2023
Những chỉ dẫn của Kinh Thánh giúp tìm thấy hạnh phúc
Những chỉ dẫn của Kinh Thánh giúp tìm thấy hạnh phúc
Chẳng cần phải lục lọi hết chỗ này đến chỗ khác, bí quyết để có được hạnh phúc đích thực chẳng ở đâu xa cả. Chính trong Bài Giảng Trên Núi mà Matthêu (Mt 5,1-16) và Luca (6,20-38) thuật lại, Đức Giêsu đã chỉ rõ 8 cánh cửa để đạt được hạnh phúc, hứa hẹn cho tất cả những ai đi qua nó.
Đó là những mối phúc trao ban cho chúng ta hạnh phúc của Giêsu, một hạnh phúc tròn đầy, miên viễn, bất chấp hoàn cảnh có đau thương và khó khăn đến đâu.
Đức Thánh Cha Phanxico khuyến khích chúng ta đọc các Mối Phúc này để chống lại xu hướng ngẫu tượng của thế gian này, vốn làm chúng ta hiểu sai về “hạnh phúc”.
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy có hàng trăm trích dẫn nói về hạnh phúc, niềm vui, sự hoan hỉ. Tuỳ vào mỗi người mà tìm được những soi sáng giúp thấy được điều gì làm mình bất an về mặt vật chất và điều gì Thiên Chúa đã ban về mặt thiêng liêng để mình có hạnh phúc một cách dư tràn.
Cũng có rất nhiều chi tiết khác giúp suy tư về lối sống của chúng ta, nhưng là những chỉ dẫn giúp phán đoán. Dần dần, người ta khám phá ra rằng hạnh phúc không hệ ở hoàn cảnh ngoại tại nhưng hệ ở Chúa.
Theo chân các bậc trí giả
Đặt nền tảng trên sự khiêm nhường, lòng tốt, thương cảm, trung tín và sự công bình, những điều này là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc, nhưng là một hạnh phúc vững vàng, chứ không phải tạm bợ hay mơ tưởng:
Kẻ chú tâm vào lời Chúa dạy sẽ gặp chuyện tốt lành, người đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA thật hạnh phúc dường bao. (Cn 16,20)
Hạnh phúc thay người được trí khôn ngoan, cũng như kẻ được tài phán đoán. (Cn 3,13)
Đi với người khôn, ắt sẽ nên khôn, chơi cùng kẻ dại, sẽ mang lấy họa. Điều bất hạnh bám sát người tội lỗi, chuyện may lành là phần thưởng của chính nhân. (Cn 13,20-21)
Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật CHÚA, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày. (Tv 1,1-2)
Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người. (Tv 118,1-2)
“Chọn tình yêu chứ đừng chọn ích kỷ”
Trong thư gửi tín hữu Galat, thánh Phaolo tông đồ đã đưa ra những phẩm chất mà người Kitô phải có để gia tăng niềm hạnh phúc. Đó là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal 5,22-23).
Đức Thánh Cha cũng đã nói trong tông huấn của ngài khi gợi nhắc chúng ta về khuôn vàng thước ngọc mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm khảm con người: “Hãy chọn tình yêu, đừng chọn ích kỷ, chọn sự sống chứ đừng chọn cái chết, chọn tự do đừng chọn nô lệ cho các thứ ngẫu tượng”.
Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. (Ga 15,10-11)
Lưu lại những niềm vui nhỏ nhoi
Chúng ta một mặt phải chiến đấu với những điều xấu, nhưng mặt khác cũng có những niềm vui nhỏ nhoi hàng ngày để thủ đắc và làm cho nó lớn lên, mà chúng ta thường khó thấy, nhưng Đức Giêsu trong Tin Mừng Luca có nói đến: “Phúc thay mắt nào thấy điều anh em đang thấy!” (Lc 10,23)
Đó là những món quà của Chúa để chúng ta sống với Người: thấy những điều tốt đẹp xung quanh mình và trong trái tim mỗi người, bắt đầu từ những điều của mình, để chia sẻ, để cảm thấy hạnh phúc, để nâng đỡ, và để trao ban những điều tốt đẹp của chúng ta cho người khác: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,35).
Tuy nhiên, “ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa” (1Pr 3,10).
Thánh vương Đavit đã làm chứng cho niềm hạnh phúc sống động này như là cái gì đó rất giản đơn mà ngài đã luôn nghiệm thấy trong những ngày vui lẫn ngày buồn. Một niềm vui mạnh hơn nước mắt, hơn cả lòng thù hận và đau khổ, như được diễn tả trong thánh vịnh 23 nổi tiếng: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Ngài, những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Một nụ cười nhẹ
Cha Joseph Folliet (1903-1972) – một nhà xã hội học, văn sĩ người Pháp và đồng sáng lập Compañeros de San Francisco, đã dựa vào các Mối Phúc của Tin Mừng mà viết nên “Các mối phúc nho nhỏ”, có lẽ rất phù hợp với thời đại của chúng ta:
“Phúc cho ai biết cười chính mình, họ sẽ luôn có niềm vui.
Phúc cho ai biết phân biệt việc lớn với việc bé (đừng việc bé xé ra to), họ sẽ bớt đau đầu.
Phúc cho ai có thể nghỉ ngơi thư giãn mà không bận tâm tìm biện hộ cho bản thân, họ đang dần trở nên khôn ngoan.
Phúc cho ai biết nhìn xem nên để chân ở đâu, họ sẽ tránh được nhiều phiền phức.
Phúc cho ai biết khi nào im lặng và lắng nghe, họ sẽ học được rất nhiều điều.
Phúc cho ai thông minh đủ để không quá nghiêm túc, người đó sẽ được tôn vinh.
Phúc cho ai để ý đến tiếng kêu của người khác, họ sẽ trở thành sứ giả niềm vui.
Phúc cho bạn nếu bạn biết nghiêm túc nhìn những điều nhỏ nhặt và bình thản nhìn những điều nghiêm túc, bạn sẽ tiến xa trong cuộc sống.
Phúc cho bạn nếu bạn luôn biết cười và quên những điều không hay, cuộc sống của bạn sẽ luôn tươi sáng.
Phúc chọ bạn nếu bạn dùng lòng nhân từ để giải thích thái độ của người khác dù bề ngoài có thể không như vậy, nó có thể hơi ngớ ngẩn nhưng đó là giá trị của lòng bác ái.
Phúc cho ai biết suy nghĩ trước khi hành động và cầu nguyện trước khi suy nghĩ, họ sẽ không làm những điều vô nghĩa.
Phúc cho bạn nếu bạn im lặng và mỉm cười dù khi người ta ngắt lời bạn, người ta phản bội bạn hay người ta chà đạp bạn, Tin Mừng đã bắt đầu thấm vào trái tim bạn.
Hơn hết, phúc cho bạn nếu bạn có thể nhận thấy Thiên Chúa trong mọi sự, bạn đã gặp được ánh sáng và sự khôn ngoan đích thực.”
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
Lược dịch từ: https://es.aleteia.org/2018/08/13/diez-versiculos-biblicos-para-encontrar-la-felicidad/?fbclid=IwAR2EYjzBB8mnhZOUu3WnvOeuFnaszidYTn2bgqTVzA8tt_E9Cc6ZvxhrMJQ
2023
Tại sao linh mục mặc áo lễ?
Áo lễ (chasuble) là một trang phục phụng vụ của linh mục, vốn không được chọn lựa cách ngẫu nhiên, nhưng có liên hệ đến Chúa Kitô.
Trong thánh lễ, linh mục luôn mặc một bộ lễ phục đặc biệt, được trang trí bằng các biểu tượng, có nhiều màu sắc khác nhau. Đây là một chiếc áo choàng (chasuble). Từ xa xưa, bất cứ khi nào một linh mục cử hành thánh lễ, ngài sẽ mặc một bộ áo lớn giống như một cái chăn choàng (được khoét lỗ ở giữa để chui đầu) gọi là casula (chasuble) để che phủ quần áo thường ngày của mình. Trang phục này có nguồn gốc từ trang phục Rôma bình thường của một nông dân. Người nông dân đội chiếc chăn choàng lớn này để bảo vệ mình khỏi gió, mưa hoặc thậm chí là nắng. Vào thế kỷ thứ 3, nó gắn liền với các Kitô hữu.
Khi xu hướng thời trang tiến triển, áo choàng không còn là trang phục thông thường nhưng luôn được các linh mục sử dụng. Dành riêng cho các thành viên của hàng giáo sĩ, nó bắt đầu được trang trí vào thế kỷ thứ VIII để phản ánh chức năng linh thánh của nó.
Nếu lúc đầu, áo lễ lớn và cồng kềnh, cần được giúp đỡ để tập hợp nhiều nếp gấp lại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc di chuyển của linh mục, thì theo thời gian, hình dạng của nó sẽ giảm đi.
Biểu tượng
Tính biểu tượng của áo lễ được thể hiện trong lời cầu nguyện truyền thống mà linh mục đọc trước khi mặc nó: « Domine, qui dixisti : Iugum meum suave est, et onus meum leve : fac, ut istud portare sic valeam, quod consequar tuam gratiam. Amen ». (« Lạy Chúa, Chúa đã phán: Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng: xin Chúa để con mặc trang phục này để nhận được ân sủng của Chúa. Amen. »).
Do đó, áo lễ nhắc lại “ách của Chúa Kitô”, và sự kiện linh mục là “một Chúa Kitô khác” trong hy tế thánh lễ. Ngài “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Eph 4, 24).
Hơn nữa, áo lễ còn tượng trưng cho “áo không đường khâu” mà Chúa Kitô đã mặc khi Người bị dẫn đi đóng đinh. Điều này càng làm nổi bật mối liên hệ giữa linh mục, thánh lễ và hy tế của Chúa Giêsu trên Thập Giá. Hình trang trí phổ biến của áo lễ là một cây thánh giá lớn ở mặt sau hoặc mặt trước của áo. Màu sắc của bộ trang phục này được phối hợp với màu tượng trưng của mùa phụng vụ hoặc ngày lễ.
Đây là lý do tại sao Giáo hội vẫn giữ lại trang phục cổ xưa này, nhắc nhở linh mục (và dân Chúa) rằng Thánh lễ không phải là một sự kiện bình thường mà là một sự kiện linh thánh.
Tý Linh (theo Philip Kosloski, Aleteia)
2023
Năm bài giảng trong Tin mừng Mátthêu
Mỗi thánh sử miêu tả Đức Giêsu cách khác nhau: Máccô nhìn Đức Giêsu là một Con Người (Son of Man); Mátthêu: Vua người Dothái (King of Jews); Luca: Đấng Cứu Độ trần gian (Saviour of World); Gioan: Con Thiên Chúa (Son of God).
Vua thì phải có: nước, thần dân, và luật pháp. Mở đầu Cựu Ước là năm cuốn sách Luật, gọi là Ngũ Kinh. Mở đầu Tân Ước là Tin Mừng Mátthêu với năm bài giảng của Đức Giêsu. Điều này cho thấy thánh Mátthêu đã cố tình đưa độc giả của mình đến một nhận định so sánh đối chiếu giữa: Luật cũ và Luật mới, Luật của Môsê và Luật của Đức Giêsu. Thánh Mátthêu nhấn mạnh: Đức Giêsu đến để kiện toàn, chứ không hủy bỏ Lề Luật.
Năm Bài Giảng được thánh Mátthêu sắp xếp thật tài tình giữa những việc Đức Giêsu làm và những lời Đức Giêsu dạy, như một chiếc bánh mì kẹp thịt năm tầng mà thánh Mátthêu đã dọn ra và kêu mời chúng ta đến thưởng thức:
(1) Bài Giảng Trên Núi (chương 5 đến 7) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để Công Bố Nước Trời. Bài giảng này cho thấy cung cách hành xử của người công dân Nước Trời phải như thế nào: sống các mối phúc; Bố thí, cầu nguyện, ăn chay kín đáo; Không xét đoán, muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta, phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa…
(2) Bài Giảng về Sứ Mạng Truyền Giáo (chương 10) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để Rao Giảng Nước Trời. Bài giảng này cho thấy: một khi đã gia nhập vào vương quốc của Thiên Chúa, thì việc đầu tiên phải làm là thi hành sứ mạng truyền giáo, như Đức Giêsu đã sai mười hai Tông Đồ đi rao giảng, tiên báo những cuộc bách hại, đừng sợ: hãy nói giữa ban ngày, từ bỏ chính mình để theo Chúa…
(3) Bài Giảng bằng Dụ Ngôn (chương 13) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để mặc khải Mầu Nhiệm Nước Trời. Bài giảng này cho thấy: một niềm hy vọng tràn trề, cho dẫu, gieo 4 hạt, thì chỉ có 1 hạt vào đất tốt, nhưng, một hạt sẽ thu được 30, 60, và 100; Nước Trời như hạt cải bé nhỏ, nhưng, sẽ thành cây cao bóng cả; lúa tốt và cỏ lùng, cá tốt và cá xấu lẫn lộn với nhau, nhưng, đừng lo, hãy kiên nhẫn chờ đợi…
(4) Bài Giảng về Hội Thánh (chương 18) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để chuẩn bị cho Hội Thánh như Bước Khởi Đầu của Nước Trời. Bài giảng này cho thấy: những kẻ bé mọn là những người lớn trong Nước Trời, đừng làm cớ cho những kẻ bé mọn sa ngã, tìm chiên lạc, sửa lỗi, tha thứ cho nhau…
(5) Bài Giảng về Thời Cánh Chung (chương 24 đến 25) được theo sau phần trình thuật những việc Đức Giêsu đã làm để tuyên bố Nước Trời: Triều Đại Thiên Chúa Đã Đến Gần. Bài giảng này cho thấy: những cơn đau đớn khởi đầu, khốn khổ tại Giêrusalem, cuộc quang lâm của Con Người, hiện tượng của ngày quang lâm, các dụ ngôn về canh thức sẵn sàng, cuộc phán xét chung…
Thánh Mátthêu nhìn Đức Giêsu là Vua người Dothái, ngài nhắc đến Cựu Ước nhiều hơn các sách Tin Mừng khác: có đến 29 lần trích dẫn được lấy trực tiếp từ Cựu Ước, và 121 lần ám chỉ đến Cựu Ước. Chỉ riêng trong trình thuật Giáng Sinh, cụm từ “Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ…” xuất hiện đến 13 lần.
Trong Vương Quốc của Thiên Chúa, chúng ta không chỉ là thần dân, mà còn là con cái của Cha trên trời. Vua của Vương Quốc cũng là Cha của chúng ta. Mátthêu nhắc đến “Cha” đến 44 lần, trong khi, Máccô chỉ có 4 lần, còn Luca thì 17 lần. Chúng ta phải ý thức rằng: chúng ta vừa là thần dân, vừa là con cái trong Nước Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền, chứ không như nô lệ khiếp sợ ông chủ hà khắc.
Năm Bài Giảng của Đức Giêsu được thánh Mátthêu xen kẽ giữa việc làm và lời dạy của Người. Điều này cho chúng ta thấy: nếu chúng ta chỉ chú ý đến những việc phải làm khi ở trong Vương Quốc của Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo như những người Pharisêu, chỉ chăm chăm giữ luật, mà quên mất tình yêu: tự biến mình thành nô lệ không bao giờ dám trái lệnh Cha như người con cả, mà quên mất ơn cứu độ là ơn hoàn toàn nhưng không, không do công trạng của chúng ta, nhưng, do bởi tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Cha trên trời.
Emmanuel Thanh Hiền, OSB
2023
Giải đáp thắc mắc: Xin đặc ân thánh Phaolô
Giải đáp thắc mắc: Xin đặc ân thánh Phaolô
Thưa cha:
Anh người yêu của con là một người lương (theo đạo Ông Bà). Anh ấy đã kết hôn với vợ là một người cũng theo đạo Ông Bà. Anh chị đã ly dị và đã có giấy chứng nhận ly hôn. Nay con muốn kết hôn với anh ấy, anh ấy đã học giáo lý, muốn gia nhập đạo Công giáo. Cha xứ hướng dẫn chúng con viết đơn xin đặc ân thánh Phaolô và đem nộp ở Văn phòng Hôn nhân nơi Tòa Giám mục. Thế nhưng đã hơn một năm, chúng con vẫn chưa nhận được kết quả. Xin cha cho biết lý do?
Một giáo dân ở giáo hạt Báo Đáp hỏi.
Giải đáp:
Đặc ân thánh Phaolô hệ tại ở việc cho tháo gỡ hôn nhân giữa hai người không được Rửa tội (người lương) vì lợi ích đức tin của một bên người lương được Rửa tội, “do chính sự kiện người ấy tái hôn, miễn là người không được Rửa tội chia tay người ấy” (đ. 1143).
Sở dĩ gọi là đặc ân thánh Phaolô, vì dựa trên uy tín của thánh Phaolô cho phép người tín hữu rời bỏ người bạn ngoài đạo Công giáo nếu người này ngăn trở việc giữ đạo của người muốn theo đạo Công giáo, nguyên văn trích từ thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô 7,10-16. Theo thánh Phaolô, các người Kitô hữu không được phép ly dị, vì đó là điều Chúa truyền. Nhưng nếu là đôi hôn nhân giữa người Kitô hữu với người ngoài đạo, thì thánh Phaolô khuyến khích hãy cố gắng duy trì đời sống vợ chồng, vì biết đâu nhờ đó người ngoài đạo sẽ gia nhập đạo. Tuy nhiên, nếu người ngoài đạo đòi ly dị, thì thánh Phaolô dùng quyền của mình cho phép người Kitô hữu được ly dị.
Để có thể được hưởng đặc ân thánh Phaolô, đòi hỏi những điều kiện sau đây:
- Hai người lương đó đã kết hôn theo luật dân sự
- Một trong hai người muốn gia nhập đạo Công giáo
- Người bạn kia muốn chia tay
- Người muốn theo đạo Công giáo được ly dị và lập hôn thú mới.
“Người không chịu phép Rửa tội được kể là chia tay, nếu không muốn sống chung với người đã được Rửa tội hay không muốn sống chung hòa thuận mà không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa, trừ trường hợp sau khi chịu phép Rửa tội, người được Rửa tội đã gây ra nguyên nhân chính đáng để người kia được chia tay” (đ. 1143§2).
Điều kiện để “được kể là chia tay” phải được kiểm chứng qua sự chất vấn, theo điều 1144§1 quy định: “Để người được Rửa tội tái hôn thành sự, thì luôn luôn phải chất vấn người không chịu phép Rửa tội để biết:
1- người này có muốn được Rửa tội hay không;
2- ít là người này có muốn sống chung hòa thuận với người đã được Rửa tội mà xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa hay không.
Như thế, sự ly dị của hai người lương ở tòa án dân sự, cho dù có chứng thư ly dị cũng không đủ để kể là chia tay theo Giáo luật. Vì vậy, phải được phỏng vấn như Giáo luật quy định: Có muốn Rửa tội không, có muốn sống chung mà không xúc phạm đến Chúa không?
Trong trường hợp của bạn,
Văn phòng Hôn nhân phải điều tra và phỏng vấn để thỏa mãn điều kiện ban đặc ân.
+ Phỏng vấn anh ấy: Anh ta quen biết cô vợ cũ do đâu? Cưới nhau vì lý do gì? Trước và sau khi cưới có trục trặc gì? Nguyên nhân trục trặc do ai? Nếu có con, ai nuôi, việc cấp dưỡng phụ cấp nuôi con sẽ giải quyết thế nào? Để tìm hiểu hôn nhân của họ diễn ra tự nhiên, hay bị ép buộc, lừa đảo… trái tự nhiên. Nhất là nếu sự đổ vỡ hôn nhân là do anh ta: rượu chè, bài bạc, bạo lực… dẫn đến đổ vỡ thì Văn phòng hôn nhân phải cân nhắc để tránh sự đổ vỡ bất an khi anh ta kết hôn với người Công giáo. Nếu có lý do nguy hiểm cho hôn nhân của người Công giáo thì đặc ân cũng không được ban.
+ Phỏng vấn cô vợ cũ của anh ấy: Xác nhận lại nguyên nhân hai người kết hôn, nguyên nhân đổ vỡ dẫn đến ly dị. Hai người còn vướng mắc kinh tế, giấy tờ pháp lý, ràng buộc nợ nần… gì không? (Tuy Tòa án cho ly dị nhưng việc thi hành án đôi khi vẫn chưa xong). Cô ấy có muốn gia nhập đạo Công giáo không? Cô ấy có muốn tái hôn không (đôi khi sau khi ly dị, họ lại muốn tái hôn)? Nếu muốn tái hôn, vì lý do gì (đôi khi vì yêu thương nhau, vì con cái hay lý do chính đáng nào khác). Khi tái hôn họ có muốn sống chung mà không xúc phạm đến Thiên Chúa không? Có biết người nữ Công giáo mà anh ta sắp cưới không? (đôi khi vì chính người nữ Công giáo này lại là nguyên nhân làm cho hôn nhân của họ đổ vỡ, anh ta ly dị vợ để kết hôn với người nữ Công giáo này). Những điều trái quy định của Giáo luật xảy ra thì đặc ân cũng không được ban.
+ Phỏng vẫn người Công giáo sắp kết hôn với người lương đã ly dị: Bạn có chấp nhận hoàn cảnh của người lương ly dị, vấn đề nợ nần và trợ cấp nuôi con (nếu có). Vấn đề họ còn liên lạc với nhau có ảnh hưởng đến hôn nhân của bạn sau này không? Bạn có biết cô vợ cũ của anh ta không? Bạn có thấy nguy hiểm, bất an gì khi kết hôn với anh ta không?
Việc phỏng vấn cần rất nhiều thời gian, tùy thuộc vào sự cộng tác của người vợ cũ của anh ta, đôi khi cô ấy muốn kéo dài thời gian việc trả lời, còn nhiều điều chưa giải quyết xong. Nếu người đó ở xa, ở giáo phận khác, hoặc không liên lạc với đương sự một cách chắc chắn thì việc điều tra phỏng vấn cần nhiều thời gian hơn nữa. Văn phòng phải điều tra kỹ càng để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Bên cạnh đó, việc thử thách đức tin của người xin đặc ân cũng cần phải xét đến. ngoài thời gian 6 tháng đối với tân tòng theo quy định của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nếu người đó ở nước ngoài, việc điều tra khó khăn, thì Văn phòng hôn nhân cũng sẽ trình với Đức Giám mục để từ chối việc ban đặc ân.