nhận sự giúp đỡ để chữa lành bản thân mình và các mối tương giao của ta.
Không ai khác có thể làm thế cho ta công việc chữa lành đặc thù của riêng ta, ngay cả Thiên Chúa vì như Thánh Augustinô đã từng nói: “Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người”. Nhưng, thật là một ân sủng tuyệt vời khi chúng ta có thể nhớ lại, trải nghiệm cơn giận và đau buồn theo một cách thức để chữa lành. Nhờ ân sủng này, chúng ta tìm thấy niềm hy vọng của mình để chữa lành và tăng trưởng mạnh mẽ tại những vết thương mà đã từng gây đau đớn cho ta.
WHĐ, 12-05-2020
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN Số 111 (Tháng 3 & 4, năm 2019)
[1] Trong Anh ngữ “heart-to-heart”
[2] Có thể minh họa trong trường hợp một đứa bé “làm mình làm mẩy” vì cha mẹ không chiều theo ý nó.
[3] Một dạng hành vi lặp đi lặp lại của việc biểu lộ cảm xúc tiêu cực, giận dữ một cách gián tiếp thay vì công khai giải quyết chúng.
[4] Xin đọc lại trong kinh: Thương người có 14 mối, thương xác 7 mối, thương linh hồn 7 mối.
Lm. Joseph Hoàng Ngọc Dũng
2020
Hai thói quen vào buổi sáng làm hại gan hơn uống rượu và thức khuya
Gan được biết đến như là “trung tâm chuyển hóa vật chất”, do vậy sức khỏe của gan vô cùng quan trọng. Nếu có hai thói quen này vào buổi sáng, sẽ làm tổn thương gan hơn uống rượu và thức khuya.
Thói quen 1: Vào buổi sáng nhịn tiểu dễ gây “thảm họa lớn” cho gan
![](http://hoidongmtgquinhon.com/wp-content/uploads/2020/05/image-12.png)
Nhiều người có thói quen xấu khi ngủ, đặc biệt là vào cuối tuần, thậm chí buồn đi tiểu cũng không muốn rời khỏi giường, cố chịu đựng để được nằm ngủ thêm một lúc. Khi bàng quang có nước tiểu sẽ sản sinh cảm giác muốn bài tiết ra ngoài, nếu nhịn tiểu quá lâu, theo khoa học gọi là “giữ nước tiểu mang tính bắt buộc”, sẽ gây nguy hiểm lớn đối với cơ thể. Sau khi thức dậy, chất độc không được bài tiết ra ngoài kịp thời, còn lưu lại trong cơ thể dẫn đến gan bị “trúng độc”.
Thói quen 2: Không ăn sáng, làm tổn thương gan và tổn thương túi mật
![](http://hoidongmtgquinhon.com/wp-content/uploads/2020/05/image-13.png)
Theo các chuyên gia, thời gian dài không ăn sáng, bữa trưa lại ăn đơn giản, dễ dẫn đến cơ thể thiếu dinh dưỡng, thiếu protein và các nguyên nhân khác gây lắng đọng mỡ gan. Ngoài ra, ngồi nhiều, thiếu vận động, rất nhiều calo và chất béo trong cơ thể không thể tiêu thụ được và cuối cùng chuyển thành chất béo. Khi các chất béo này lắng đọng dưới da, sẽ gây béo phì. Khi chúng được tích lũy trong gan, chúng sẽ trở thành gan nhiễm mỡ.
Lâu dài không ăn sáng hoặc khoảng thời gian giữa hai bữa ăn quá dài, mật được giữ lại trong túi mật quá lâu, không được sử dụng. Nước trong đó bị hấp thụ, dịch mật ngày càng trở nên nhớt, dịch mật nhớt sẽ dần hình thành sỏi mật. Hành vi này thường ngày mặc dù không nhìn thấy, nhưng lâu ngày sẽ làm tổn thương gan.
Gan tốt hay không nhìn vào 3 đặc điểm này
1. Ở giữa móng tay trắng
![](http://hoidongmtgquinhon.com/wp-content/uploads/2020/05/image-14.png)
Nếu móng tay của bạn có màu trắng ở giữa và màu đen ở các cạnh, rất có thể đó là viêm gan. Nếu móng tay xuất hiện các sọc ngang, đó là tiền thân của bệnh gan, kiến nghị mọi người cần phải chú ý.
2. Móng tay nhợt nhạt, da khô xung quanh
Nếu bạn còn trẻ và có móng tay nhợt nhạt, bạn có khả năng mắc các bệnh sau: thiếu máu, suy tim sung huyết, tiểu đường, bệnh gan, suy dinh dưỡng. Nếu da xung quanh móng quá khô và thô ráp, nên sử dụng massage và nuôi dưỡng để cải thiện tình trạng này.
3. Đau nửa đầu, mụn mặt
Sự tích tụ quá nhiều độc tố gan có thể gây ra chứng đau nửa đầu và mụn trứng cá ở hai bên mặt. Bởi vì hai bên mặt và bụng dưới là khu vực của gan và các đối tác của nó, một khi gan không được giải độc, sẽ gây ra những hiện tượng này.
Không muốn gan bị bệnh thì phải sớm thay đổi những thói quen xấu sau đây:
– Uống rượu quá mức: Rượu có thể gây kích thích lớn cho gan, ảnh hưởng đến chức năng giải độc và trao đổi chất của gan và gây gánh nặng cho gan.
– Thường xuyên thức khuya: Nếu bạn thức khuya trong một thời gian dài, nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình giải độc và chuyển hóa của gan. Hy vọng rằng bạn có thể thay đổi thói quen xấu là thức khuya.
![](http://hoidongmtgquinhon.com/wp-content/uploads/2020/05/image-15.png)
– Uống quá nhiều thuốc: Nếu thời gian dài dùng lượng lớn thuốc, uống quá nhiều thuốc sẽ làm tăng gánh nặng cho gan, ảnh hưởng đến chức năng giải độc của gan.
– Tức giận: Y học Trung Quốc cho rằng, thường xuyên tức giận sẽ làm tổn thương gan, dẫn đến ứ đọng gan, ảnh hưởng đến việc giải độc và chuyển hóa của gan, và cũng sẽ gây gánh nặng lớn cho gan.
Hà Vũ (Dịch theo Aboluowang)
2020
Ổ gà ngày xưa …
Mừng tuổi 80 của Mẹ
Nhớ 10 năm linh mục của con
“Fête de Mères” trên đất Pháp, nhắc con nhớ về Mẹ thật nhiều. Quá nửa đời người mà con cứ như thằng bé, mỗi lần nghĩ về Mẹ là nước mắt cứ chực rưng rưng. Lần đầu tiên trong đời, con phải xa Mẹ lâu đến thế; chưa đầy một năm mà con ngỡ đã từ lâu lắm. Vả lại, tuổi già như trái chín cây? của Mẹ đã làm con nơm nớp lo lắng đủ điều. Mẹ vẫn bình an chứ Mẹ ? Nhưng chắc rằng Mẹ đã khóc con đến cạn khô nước mắt … Biết Mẹ trông tin con lắm, Mẹ hãy nghe con kể chuyện.
Chiều nay trên đường đến nhà một bà giáo tây để học đàm thoại tiếng pháp, con ghé vào một tiệm bán hoa ven đường. Người ta đông lắm. Trong những ngày này, ai ai cũng hướng lòng về Mẹ mình. Con cũng thế, để nhớ về Mẹ ở xa, con tìm mua một ít hoa để tặng bà giáo mừng ngày lễ Các Bà Mẹ. Bên này mhiều hoa lắm, loại nào cũng đẹp cũng xinh, khiễn con cứ mãi tần ngần. Cô chủ tiệm ơi, tôi là người ngoại quốc mới đến Paris, tôi muốn mua một ít hoa để tặng bà giáo dạy tiếng pháp nhân ngày lễ Các Bà Mẹ, xin cô vui lòng cho tôi một lời khuyên?. Cô gái bán hàng đảo mắt quanh một vòng rồi tủm tỉm nhìn con trả lời : Tuỳ túi tiền, ông có thể mua bất cứ loại hoa nào và màu gì, trừ màu đỏ, màu dành cho tình nhân?.
Vẫn biết đó là một bài học hay về văn hoá xứ người, nhưng chẳng hiểu làm sao, sau một hồi lần lựa, cuối cùng con đã chọn mua một chậu trường sinh đầy hoa màu đỏ thắm. Dường như con bị chi phối bởi một động lực huyền bí nào đây, chứ bình thường, con trai Mẹ đâu dám liều đến thế. Phải chăng trong thâm tâm con muốn nói với Mẹ rằng : Mẹ ơi, con yêu Mẹ lắm và thầm mong cho Mẹ ‘trường sinh bất tử’. Không biết bà giáo nghĩ gì trong lòng, chứ bề ngoài đã đón nhận món quà với ánh mắt cảm động và lóng lánh niềm vui. Mẹ ơi, con tin rằng vào chính giờ phút ấy bên nhà, Mẹ cũng đang cảm thấy phơi phới nhẹ lòng.
Suốt hai giờ đàm thoại hôm nay, tự dưng được xoay quanh chủ đề về Mẹ. Con đã lắng nghe tâm sự của một bà mẹ tây bốn con ngoài lục tuần, và cũng đã nói với bà rất nhiều về Mẹ, đặc biệt là những ảnh hưởng của Mẹ trong việc chọn lựa lý tưởng cuộc đời. Mẹ ơi, với tiếng pháp, con chưa đủ ngôn từ, dù tâm tư đầy ap. Bây giờ con viết lại cho Mẹ bằng thứ tiếng Mẹ đã dạy con, để thêm một lần nữa, con muốn nói vói Mẹ rằng : Mẹ ơi, một đời con mang ơn Mẹ.
Bắt đầu từ đâu đây Mẹ ơi ?! Nếu con có thể kể về những tháng ngày trong bụng Mẹ hoặc thời thơ ấu hạnh phúc trên gối Mẹ thuở nào, thì quả là con không nói về những kinh nghiệm của chính mình, nhưng về một cậu bé nào khác đấy. Thế nhưng con như có linh cảm rằng mình đã nghiệm được phan nào tình ý của Mẹ ngay từ cái thuở bang sơ ấy.
Biết bao lần trong đời con đã tự hỏi : việc ngam nhìn một bà mẹ ột ệt với bào thai hay một chú bé đang say sưa ôm đôi bầu sửa, phải chăng là một điều bất xứng !? Nhưng thú thật, con đã chẳng vượt qua được “cơn cám dỗ” này. Con muốn hình dung lại tuổi thơ của mình và thậm chí còn ước mơ trở về cái thời bé bỏng ngày xưa.
Mẹ ơi, vì hình ảnh sống động ấy đã nung nấu trong trái tim con một tình yêu tha thiết dành cho Mẹ. Cánh chim bay nhảy khap bốn phương trời hôm nay đã từng yếu đuối mong manh như thế trong cung lòng vòng tay của Mẹ. Người Việt mình thường ví von : “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Thật vậy, con nào có thể chứa đâu cho hết, nói mấy cho vừa. Con chỉ muốn nhắc lại nơi đây một vài kỷ niệm khó quên để biết rằng Mẹ luôn có mặt bên con trong đời, bằng sự tận tâm chăm sóc hay tin tưởng nguyện cầu, góp phần quan trọng hình thành và nuôi dưỡng nơi con lý tưởng linh mục. Con lên tám tuổi, trước ngày rước lễ lần đầu, Mẹ đã bị Cha Sở quở trách giữa nhà thờ vì có thằng con trai đọc kinh quá lớn tiếng, lấn át hết mọi người, thậm chí đọc cả phần dành riêng cho linh mục.
Sở dĩ như thế là vì con đã thuộc lòng hầu hết những bài kinh dài vắn từ thuở còn đưa võng nằm nôi, Mẹ đọc ngan nga đưa con vào giấc ngủ. Mẹ chẳng bao giờ quên nhắc con phải đọc một câu kinh nào đó trước mỗi món quà, khi ăn cơm và lúc đi ngủ. Mẹ cũng đã mất nhiều thời giờ giúp con chuẩn bị và sốt sắng tham dự những thánh lễ “dỏm” con dâng bằng chăn màn, khoai khô và nước chè đậm. Mẹ tập cho con trang trí bàn thờ và không quên ngắt những cánh hoa dại cài lên áo con, sau lưng và trước ngực.
Mẹ đã chẳng bật cười khi khi há miệng chắp tay đón nhận lát khoai khô mà con vừa trao, vừa dám tuyên bố với Mẹ rằng : “Đây là Mình Thánh Chúa?. Mẹ còn quì gối cúi đầu làm dấu thánh giá khi con “ban phép lành” cuối lễ … Nhiều lần “làm lễ” quá cẩu thả, con bị Mẹ phạt, bắt làm lại từ đầu. Hôm nào đi vắng suốt ngaỳ, khi trở về, Mẹ thường hỏi : hôm nay ở nhà, con đà dâng lễ chưa …
Có phạm thánh không Mẹ ơi, sao con thấy dễ thương quá !
Lơn hơn một chút, khi con được phân công giúp lễ, dù mấy bận bịu, không bao giờ Mẹ vắng mặt ở nhà thờ. Chính tay Mẹ đã chuẩn bị y phục và chải đầu rẽ ngôi cho con, đưa con đến tận cửa phòng thánh, rồi vội vàng tìm chỗ nơi đầu hàng ghế giữa lòng nhà thờ để dễ bề quan sát. Những lúc ấy, nhìn bàn thờ thì ít, Mẹ nhìn con nhiều hơn, Mẹ con mình hiểu nhau qua ánh mắt, phải thế không ?
Còn nữa, con còn nhớ những đồng bạc giấy mới tinh Mẹ đã gom góp suốt tuần và trang trọng trao vào tay con mỗi lần đi tham dự thánh lễ thiếu nhi ngày Chúa Nhật. Mẹ đã tập cho con ý thức và niềm vui chung góp, đến độ có lần con đã không chịu đi dự thánh lễ vì Mẹ đi vắng chẳng ai cho tiền mới tinh như của Mẹ. Mãi đến hôm nay, mỗi lần cầm trên tay tiền giấy mới, con còn nhớ lại khung cảnh ngaỳ xưa; tiếc lắm, chẳng dám tiêu, cứ muốn để dành cho việc chung góp.
Mẹ ơi ! những việc thật nhỏ đó, Mẹ đã làm với tất cả tâm tình, niềm tin và hoài bão. Mẹ đã đầu tư cho con trai Mẹ những trương mục thiêng liêng vô giá. Mẹ đã khắc ghi vào tâm can đứa trẻ những hình ảnh và âm thanh đầu tiên rất linh nghiệm đến suốt đời không thể xoá nhoà. Con đã vào tiểu chủng viện ở tuổi mười hai, lên đại chủng viện khi quê hương tàn cơn chinh chiến.
Và không biết là may mắn hay rủi ro, khi mãn đại chủng viện, con bước vào đời bằng bảy năm đợi chờ trong mái ấm gia đình, được chia xẻ tận cùng với Mẹ Cha nếp sống nông dân thấm mồ hôi nước mắt, nhưng cũng đầy những kỷ niệm và bài học quí giá cho cuộc đời. Suốt những năm tháng dài nhọc nhằn đó, hình ảnh người phụ nữ đẹp nhất trong con vẫn là Mẹ. Sợ con ngã lòng thất vọng, Mẹ luôn tan tuỵ với con như một đứa trẻ, cho dù con đã quá tuổi trưởng thành. Mẹ đã dành cho con rất nhiều ưu tiên trong những phương tiện nhỏ hẹp của gia đình lúc ấy.
Con còn nhớ mỗi lần vào bàn ăn, Mẹ luôn ưu ái bới cho con những bát cơm trắng. Thấy con ngần ngại chối từ, Mẹ cắt nghĩa rằng an cơm độn khoai sắn sẽ quên hết những gì đã học. Mẹ ơi, có thật thế không ? Sao nhiều bài học con đã trót quên, còn tình Mẹ ngày thêm sâu đậm. Giữa bao điều con không thể quên là câu chuyện về ba ổ gà mái.
Năm ấy trong nhà chỉ còn có Cha Mẹ và con, Mẹ dọn bữa cơm tối ngoài sân khi nắng chiều vừa tắt. Nhìn ba con gà mái tơ đang tranh nhau những hạt cơm rơi rớt, nghĩ rằng để Cha Mẹ vui, con đã cao hứng đề nghị: “Con trắng thuộc về Cha, con nổ là của Mẹ, phần con cô màu vàng. Con sẽ làm ba cái ổ rơm trên giàn chuồng heo, gà ai đẻ nhiều trứng nhất, người ấy thắng cuộc”.
Ngược lai, như để chiều ý con, cả Cha lẫn mẹ đều vui vẻ hưởng ứng cái trò trẻ con ấy. Chỉ mấy hôm sau, cả ba con gà đều đồng loạt nhảy ổ và bắt đầu cho trứng. Gà mái tơ làm công việc ấy rất thất thường, khiến cho cuộc chơi càng thêm hấp dẫn. Con lanh nhiệm vụ kiểm trứng mỗi chiều và thông báo kết quả cho cả nhà vào giờ cơm tối. Tuần lễ đầu, ba ổ trứng luôn sít soát bằng nhau: một, hai rồi ba trứng. Cả ba con mái bắt đầu được nuôi ăn kỹ hơn; trong giờ cơm, gà của ai quấn quít bên chân người ấy. Dường như lũ gà cũng cảm hứng cuộc chơi, nên khi chỉ một con đẻ, cả ba con đều “cục tác…” .
Sang tuần lễ sau, ổ gà vàng của con đã vượt lên dẫn đầu, dần dần bỏ xa, rồi gấp đôi hai ổ gà của Cha và Mẹ. Con rất thích thú về ổ gà của mình và hay đùa rằng mình có tay nuôi gà lấy trứng, không sợ thất nghiệp. Dù thua, Mẹ chảng thèm “ganh tỵ” với con tí nào, lai hay tìm dịp biện luận: “Điều ấy chứng tỏ tương lai của con còn sáng sủa lắm, chứ không hoàn toàn tối tăm đâu, đừng nản lòng !?
Cho đến một ngày, con bất ngờ khám phá ra sự may mắn của mình. Tưởng con đã đi nghỉ trưa như thường lệ, Mẹ trèo lên chỗ để ba ổ gà. Chợt nhìn thấy, con dừng lại, nép mình sau cánh cửa để quan sát. Mẹ nhẹ nhàng lấy một quả trứng nơi ổ gà của Mẹ, cẩn thận đặt vào ổ gà của con, rồi vội vàng bước xuống với một nụ cười mãn nguyện.
Thì ra Mẹ đã làm như thế Mẹ ơi ! Con bắt quả tang sự “gian lận” của Mẹ rồi ! Con chạy cắm đầu vào phòng và trên giường nằm khóc tức tưởi, mặc cho hạnh phúc, cảm xúc dâng trào. Để niềm vui của Mẹ được trọn vẹn, vào cuối cuộc chơi, con đã im lặng nhận lấy phần thắng mà nghe sống mũi cay xè, cất giấu tận đáy lòng hình ảnh cảm động mình đã nhìn thấy. Cha về nhì với vẻ mặt không quen nói dối vì đã đồng tình để ổ gà của mình chịu chung số phận.
Mẹ ơi, Mẹ luôn có đủ hy sinh để yêu thương, có đầy sáng kiến để chăm sóc. Mẹ quả cảm nhẫn nại đến chừng nào! Mẹ đã truyền cho con sự sống, hướng dẫn con bao ý tứ tâm tình. Và trong những ngày tháng khó khăn đen tối nhất của cuộc đời, tình mẫu tử thiêng liêng dịu dàng đó đã dấy lên trong con sức mạnh chiến đấu, niềm tin chiến thắng. Ba ổ trứng đã biến thành ba bầy gà con xinh xắn, xúm xít chút chít quanh sân nhà. Cuối cùng, lũ cháu đàn con của chúng đã “hy sinh”góp phần làm tăng thêm niềm vui cho mọi người quanh mâm bàn ngày con trở về “vinh qui bái tổ”, hai hôm sau khi chịu chức linh mục. Ngày lễ tạ ơn tại quê nhà, trời đã vào đông mà vẫn đầy nắng ấm. Con xúng xính trong chiếc áo lễ mới màu vàng có thêu mấy chiếc hoa hồng đỏ thắm đầy gai, cũng sau lưng và trước ngực.
Khi con đến cho Mẹ chịu lễ, cầm Mình Thánh Chúa trong tay, không ai nói với ai mà cả hai cùng nức nở, vì hồi tưởng lại những lát khoai ngô ngày nào… Cũng chính hôm ấy, giữa hằng ngan tín hữu đưa tay làm dấu khi con ban phép lành đầu tay cuối lễ, con biết chắc chắn Mẹ là người hạnh phúc nhất, vì đã từng giúp con nuôi nấng ấp ủ giấc mơ thánh thiện này từ khi con còn tấm bé, bằng cả đời hy sinh cầu nguyện.
Xa quê hương, xa gia đình, nhân ngày “Fête de Mères”, con viết đôi điều về Mẹ. E rằng con quá đơn sơ dông dài khi nhắc lại những cảm nhận rất mộc mạc riêng tư ấy. Tự đáy lòng, con muốn góp một cung, chung một nhịp cho bản trường ca bất tận tôn vinh tình mẫu tử thiêng liêng, mà mỗi một người con luôn cảm thấy réo rắt rung lên tận đáy tâm hồn, dù Mẹ đang còn hay đã mất.
Hơn nữa, vào những tháng này hằng năm, khi niên học chấm dứt, cũng là ngày mùa của Giáo hội. Những cuộc lễ phong chức và kỷ niệm thụ phong linh mục đây đó diễn ra, cũng đầy niềm vui và nước mắt. Mỗi tân chức không thể quên công khai nói lên lòng biết ơn của mình đối với gia đình, vì ơn gọi Chúa trao hầu như cũng đã tượng hình từ chính mái ấm mẹ cha, như hạt giống nẩy mầm từ lòng đất. Cám ơn Cha Mẹ, cám ơn Cha Mẹ ngàn lần !
Mới đó mà con sắp mười năm linh mục, còn Mẹ bước vào tuổi tám mươi. Tuổi già mong manh, thánh thiện của Mẹ vẫn là sự đỡ nâng cần thiết cho bước chân con trên đường sứ vụ xa gần. Nhớ lắm Mẹ ơi ! Con mong ngày về để gặp lại Mẹ, để kể Mẹ nghe về những năm tháng dài miệt mài nơi đất khách, để được Mẹ nấu đãi cho niêu cơm gạo mùa nóng hổi thơm phức và chả cá kho dưa cải mặn mà… Con phải dừng đây thôi Mẹ ơi !
Paris 20.6.1999
Giuse Châu Ngọc Tri