2023
Giáo hội Nhật Bản kêu gọi bảo vệ người tị nạn và nhập cư
Giáo hội Nhật Bản kêu gọi bảo vệ người tị nạn và nhập cư
Uỷ ban về người tị nạn và người nhập cư của Hội đồng Giám mục Nhật Bản đã phát động một cuộc thu thập chữ ký, nhằm thu hút sự chú ý của công chúng và chính phủ về dự luật thắt chặt luật kiểm soát nhập cư.
Theo Uỷ ban, dự luật gây khó khăn cho người tị nạn và nguy hiểm cho cuộc sống đối với những người chưa có tư cách thường trú. Trước đó, Uỷ ban cùng với sáu tổ chức xã hội dân sự đã lên tiếng phản đối dự luật nhập cư mà Quốc hội đã bác bỏ vào năm 2021 và nay chính phủ lại muốn tái đệ trình. Tuyên bố kêu gọi một xã hội trong đó cuộc sống và phẩm giá của người tị nạn và người nhập cư được bảo vệ, nhắc lại rằng cách đây hai năm biện pháp đó đã bị rút lại bởi vì trái với lòng nhân đạo.
Dự thảo luật có những điều khoản đe dọa cuộc sống và nhân quyền của nhiều người. Ví dụ, việc hồi hương người xin tị nạn và người tị nạn ngay cả khi có nguy cơ bị bách hại. Luật cũng hình sự hóa những người trốn tránh bị trục xuất và trừng phạt những người muốn ở lại Nhật Bản. Luật còn quy định những người nhập cư không có giấy phép cư trú sẽ bị giữ ở những nơi giam giữ vô thời hạn và giảm mạnh “hệ thống giấy phép đặc biệt”, hạn chế khả năng quay trở lại.
Tuyên bố lưu ý, ngày nay, sự hỗ trợ cần thiết và quảng đại từ nhiều công dân và tổ chức xã hội dành cho những người tị nạn Ucraina cho thấy “việc loại trừ những người tị nạn là đi ngược lại ý muốn của người dân”. Mọi người hy vọng rằng “không có nạn nhân nào khác của các vụ giam giữ vô nhân đạo và những người, như người tị nạn, đang ở trong hoàn cảnh khó khăn không bị loại trừ”.
Tuyên bố nhấn mạnh: “Cuộc sống hàng ngày của chúng ta, những công dân được tạo thành từ các kết nối và mối quan hệ giữa con người với nhau. Người nước ngoài, người Nhật, người tị nạn, người nhập cư, người có và không có giấy phép cư trú chung sống với nhau như những con người. Chúng tôi yêu cầu tạo ra một xã hội trong đó cuộc sống và nhân quyền của mỗi người sống trong xã hội này đều được đảm bảo, nơi mọi người có thể yên tâm sống và không ai thực sự bị bỏ lại phía sau”.
Mặt khác, Ủy ban của Hội đồng Giám mục và các tổ chức khác đang yêu cầu các tổ chức thành lập một cơ quan hành chính, pháp lý công đặc biệt có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ người tị nạn và sự hội nhập của họ vào cơ cấu xã hội. (Fides 2/3/2023)
Ngọc Yến
2023
Đức Thánh Cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Nam Sudan
Đức Thánh Cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên của Nam Sudan
Đức Thánh Cha mời gọi các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và chủng sinh của Nam Sudan noi gương ông Môsê luôn ngoan nguỳ trước sáng kiến của Chúa, gần gũi với Chúa, và luôn là người chuyển cầu cho dân trước Chúa.
Sáng thứ Bảy ngày 04/02, ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Nam Sudan, vào lúc 08 giờ 45’ giờ địa phương, từ Toà Sứ thần, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Chính toà thánh Têrêsa, cách đó 2 km để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.
Nhà thờ Chính toà thánh Têrêsa
Nhà thờ Chính toà thánh Têrêsa, hay Nhà thờ Juba, bắt đầu xây dựng vào năm 1952, nằm trên Đại lộ Thống nhất ở Bahr al Jabal, quận Kotor. Đây cũng là Toà của Tổng Giáo Phận Juba, được thành lập vào ngày 12/12/1974 bởi thánh Giáo hoàng Phaolô VI.
Hội đồng Giám mục Sudan
Hội đồng Giám mục Sudan gồm các Giám mục của Sudan và Nam Sudan. Giáo hội ở Sudan có một tổng giáo phận và một giáo phận trực thuộc. Giáo hội Nam Sudan có một tổng giáo phận và sáu giáo phận trực thuộc. Sau khi Nam Sudan độc lập vào năm 2011, để thuận tiện cho hoạt động mục vụ, mỗi quốc gia có một trụ sở giám mục riêng, một ở Juba của Nam Sudan và một ở Khartoum của Sudan. Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sudan là Đức cha Yunan Tombe Trille Kuku Andali, Giám mục của El Obeid tại Sudan. Hội đồng Giám mục Sudan là thành viên của Hội đồng Giám mục Đông phi và Liên Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha
Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Chính toà vào lúc 9 giờ. Tại đây ngài được Đức Tổng Giám Mục và cha sở trao Thánh giá để hôn và nước thánh để rảy. Sau đó tất cả tiến vào Nhà thờ.
Sau bài thánh ca, buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng lời chào mừng của Chủ tịch Hội Đồng Giám mục, tiếp đến là chứng tá của một linh mục và một nữ tu.
Nước sông Nile, dấu hiệu giải thoát và cứu độ
Trong bài diễn văn liền sau đó, trước hết Đức Thánh Cha lấy hình ảnh nước sông Nile của đất nước để nói về hành động của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá. Nước là lòng trắc ẩn của Thiên Chúa làm dịu cơn khát khi chúng ta đang lang thang trong sa mạc, là lòng thương xót thanh tẩy chúng ta khi chúng ta rơi vào vũng lầy tội lỗi, trong bí tích Thánh tẩy, Người đã thánh hoá chúng ta “bằng nước tái sinh và đổi mới trong Thánh Thần” (Tt 3, 5).
Chính từ quan điểm Kinh Thánh mà Đức Thánh Cha muốn nhìn dòng nước của sông Nile theo cái nhìn mới. Một mặt, trong lòng sông này, đổ vào trong đó dòng nước mắt của một dân tộc bị đắm chìm trong đau khổ, tử đạo và bạo lực; một dân tộc cầu khẩn như tác giả thánh vịnh: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion” (Tv 137, 1).
Đức Thánh Cha cho rằng, nước của dòng sông vĩ đại này chứa đựng tiếng rên rỉ đau khổ của các cộng đoàn anh chị em, tiếng kêu đau đớn của nhiều cuộc đời bị tan vỡ, thảm kịch của một dân tộc phải chạy trốn, nỗi đau của những phụ nữ và sợ hãi ghi sâu trong mắt trẻ em. Tuy nhiên, đồng thời nước của dòng sông vĩ đại đưa chúng ta trở lại câu chuyện của Môsê, dấu hiệu giải thoát và cứu độ. Thực tế, từ dòng nước đó Môsê đã được cứu, dẫn dân đi vào giữa Biển Đỏ. Dòng nước đã trở thành phương tiện cứu độ, biểu tượng trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng thấy sự đau khổ của con cái, lắng nghe tiếng kêu khóc và đến cứu họ (Xh 3,7).
Từ câu chuyện của Môsê, Đức Thánh Cha dẫn vào thực tế với câu hỏi: “Làm thế nào chúng ta có thể thi hành thừa tác vụ trong vùng đất này, dọc theo bờ sông đã đẫm máu người vô tội, giữa những khuôn mặt đẫm lệ của những người được giao phó cho chúng ta? Để cố gắng trả lời, tôi dừng lại ở hai thái độ của Môsê: ngoan nguỳ và chuyển cầu”.
Sự ngoan nguỳ của Môsê trước sáng kiến của Chúa
Đức Thánh Cha quảng diễn tiếp: Lúc đầu, ông Môsê tự mình chống bất công và áp bức. Được công chúa của Pharaoh cứu từ sông Nile, ông phát hiện ra danh tính của mình. Xúc động trước đau khổ và sỉ nhục của anh em mình, một ngày Môsê quyết định thi hành công lý một mình qua việc đánh chết một người Ai Cập vì đã ngược đãi một người Do Thái. Tuy nhiên, sau sự kiện này, ông đã phải chạy trốn và ở lại sa mạc trong nhiều năm. Ở đó, ông đã trải qua một sa mạc nội tâm. Ông đã nghĩ đến việc đối phó với bất công một mình và bây giờ, kết quả là ông trở thành kẻ phải chạy trốn, sống trong cô đơn, nếm trải cảm giác thất bại cay đắng. Sai lầm của Môsê là gì? Đó là nghĩ mình là trung tâm, chỉ dựa vào sức mạnh mình. Nhưng như thế, ông vẫn là một tù nhân của những phương pháp tồi tệ nhất của con người, như đáp trả bạo lực bằng bạo lực.
Liên hệ đến thực tế, Đức Thánh Cha nhận định rằng, trong cuộc sống của chúng ta, đôi khi cũng có thể xảy ra như thế. Trong sâu thẳm chúng ta nghĩ mình là trung tâm, chúng ta có thể tự làm được mọi chuyện, nếu không phải trong lý thuyết thì ít ra trong thực tế. Chúng ta cho rằng với tài khéo của mình, chúng ta có thể tìm câu trả lời cho những đau khổ và những nhu cầu của dân chúng qua các phương tiện của con người, như tiền bạc, trí thông minh, quyền lực. Trái lại, hoạt động của chúng ta đến từ Chúa, Người là Thiên Chúa chúng ta và chúng ta được kêu gọi để trở thành những khí cụ ngoan nguỳ trong tay Người. Môsê đã học được điều này, khi một ngày Chúa chủ động đến gặp ông, hiện ra “trong đám lửa từ giữa bụi cây” (Xh 3, 2).
Khi chúng ta ngoan nguỳ để Chúa uốn nắn, chúng ta sẽ sống thừa tác vụ theo một cách mới. Trước Vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta hiểu rằng chúng ta không phải là những người đứng đầu bộ lạc, nhưng là những mục tử đầy lòng trắc ẩn và thương xót; không phải là những ông chủ của dân, nhưng là những người phục vụ, những người được kêu gọi rửa chân cho anh chị em; không phải là một tổ chức thế gian, quản lý của cải dưới đất, nhưng là cộng đoàn con cái Chúa. Rồi chúng ta làm như Môsê đã làm trước Chúa: cởi dép ở chân ra với sự tôn kính và khiêm nhường (Xh 3, 5), cởi bỏ sự tự phụ, để Chúa thu hút và nuôi dưỡng cuộc gặp gỡ với Người trong cầu nguyện; mỗi ngày đến gần với mầu nhiệm Thiên Chúa, để Người đốt cháy bụi gai kiêu ngạo và những tham vọng của chúng ta, và làm cho chúng ta trở thành những người đồng hành khiêm tốn trong hành trình của những người được trao phó cho chúng ta.
Chuyển cầu cho dân
Được lửa Thiên Chúa thanh tẩy và soi sáng, Môsê đã trở thành phương tiện cứu độ cho những anh chị em của ông đang đau khổ. Thái độ ngoan nguỳ của ông trước Chúa làm cho ông có khả năng chuyển cầu cho họ. Khía cạnh thứ hai của tính cách Môsê mà tôi muốn nói với anh chị em đó là chuyển cầu. Ông kinh nghiệm về một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, Đấng không dửng dưng trước tiếng kêu của dân nhưng xuống giải cứu họ.
Vào những thời điểm quan trọng và khó khăn nhất, ông Môsê lên núi để cầu thay cho dân, nghĩa là đứng vào vị trí của dân để đưa họ đến gần Chúa, rồi đi xuống. Cầu thay không có nghĩa đơn giản là “cầu nguyện cho ai đó”. Theo nguyên ngữ, có nghĩa là “bước vào giữa”, sẵn sàng bước vào giữa một hoàn cảnh. Như vậy, chuyển cầu là đi xuống và đặt mình ở giữa dân mình, đóng vai trò như cầu nối họ với Thiên Chúa.
Các mục tử được yêu cầu trau dồi nghệ thuật “bước vào giữa” này. Đó là bước vào giữa những đau khổ và nước mắt của dân, vào giữa sự đói khát Thiên Chúa và khát khao tình thương của anh chị em. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta không phải là trở thành một Giáo hội được tổ chức hoàn hảo, nhưng là một Giáo hội, nhân danh Chúa Kitô, đứng vững giữa cuộc sống đầy khó khăn của dân chúng, một Giáo hội vì con người sẵn sàng để cho tôi xắn tay áo và chịu bẩn tay.
Đức Thánh Cha nhắn nhủ, khi thi hành thừa tác vụ, các linh mục và tu sĩ không chạy theo uy tín tôn giáo và xã hội, nhưng bước đi giữa và bên cạnh dân, học cách lắng nghe và đối thoại, hợp tác giữa chúng ta với nhau, những thừa tác viên và với giáo dân. Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này: cùng nhau. Các giám mục và linh mục, linh mục và phó tế, mục tử và chủng sinh, các thừa tác viên chức thánh và tu sĩ – luôn nuôi dưỡng sự tôn trọng đối với nét đặc thù kỳ diệu của đời sống tu trì. Giữa chúng ta, hãy cố gắng vượt thắng cám dỗ lo cho cá nhân, lợi ích nhóm. Là điều đáng buồn khi các mục tử không có khả năng hiệp thông, khi không hợp tác và thậm chí dửng dưng với nhau! Chúng ta hãy vun đắp sự tôn trọng lẫn nhau, gần gũi và hợp tác cụ thể. Nếu chính chúng ta không làm được điều này, làm sao chúng ta có thể rao giảng cho người khác?
Ông Môsê cầu nguyện cho dân với cây gậy trong tay: Lời ngôn sứ
Đức Thánh Cha chỉ ra nghệ thuật cầu thay của Môsê: Với đôi tay, ông cầu nguyện. Kinh Thánh cho thấy ba hình ảnh: Môsê tay cầm gậy, Môsê dang tay, Môsê giơ tay lên trời.
Hình ảnh đầu tiên, Môsê với cây gậy trong tay, cho chúng ta biết rằng ông can thiệp bằng lời ngôn sứ. Với cây gậy, ông làm nên những điều kỳ diệu, những dấu hiệu về sự hiện diện và quyền năng Chúa; nhân danh Chúa ông lên tiếng, mạnh mẽ tố cáo sự áp bức mà dân đang phải chịu đựng, và yêu cầu Pharaô phải để họ ra đi.
Linh mục và tu sĩ cũng được mời gọi chuyển cầu cho dân, lên tiếng chống lại bất công và lạm quyền áp bức và sử dụng bạo lực để đạt được mục đích riêng giữa đám mây xung đột. Nếu chúng ta muốn là những mục tử chuyển cầu, chúng ta không thể giữ thái độ trung lập trước những nỗi đau do những hành vi bất công và bạo lực gây ra. Bởi vì ở đâu có một người nam hay người nữ bị xúc phạm các quyền cơ bản là xúc phạm đến Chúa Kitô.
Ông Môsê cầu nguyện cho dân với đôi tay dang rộng
Hình ảnh thứ hai là Môsê với đôi tay dang rộng. Kinh Thánh cho chúng ta biết ông “đã giơ tay trên mặt biển” (Xh 14,21). Đôi bàn tay mở rộng của ông là dấu hiệu cho thấy Chúa sắp thể hiện uy lực. Sau đó, ông Môsê cầm bia Chứng Ước trong tay (Xh 34,29) và cho dân chúng thấy; bàn tay giơ cao của ông chứng tỏ sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng luôn hoạt động đồng hành với dân Người. Tự nó, lời ngôn sứ không đủ để giải thoát khỏi sự dữ: cần phải giang rộng vòng tay với anh chị em, để nâng đỡ họ trên hành trình. Chúng ta có thể hình dung Môsê chỉ đường và nắm tay mọi người để khuyến khích họ kiên trì bước đi. Trong bốn mươi năm, ở tuổi già, ông vẫn ở bên cạnh họ: đó là ý nghĩa của sự gần gũi. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng: ông thường phải nâng đỡ tinh thần của những người đang chán nản và mệt mỏi, đói và khát, hay lầm bầm và thờ ơ. Và khi thực hiện nhiệm vụ này, Môsê cũng phải đấu tranh với chính mình, vì nhiều lúc, ông cũng trải qua những giây phút tăm tối và u sầu, như khi ông thưa với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài ? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? […] Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (Ds 11,11.14). Tuy nhiên, Môsê đã không lùi bước: luôn ở gần Thiên Chúa và không quay lưng lại với dân.
Đức Thánh Cha nói: “Đây cũng là nhiệm vụ của chúng ta: dang tay ra, thức tỉnh anh chị em chúng ta, nhắc nhở họ rằng Thiên Chúa trung thành với các lời hứa của Người, thúc giục họ tiến bước. Bàn tay chúng ta được “xức dầu bằng Thần Khí” không chỉ để thực hiện các nghi thức thánh, nhưng còn để khuyến khích, giúp đỡ và đồng hành với mọi người để giúp họ thoát ra khỏi những gì làm họ tê liệt, khép kín, làm họ sợ hãi.”.
Ông Môsê cầu nguyện cho dân hai tay giơ lên trời
Hình ảnh thứ ba: Môsê với hai tay giơ lên trời. Khi dân phạm tội, làm một con bò con bằng vàng, Môsê lại đi lên núi. Ông cầu nguyện, đó thực sự là một cuộc đấu tranh với Chúa, cầu xin Người không bỏ rơi Israel. Ông đi xa đến mức nói: “Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết” (Xh 32, 31-32). Môsê đứng với dân chúng cho đến phút cuối, giơ tay thay mặt họ. Ông không nghĩ đến việc tự cứu mình; ông không bán dân vì lợi ích của mình! Ông can thiệp, đấu tranh với Chúa; ông vẫn giơ tay cầu nguyện trong khi các anh em của ông chiến đấu trong thung lũng bên dưới (Xh 17, 8-16). Mang những cuộc đấu tranh của người dân đến trước mặt Chúa trong lời cầu nguyện, nhận sự tha thứ cho họ, thực hiện sự hòa giải như những kênh của lòng thương xót Chúa: đây là nhiệm vụ của chúng ta với tư cách là những người chuyển cầu.
Kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha cám ơn các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên vì những gì “anh chị em làm giữa rất nhiều thử thách và đau khổ. Thay mặt cho toàn thể Giáo hội, cám ơn anh chị em về sự cống hiến, cam đảm, sự hy sinh và sự kiên nhẫn. Anh chị em thân mến, tôi ước mong anh chị em luôn là những mục tử và chứng nhân quảng đại, được trang bị chỉ bằng lời cầu nguyện và bác ái; anh chị em hãy để cho mình không ngừng ngạc nhiên trước ân sủng Chúa; và trở thành một phương tiện cứu rỗi cho những người khác, những ngôn sứ của sự gần gũi đồng hành với mọi người, những người chuyển cầu với những cánh tay giơ cao.”
Ngọc Yến
2023
Nhà Thánh của Ðức Mẹ ở Loreto
Theo chân những vị tiền nhiệm, Ðức Giáo Hoàng Phanxicô đã hành hương đến Ðền thánh Ðức Bà Loreto vào ngày 25.3 vừa qua.
Loreto là một thị trấn nhỏ bé và yên bình bên bờ biển miền trung tây của Ý. Từ đây, khách tham quan có thể thưởng lãm cảnh quan ngây ngất và đầy thơ mộng của biển Adriatic, phân cách bán đảo Ý và Balkan. Thế nhưng, điều đã giúp đô thị trên đồi thuộc địa phận tỉnh Ancona khác biệt với những vùng còn lại của quốc gia hình chiếc ủng chính là mối liên hệ sâu xa và kỳ diệu với Ðức Mẹ.
Lòng tôn kính đối với Ðức Bà Loreto bắt nguồn từ câu chuyện liên quan đến nỗ lực đưa ngôi nhà của Ðức Maria ở Nazareth (Israel) về vùng làng quê xứ Ý. Căn nhà nhỏ với những bức tường gạch cổ xưa có tên chính thức là Holy House (Nhà Thánh), tương truyền là nơi Tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin cho Mẹ. Khi còn tọa lạc trên Ðất Thánh, ngôi nhà luôn là trọng điểm được giới Kitô hữu bảo vệ, vì bên dưới mái nhà khiêm tốn này, thiên thần Gabriel đã loan báo với Ðức Mẹ Maria về Ðấng Hài Nhi sắp giáng thế. Chúa Giêsu cũng trải qua thời niên thiếu tại đây.
Nhiều thế kỷ sau, vào năm 1291, khi vua Hồi giáo kéo quân đi khắp chốn và chiếm đóng Jerusalem, ngôi nhà đột nhiên biến mất một cách bí ẩn khỏi Nazareth. Sau đó nó lại xuất hiện không giải thích được tại thành phố Trsat, ngày nay là Croatia. Linh mục coi sóc giáo xứ địa phương cũng “choáng váng” về sự xuất hiện bất ngờ của ngôi nhà, và sau đó đã nhận được thông điệp của Mẹ trong mơ. Ðức Maria nói với vị linh mục rằng, đó là ngôi nhà thơ ấu của Chúa Giêsu, và bởi vì thế nên vị linh mục được chữa khỏi căn bệnh phải chịu đựng nhiều năm. Câu chuyện này sau đó đã được lan truyền khắp chốn.
Các tín hữu bắt đầu hành hương đến địa điểm mới của ngôi nhà, và nhận được nhiều ơn Chúa và phép lạ. Giới chức địa phương quyết định cử phái đoàn đến Ðất Thánh để xác định liệu ngôi nhà thật sự đã được dời đến Trsat. Theo ghi chép, khi đến Nazareth, họ chỉ còn tìm thấy phần móng của ngôi nhà trong nỗi bàng hoàng của người dân xung quanh. Phần móng có kích cỡ tương đương với ngôi nhà lúc đó đã ở Trsat (hiện nó vẫn được bảo quản tại Vương Cung Thánh Ðường Truyền Tin ở Nazareth). Trong khi đó, nhà ở Trsat vẫn nguyên vẹn và không có dấu hiệu nào cho thấy đã được tháo ra và xây dựng lại.Khoảng 3 năm sau, phép màu một lần nữa lại diễn ra: Ngày 10.12.1294, ngôi nhà được di chuyển, và đưa đến cánh rừng ở Loreto. Phép lạ đã chứng thực lời tiên tri của thánh Phanxicô thành Assisi, ngài từng nói sẽ đến ngày Loreto trở thành một trong những thành phố linh thiêng nhất thế giới và Ðền thánh vinh danh Ðức Mẹ sẽ được xây dựng tại đây.
Sau đây là những điểm nổi tiếng về cấu trúc Loreto:
1. Những tảng đá dựng nên các bức tường của ngôi nhà không thuộc về Ý, mà đến từ Nazareth ở Ðất Thánh.
2. Cửa chính làm từ gỗ cây tuyết tùng, loại không tìm thấy ở Ý mà là loại thực vật đặc trưng của vùng Palestine.
3. Loại xi măng được dùng để kết dính các khối đá xuất hiện vào thời Chúa Giêsu, được người Palestine dùng để xây nhà, nhưng không được sử dụng tại Ý vào thời điểm Nhà Thánh lộ diện ở Loreto.
4. Kích thước của Nhà Thánh hoàn toàn tương đồng với phần nền bị bỏ lại ở quê hương Nazareth.
5. Ngôi nhà nhỏ và đơn giản, giống như vào thời Chúa Giêsu.Ðức Bà Loreto còn là thánh bảo trợ ngành hàng không vì những phép lạ liên quan đến sự dịch chuyển huyền nhiệm của Nhà Thánh. Hiện Nhà Thánh nằm bên trong Ðền thánh Ðức Bà Loreto, một công trình tráng lệ được khởi công dưới triều đại của Ðức Giáo Hoàng Sixtus V.
LING LANG
Vào năm 1061, một phụ nữ quý tộc, được cho là bà quả phụ của lãnh chúa vùng Walsingham Parva, Phu nhân Richeldis de Faverches, đã cầu nguyện Ðức Mẹ Maria xin được thị hiện hình ảnh của Nhà Thánh với hy vọng có thể xây một phiên bản tương tự. Ðức Mẹ đã thực hiện nguyện vọng của bà và 3 lần cho thấy hình ảnh ngôi nhà, cũng như các thông tin về kích thước. Sau nhiều nỗ lực, phiên bản Nhà Thánh đã được xây dựng thành công và Walsingham được biết đến với biệt danh “Nazareth của Anh”. Ngôi nhà trở thành địa điểm hành hương vào thời Trung Cổ, cho đến khi bị Vua Henry VIII (triều đại từ 1509-1547) phá hủy. |
2023
Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”
Trong buổi cầu nguyện đại kết tại Lăng “John Garang”, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu cầu nguyện và làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ giữa các Kitô hữu và hãy giúp nhau truyền bá thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa Giêsu, để nơi những người tự xưng là tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù.
Tông du tại Nam Sudan
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Cuộc gặp gỡ những người di tản nội địa
Juba, Hội trường Tự do, 04/02/2023
Hoạt động cuối cùng của Đức Thánh Cha trong ngày thứ hai của chuyến viếng thăm Nam Sudan là chủ sự buổi Cầu nguyện Đại kết tại Lăng John Garang.
Sau khi gặp gỡ những người di tản nội địa tại Hội trường Tự do, Đức Thánh Cha cùng Đức Tổng Giám mục Anh giáo của Canterbury và vị Điều hành Tổng công nghị của Giáo hội Scotland di chuyển đến Lăng John Garang gần đó.
Lăng John Garang
Lăng này là nơi an nghỉ của tiến sĩ John Garang de Mabior. Ông là lãnh đạo Lực lượng và Phong trào Giải phóng Nhân dân Sudan từ năm 1983 đến năm 2005, năm ký Hiệp ước Hoà bình Toàn cầu, với kết quả là Nam Sudan được độc lập vào năm 2011. Tuy nhiên ông John Garang không thể chứng kiến sự kiện này vì ông đã qua đời do tai nạn máy bay sau khi đã tuyên thệ làm phó tổng thống thứ nhất của Sudan và Tổng thống của chính phủ Nam Sudan.
Chính trên lăng mộ của ông John Garang, vào ngày 9/7/2011, ông Salva Kiir Mayardit, Tổng thống hiện tại của Nam Sudan, đã tuyên bố đất nước độc lập.
Cầu nguyện đại kết: Con cầu nguyện để họ nên một… (Ga 17,21)
Chủ đề của buổi cầu nguyện là ‘Con cầu nguyện để họ nên một…’ (Ga 17,21). Tham dự buổi cầu nguyện đại kết có đại diện của các Giáo hội Kitô tại Nam Sudan.
Bắt đầu buổi cầu nguyện, mục sư Thomas Tut Puot Mut, Chủ tịch Hội đồng các Giáo hội của Nam Sudan, đã đại diện chào mừng Đức Thánh Cha và các phái đoàn đại kết.
Đoạn sách Công vụ Tông đồ (2,42-47) được công bố trong buổi cầu nguyện đại kết, thuật lại việc các tín hữu tiên khởi chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng cầu nguyện, đồng tâm nhất trí và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ. Sau đó, đoạn Tin Mừng thánh Gioan (17,20-26) thuật lại lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho tất cả được hiệp nhất, được trở nên một, “như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.”
Trong buổi cầu nguyện, các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau cũng đã tuyên xưng đức tin, bằng cách cùng nhau đọc lại kinh Tin Kính các Tông đồ. Sau đó, những lời cầu nguyện khẩn cầu lòng thương xót cho quốc gia đã được các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau ở Nam Sudan dâng lên Thiên Chúa.
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Mở đầu bài chia sẻ, Đức Thánh Cha nói rằng mọi người đang quy tụ, như là Dân Thánh của Chúa, cầu nguyện cho dân tộc đang bị thương tích này. Và ngài nhấn mạnh: “Là Kitô hữu, cầu nguyện là điều đầu tiên và quan trọng nhất mà chúng ta được mời gọi thực hiện để có thể hoạt động cho sự thiện và có sức mạnh để kiên trì trên hành trình của chúng ta.” Từ đó ngài chia sẻ về ba động từ: Cầu nguyện, làm việc và bước đi.
- Cầu nguyện
Trước hết là cầu nguyện. Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự dấn thân của các cộng đoàn Kitô hữu trong việc thăng tiến con người, trong tình liên đới và hòa bình sẽ vô ích nếu không có lời cầu nguyện.
Suy tư về ý nghĩa của việc cầu nguyện trong đời sống và sứ vụ lãnh đạo dân tộc của ông Môsê trên hành trình tìm đến tự do, đặc biệt qua biến cố tại Biển Đỏ: trước mặt họ là một bức tường nước không thể vượt qua được và đàng sau là quân địch đang tiến đến, với chiến xa và ngựa, Đức Thánh Cha nhận xét rằng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, ông Môsê khuyên dân chúng: |Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em” (Xh 14,13). Ông có được sự chắc chắn như vậy là nhờ lắng nghe Chúa (xem các câu 2-4), Đấng đã hứa với ông rằng Người sẽ tỏ vinh quang của Người. Và Đức Thánh Cha khẳng định: “Sự kết hợp với Thiên Chúa, sự tin tưởng vào Người được vun trồng trong cầu nguyện, là bí quyết nhờ đó ông Môsê có thể lãnh đạo dân chúng đi từ áp bức đến tự do.”
Cầu nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước
Đối với chúng ta cũng vậy. Đức Thánh Cha nói: “Cầu nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước, để vượt qua những nỗi sợ hãi, để thoáng thấy, ngay cả trong bóng tối, ơn cứu độ mà giờ đây Thiên Chúa đang chuẩn bị. Hơn nữa, cầu nguyện kéo ơn cứu độ của Thiên Chúa xuống trên con người.” Đặc biệt, các mục tử của dân Chúa có bổn phận đặc biệt chuyển cầu cho đoàn chiên của mình để xin Chúa của sự bình an can thiệp nơi mà con người không thể mang lại bình an.
Hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện
Và Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau hãy hiệp nhất với nhau, như một gia đình duy nhất, có trách nhiệm cầu nguyện cho mọi người; hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện (xem Cv 1,14) để Nam Sudan, giống như dân Chúa trong Kinh Thánh, ‘có thể đến được miền đất hứa.’”
- Làm việc vì hoà bình
Về động từ thứ hai – làm việc, theo Đức Thánh Cha, chúng ta được mời gọi làm việc là vì hoà bình, vì Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành “những người kiến tạo hòa bình” (Mt 5,9). “Người muốn Giáo hội của Người không chỉ là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, mà còn là sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại (x. Lumen gentium, 1).” Chúa Kitô “là bình an của chúng ta” chính bởi vì Người tái lập sự hiệp nhất: Người là Đấng “làm cho cả hai nên một, phá đổ những bức tường ngăn cách, thù hận” (x. Ep 2,14). Đức Thánh Cha giải thích: “Đây là bình an của Thiên Chúa: không chỉ là một thỏa thuận đình chiến giữa các cuộc xung đột, nhưng là một sự hiệp thông huynh đệ, đến từ việc liên kết với nhau, không phải từ việc nuốt chửng nhau; từ tha thứ chứ không từ chế ngự; từ hòa giải chứ không từ áp đặt.”
Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa
Và Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta hãy làm việc không mệt mỏi vì nền hòa bình mà Thần Khí của Chúa Giêsu và Chúa Cha thúc giục chúng ta xây dựng: một nền hòa bình hội nhập sự đa dạng và thúc đẩy sự hiệp nhất trong sự đa dạng. Đây là bình an của Chúa Thánh Thần, Đấng dung hòa những khác biệt, trong khi thần khí thù địch với Thiên Chúa và con người lợi dụng những khác biệt để chia rẽ.” Đức Thánh Cha lưu ý rằng “những ai gọi mình là Kitô hữu đều phải biết chọn đứng về phía nào. Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa và chối bỏ Tin Mừng của Người. Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta thì rất rõ ràng: yêu thương mọi người, vì mọi người đều được Cha chung trên trời yêu thương như con cái. Tình yêu của người Kitô hữu không chỉ dành cho người thân cận của mình, mà còn dành cho mỗi người, bởi vì mỗi người trong Chúa Giêsu đều là người thân cận, anh chị em của chúng ta – thậm chí cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,38-48). Điều này càng đúng hơn biết bao đối với những người là thành viên của cùng một dân tộc, mặc dù thuộc các nhóm sắc tộc khác nhau.”
Hãy cùng nhau làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ
Đức Thánh Cha mời gọi hãy cùng nhau làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ này giữa các Kitô hữu chúng ta và hãy giúp nhau truyền bá thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa Giêsu, để nơi các tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù.
- Bước đi: làm việc cùng nhau
Sau các động từ cầu nguyện và làm việc, Đức Thánh Cha chia sẻ về động từ thứ ba: bước đi. Ngài cảm ơn các cộng đồng Kitô giáo đã dấn thân mạnh mẽ để thúc đẩy các tiến trình hòa giải, cảm ơn chứng tá đức tin của họ, một chứng tá xuất phát từ nhận thức, được diễn tả không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, rằng “trước những chia rẽ lịch sử, có một thực tại bất di bất dịch: chúng ta là Kitô hữu, chúng ta thuộc về Chúa Kitô.” Ngài nhận xét rằng có một điều tốt đẹp là “giữa quá nhiều xung đột, những người tuyên xưng đức tin Kitô giáo chưa bao giờ làm dân tộc bị chia rẽ, nhưng đã và vẫn tiếp tục là một yếu tố của sự hiệp nhất.”
Việc gieo rắc Tin Mừng phải góp phần gieo rắc sự hiệp nhất
Đức Thánh Cha cũng khen ngợi rằng “Truyền thống đại kết của Nam Sudan là một kho tàng quý giá, một hành động ngợi khen danh Chúa Giêsu, một hành động yêu thương dành cho Giáo hội, hiền thê của Người, một mẫu gương cho tất cả để tiến tới trên con đường hiệp nhất Kitô giáo.” Do đó, di sản này phải được gìn giữ trong cùng tinh thần đó: “Những chia rẽ trong Giáo hội trong các thế kỷ qua không được ảnh hưởng đến những người được loan báo Tin Mừng, nhưng việc gieo Tin Mừng phải góp phần gieo sự hiệp nhất nhiều hơn. Chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa bè phái nuôi dưỡng bạo lực trong nước không được ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các tôn giáo; ngược lại, ước gì chứng tá về sự hiệp nhất của các tín hữu phải được tuôn đổ trên toàn dân.”
Ký ức và dấn thân
Để giúp các Kitô hữu kiên trì tiếp tục cuộc hành trình của mình, Đức Thánh Cha đưa ra hai yếu tố quan trọng: ký ức và dấn thân. Trước hết, về ký ức, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu đừng sợ mình không sống theo gương mẫu của các vị tiền nhân, ngược lại hãy cảm thấy bị thúc đẩy bởi những người đã mở đường cho họ.
Đừng bao giờ hành động như những đối thủ cạnh tranh
Chia sẻ về sự dấn thân, Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta tiến tới sự hiệp nhất khi tình yêu được thể hiện cách cụ thể, khi chúng ta cùng nhau giúp đỡ những người bị gạt ra bên lề, những người bị thương tích và bị từ chối.” Ngài nhận xét rằng các Kitô hữu đã thực hiện điều này trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bác ái. Ngài mời gọi họ hãy tiếp tục dấn thân nhưng “đừng bao giờ hành động như những đối thủ cạnh tranh, mà như là các thành viên trong gia đình, những anh chị em, những người, bằng lòng cảm thương đối với những người đau khổ, những người được Chúa Giêsu yêu quý, đã tôn vinh Thiên Chúa và làm chứng cho tình thân hữu mà Người mong muốn.”
Tiếp tục buổi cầu nguyện, Đức cha Stephen Ameyu Martin Mulla, Tổng Giám mục giáo phận Juba, mời gọi tất cả cùng đọc kinh Lạy Cha bằng các ngôn ngữ khác nhau mà người dân Nam Sudan sử dụng.
Sau cùng, Đức Thánh Cha và hai vị lãnh đạo của Giáo hội Anh giáo và Giáo hội Scotland cùng ban phép lành cho tất cả tín hữu hiện diện.
Kết thúc giờ cầu nguyện Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần cách đó 2 km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Nam Sudan.
Chúa Nhật ngày 5/2/2023 Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ tại Lăng John Garang trước khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và lên đường trở về Roma. Vatican News Tiếng Việt sẽ truyền hình trực tiếp Thánh Lễ với thuyết minh tiếng Việt, lúc 1h45 chiều Chúa Nhật, 5/2/2023.
Hồng Thủy