2023
NGUỒN GỐC Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ
NGUỒN GỐC Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ
Decartes là người đầu tiên đi từ chỗ nhận định: ta có ý niệm rõ ràng và phân minh về Thiên Chúa, đến chỗ tự hỏi: từ đâu có ý niệm đó trong tâm linh ta? Và chúng ta biết rằng Decartes đã giải đáp theo chủ thuyết của ông: Ý niệm đó là do Thiên Chúa sáng tạo nên và đặt trong tâm linh tôi, như vết tay của hóa công ghi lại trên tác phẩm của mình. Chúng ta không thể đứng trong lập trường duy tâm của Decartes, chúng ta cũng đi từ sự kiện như Decartes, nghĩa là chúng ta bắt đầu bằng cuộc nghiên cứu nhận thức rằng: con người có ý niệm về Thượng Đế, nhưng rồi thay vì đưa ra giải pháp liều lĩnh của thuyết duy tâm, chúng ta sẽ nhờ lịch sử của các tôn giáo để tìm ra xuất xứ của ý niệm đó. Các học giả nghiên cứu về lịch sử của các tôn giáo đều công nhận rằng: ý niệm về thần linh và Thượng Đế xuất hiện rất sớm. Sự kiện tôn giáo bao giờ cũng đi trước sự xuất hiện của những môn phái triết học. Nhìn vào bất cứ thời đại nào, chúng ta cũng thấy con người được sinh trưởng trong bầu khí tôn giáo, cả những triết gia vô thần như Nietzche, Marx, Sartre… cũng đã lớn lên trong xã hội tôn giáo, được giáo dục bởi một nền văn minh thấm nhuần tôn giáo, được giáo dục bởi một nền văn minh thấm nhuần tôn giáo. Lịch sử cho hay chính tôn giáo đã nêu lên vấn đề và cũng chính tôn giáo đã cung cấp phạm trù tuyệt đối là căn nguyên sinh ra hiện tượng siêu việt, là nền tảng ý niệm triết học về Thượng Đế. Mà nói tôn giáo là nói con người tôn giáo, nghĩa là con người đã tới trình độ suy nghĩ về tình trạng bất lực của mình. Cho nên không có tôn giáo ngoài con người tôn giáo, cũng không có suy tưởng ngoài con người suy tưởng.
1. Khởi đầu ý niệm về thần linh và Thượng Đế
Mircea Eliade đã dùng những sự kiện hiển nhiên để chứng minh rằng: không phải do đường lối qui nạp, nhưng bằng một hành vi bất khả phân, con người đã nhận ra lãnh vực thần linh, và mặc dầu những dân tộc cổ sơ dùng những hình ảnh thô tục để chỉ Thượng Đế, nhưng thực sự họ đã ý thức về một Đấng ở trên đầu, một vũ trụ cao cả, siêu việt.
Người vô thần ngày nay thường vấn nạn rằng: Các dân tộc thái cổ đã thần thánh hóa trời, nhưng chúng ta hỏi lại họ: Những dân tộc kia đã lấy đâu ra ý niệm về Thượng Đế để rồi gán cho trời? Cho nên quyết đoán như họ là đưa lệch vấn đề đi thôi, chứ chưa phải là giải đáp. Thực ra có hai vấn đề hoàn toàn khác biệt nhau: Vấn đề căn bản: tức là vấn đề yếu tính của ý niệm đó; và sau là vấn đề hoàn cảnh thực tế, tức vấn đề hình thức. Dầu con người ở miền sông Nil đã tôn thờ Thượng Đế dưới hình thức mặt trời; dầu dân tộc Trung Hoa thời Đức Khổng Tử đã thờ kính Thượng Đế dưới hình thức Thiên; dầu dân tộc Ấn Độ thời trước Phật Thích Ca đã tôn thờ Thượng Đế dưới huy hiệu Balamôn..v..v..
Ý niệm về Đấng Siêu Việt đã đến với con người như một thức tỉnh và như một hiện tượng đột ngột. Nói thế, nghĩa là chúng ta không thể dùng những sự kiện tâm lý hay xã hội, hay bất cứ khoa học nào để giải nghĩa sự phát triển của ý niệm kia. Nhưng là: không thể lấy những hoàn cảnh địa lý hay xã hội để giải nghĩa chính sinh hoạt tinh thần của con người: không thể dùng những hiện tượng sấm sét để giải nghĩa hiện tượng con người về Thượng Đế, cùng lắm những hoàn cảnh đó chỉ là dịp và là môi trường cho sự phát sinh kia mà thôi. Hoàn cảnh không phải là nguyên nhân.
Trong lãnh vực sinh hoạt tinh thần, điều này còn đúng hơn nữa vì có sự vượt bậc. Pascal đã nói: “Tất cả vũ trụ vật chất không tạo nên một mảy may tinh thần, vì đó là hai trật tự khác nhau”.
Như thế, khả năng truy nhận có một vị thần linh cao quang thống trị vạn vật là một khả năng của con người. Người ta có thể lấy những hoàn cảnh của bên ngoài để giải nghĩa thực sự như triết học và tâm lý học chứng minh. Sự vật chỉ có ý nghĩa cho một ý thức biết nhận ra ý nghĩa đó mà thôi. Cho nên chúng ta không tìm thấy phát nguyên của ý niệm Thượng Đế ở ngoài sinh hoạt tinh thần của con người, mà sinh hoạt không phải là lý thuyết hay lý luận nhưng là lịch sử. Cho nên chúng ta chỉ phải ghi nhận sự xuất hiện kia như một quá trình sinh hoạt tinh thần của con người mà thôi.
2. Ý niệm về Thượng đế do đâu mà có ?
Vậy ý niệm về Thượng Đế do có suy luận hay do bản năng thần thoại mà ra, không thiếu người chủ trương do suy luận. Theo họ con người nhận ra Thượng Đế khi họ suy nghĩ về vũ trụ và về bản thân thấy rằng phải có Thượng Đế mới giải nghĩa được nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc của con người. Cách giải nghĩa này sẽ đưa chúng ta tới Thượng Đế của các triết gia. Nhưng chúng ta đã tạm đủ lý do để quyết rằng không có Thượng Đế của triết gia ngoài Thượng Đế của con người tôn giáo. Đúng như một triết gia đã nhận định tâm hồn tôn giáo đi tới Thượng Đế do con người tín ngưỡng, không do con đường của luân lý biện chứng.
Nói thế không có nghĩa là những người tín hữu không luận lý sâu xa, mỗi khi họ suy tư về tín ngưỡng của họ. Nhưng chúng ta chỉ có ý nhấn mạnh rằng: tín ngưỡng còn ở một bình diện sâu hơn ý nghĩa kia nhiều lắm. Có thể nói tín ngưỡng thuộc về một trật tự riêng biệt, tín ngưỡng là một hành vi đặc loại. Vì thế thay vì tách Thượng Đế làm hai để vừa làm đối tượng cho lý trí, vừa làm đối tượng cho tín ngưỡng. Một đàng là Thượng Đế của các triết gia, và đàng khác là Thượng Đế của tôn giáo. Chúng ta nên nhận thức rằng: Niệm tưởng tuyệt đối và niệm tưởng siêu việt chỉ là chính Thượng Đế nhìn qua lăng kính của suy niệm triết học mà thôi.
Như vậy ý niệm về Thượng Đế không thể do suy luận mà có, trái lại lý luận đã ngấm ngầm dựa vào niệm tưởng tuyệt đối đó để lập luận. Ngay từ khi suy luận và chứng minh về Thượng Đế, ý niệm về Người đã hiện ra như nền tảng cho những lý luận kia. Vậy phải nhận rằng thần thoại đã phát sinh ra Thượng Đế chăng? Giả thuyết này đã có một số người chủ trương và khai thác, lập luận của họ là ý niệm về Thượng Đế, là thành quả của phản ảnh xã hội và phóng thể ý thức. Những dân tộc nông nghiệp sẽ tự tạo cho mình những vị thần nông; những dân tộc của chiến tranh đều đã có những vị thần chiến thắng; những dân tộc sống bằng nghề chăn nuôi thì có những vị thần mục tử. Phản ảnh sinh hoạt này được hoàn thành khi các bộ lạc kia trở thành những quốc gia, rồi thành đế quốc. Khi đó vị thần của các dân tộc kia cũng biến thành những vị thần của tổ quốc và của đế quốc. Các thần linh của những nước bị trị đều phủ phục dưới chân của vị thần nước chiến thắng.
Hơn nữa, về những tài năng đức tính của thần linh có thuyết giả thuyết rằng: con người càng tân tiến thì lý tưởng luân lý càng cao, nhưng thay vì coi những đức tính kia là đức tính con người phải có, con người lại phóng chúng lên tận ý thức thần thoại, thành thử con người đã gán đức tính đó cho thần linh như thiện tâm – công minh – toàn năng, v.v..
Cách giải thích trên đây thoạt coi tưởng hợp lý lắm. Tuy nhiên khi nghiên cứu cho cùng, chúng ta thấy nó có vẻ hợp lý thôi, bởi vì giả thuyết đó vẫn không cho ta biết những nguyên tắc của ý niệm về Thượng Đế, và còn không giải nghĩa được một vài sự kiện quan trọng khác của lịch sử nữa.
– Trước hết, giả thuyết đó vẫn chưa giải quyết chi vấn đề nguồn gốc về Thượng Đế, khi họ bảo con người nông nghiệp đã vẽ ra một thần linh nông phu, và một thần linh mục tử. Họ mới chỉ nói đến khía cạnh hình thức và khía cạnh diễn tả của ý niệm kia mà thôi, chưa đả động chi đến ý niệm đó. Trái táo không giải nghĩa được định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, và guồng tát nước ở miền sông Nil không giải nghĩa được sự phát sinh ra khoa hình học; Sấm sét và những hiện tượng trong trời đất không sinh ra óc thần thoại. Trái lại chính bản năng thần thoại của con người, đã mặc cho những hiện tượng kia một ý nghĩa mà tự chúng không có. Ý nghĩa chỉ là ý nghĩa cho một ý thức mà thôi. Thành thử giả thuyết chỉ xê vấn đề đi sang chỗ khác, chứ không giúp ta giải quyết vấn đề.
– Sự kiện thứ hai không được giả thuyết trên giải quyết là: Người ta bảo thuyết độc thần là thành quả của sự thống nhất lâu la giữa các quốc gia hùng cường. Nhưng nếu vậy thì làm sao giải nghĩa được lịch sử Ấn Độ là nơi những hệ thống triết học tôn giáo sâu xa, và những hình thức phụng thờ rất cần thiết, đã nẩy nở giữa lòng một nền kinh tế cổ sơ và một nền chính trị chưa thành hình. Nhất là hỏi người ta đã đọc câu đầu của thập giới Do Thái chưa?
Chúng ta thấy người ta đã lầm lẫn một cách tai hại trong việc giải nghĩa về nguồn gốc ta có về Thượng Đế. Người ta đã muốn lấy hậu quả để giải thích nguyên nhân, vì người ta đã lấy thần thoại để giải nghĩa bản năng thần thoại. Như vậy chúng ta đã có thể trả lời câu hỏi óc suy luận hay bản năng thần thoại đã tạo ra ý niệm về Thượng Đế. Câu trả lời của chúng ta là: không phải riêng óc suy luận cũng không riêng bản năng thần thoại. Óc suy luận một mình nó sẽ tạo ra một Thượng Đế nguyên lý, ngược lại nguyên chỉ bản năng thần thoại sẽ vẽ vời ra những Thượng Đế mang đầy những đam mê nhu cầu và tham vọng của con người.
Vậy ý niệm về Thượng Đế không nằm trong óc suy luận và cũng không là sản phẩm của bản năng thần thoại. Tâm trí con người đã do cả hai khả năng đó để đi tới Thượng Đế. Nói là đi tới chứ không nói là phát sinh, bởi vì ý niệm về Thượng Đế không phải là sản phẩm của tâm trí ta, nhưng nó phát sinh khi ta bắt đầu có tương quan với siêu việt. Nói cách khác ý nghĩa về Thượng Đế là chính ý thức ta có về siêu việt.
3. Về ý niệm Thượng Đế duy nhất
Còn một vấn đề trực tiếp liên hệ đến vấn đề ý niệm về Thượng Đế, đó là vấn đề về ý niệm Thượng Đế duy nhất. Con người có ý thức về thần linh, nhưng tại đâu con người có ý thức về một Thượng Đế duy nhất? Thuyết độc thần xuất hiện thế nào? Đây là một điều thuộc khoa lịch sử các tôn giáo. Tuy nhiên người ta cũng đọc một sự kiện bằng hai ba cách khác nhau, vì thế có hai ba cách giải nghĩa sự kiện lịch sử.
Có hai học thuyết chính: Một thuyết cho là do tiến hóa mà con người đi tới độc thần, còn thuyết kia lại cho rằng do cách mạng.
– Thuyết chủ trương tiến hóa cho rằng: con người bắt đầu theo thuyết đa thần, rồi dần dần ý thức xã hội đã làm cho con người thống nhất chư thần thành một thế giới thần linh, có một vị chúa tể thần linh ngự trị, có lẽ tư tưởng thần thoại Hy lạp, đã do con đường này để đi tới một Zeus Chúa tể. Núi Olimpe và chúa tể chư thần.
– Thuyết thứ hai cho rằng ý niệm về độc thần đã xuất hiện thình lình như một cuộc cách mạng. Con người đã đột nhiên ý thức về chỗ phi lý của thuyết đa thần, cho nên đã chống lại thuyết này và khai mạc kỷ nguyên mới của thuyết độc thần.
Chúng ta phải nghĩ gì về hai giả thuyết này?
Phải công nhận rằng mỗi giả thuyết đều nói lên một phương diện của hiện thực. Thuyết tiến hóa đã nhắc lại quá trình tín ngưỡng của nhân loại, từ những quan niệm mơ hồ và đầy nhân ảnh, đến những quan niệm đích thực hơn của ngày nay; nhưng thuyết cách mạng cũng nói lên một sự thực quan trọng, ý thức về độc thân đã được đào sâu trong những tranh đấu với những cảnh tưởng đa thần. Một lịch sử dân Do Thái với những vị đại ngôn, luôn luôn chống lại khuynh hướng đa thần của quần chúng cũng đủ cho ta thấy vai trò của cách mạng. Tuy nhiên có những giả thuyết tiến hóa hay cách mạng đều chưa đi sâu vào nguồn ngọn vấn đề, cả hai giả thuyết đó chỉ mới nói đến hình thức phát sinh ra thuyết độc thần mà thôi, chưa nói gì đến ý hướng phát sinh ra ý thức độc thần đó.
Hai giả thuyết kia đều đã lấy thuyết đa thần làm sự kiện nguyên thủy, và coi thuyết độc thần là hình thức tân tiến về sau. Nhìn vào lịch sử những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại, người ta thấy ít là điều đó không khác lắm. Hơn nữa ba nền văn minh đã có và vẫn còn ảnh hưởng quyết định trên sinh hoạt tôn giáo của nhân loại. Hình như đã bắt đầu bằng thuyết độc thân rõ ràng, đó là ba nền văn minh Do Thái – Trung Hoa – Ấn Độ.
3.1. Về Do Thái chúng ta không cần mất nhiều thời gian tìm tòi. Truyền thống do Thái là một truyền thống độc thần ngay từ đầu và qua bao nhiêu thế hệ. Ý thức độc thần đó đã trải qua những cám dỗ rất nhiều và rất nặng nề để trung thành với Giavê.
3.2. Còn ở Trung Hoa thuyết độc thần hiện ra rõ ràng ở cả những truyền thống Khổng Minh và Lão Trang. Theo Khổng Mạnh chính ý Trời là bản tính vạn vật. Vạn vật đã được tác thành đúng như ý trời, mà trời đây có nghĩa là một vị Thiên Chúa. Lòng tin tưởng ngàn xưa của người Trung Hoa vào một Đấng Thiên Chủ, một Thượng Đế duy nhất và không có ngã vị. Lòng tin tưởng này được minh chứng và nói nhiều trong Kinh Thi và Kinh Sử, tức là quãng thế kỷ 11 đến thế kỷ 7 trước Tây lịch. Lòng tin tưởng này xem ra còn mãnh liệt ở thời Khổng Tử và Mạnh Tử, đến tác giả cuốn Đạo Đức Kinh thi thuyết độc thần muốn biến thành phiếm thần. Thượng Đế có ngôi vị nhường chỗ cho một Thượng Đế có nội tại trong vũ trụ. Như vậy thuyết độc thần hiện ra rõ rệt từ thời Thái cổ của dân Trung Hoa, và được truyền tụng nơi học thuyết Khổng Mạnh. Thuyết Lão Trang là thuyết đến sau và tuy có khuynh hướng phiếm thần, có lẽ nói huyền bí thì đúng hơn, nhưng nhất định không có khuynh hướng đa thần.
3.3. Nhìn vào lịch sử tư tưởng Ấn Độ, người ta thường có cảm giác kinh sợ vì những rối rít và những cảnh âm của nền triết học quá nặng chất huyền bí đó. Tuy nhiên một sự kiện hiện ra khá minh bạch. Thời Phệ Đà (Venus) là thời kỳ nguyên thủy đầy thân chủ và những lễ nghi dị đoan. Hơn nữa, đây là thời kỳ mà hình thức đa thần, có thể làm người ta lầm tưởng rằng chúng ta đang đứng trước một thuyết đa thần. Thực vậy ta thấy nào là thần Brahma, thần Savitar, thần Voruna… Nhưng khi đọc kỹ những trang trong kinh Phệ đà, người ta không thể không công nhận với những học giả như giáo sư Renou rằng: Thuyết Phệ đà đã là một thuyết nhất thần.
Nhất thần khác độc thần ở chỗ, con người coi nhiều vị thần khác nhau như những hình hài của cùng một vị thần tuyệt đối. Truyền thống nhất thần của Ấn Độ càng hiện ra rõ rệt ở tôn giáo họ ngày nay. Nhưng có lẽ cần chú ý rằng liền sau thời kỳ Phệ đà, tiếp đến thời kỳ của những kinh Upanishad, mà đề tài chính cũng như chủ trương của những kinh này là chỉ có một thực thể duy nhất là Balamon. Tất nhiên người ta sẽ vấn nạn rằng: học thuyết của các kinh Upanishad không phải là độc thần nhưng là độc nguyên (một nguyên nhân, một nguồn gốc). Chúng ta không chối cãi điều đó, hơn nữa chúng ta lấy đó làm đủ để khước từ hai giả thuyết tiến hóa và cách mạng trên kia, là hai thuyết cùng chủ trương rằng ý niệm độc thần đến sau ý niệm đa thần.
Nói sao thì nói thuyết nhất thần và thuyết độc nguyên, nhất định gắn liền với lập trường độc thần hơn là với chủ trương đa thần.
Sau cùng, đứng về phương diện phê bình mà xét, chúng ta cũng phải công nhận rằng ý niệm đơn thần đã xuất hiện ngay từ đầu, hoặc xuất hiện minh bạch như nơi văn minh Do Thái, hoặc tiềm tàng nơi bất cứ văn minh nào khác. Nếu con người không có ít là một ý thức lờ mờ về một chúa tể tối cao toàn quyền tuyệt đối trên hết mọi loài thụ tạo, thì làm sao con người lại có thể hoặc do đường lối tiến hóa, hoặc do đường lối cách mạng để có ý niệm đó được. Chúng ta có thể nhận định ngay rằng: không một đòi hỏi nào mà không có một ý thức ít là lờ mờ về cái mà chúng ta đòi hỏi. Thí dụ: một người thợ chưa ý thức về quyền lợi của họ, và chưa ý thức về nhu cầu chính đáng, họ có đề nghị những đòi hỏi, thì không thể có những đòi hỏi và yêu sách.
Cũng một lẽ, khi con người cảm thấy bất mãn về những hình thức đa thần, thì chính là vì họ đã ý thức về sự cao quí và hợp lý của thuyết độc thần, ấy là nói theo giả thuyết tiến hóa và giả thuyết cách mạng, thành thử hai giả thuyết đó không những không giải nghĩa được sự kiện độc thần, mà còn phải giả thuyết có ý thức độc thần trước thì mới hiểu được sự kiện tiến hóa, hoặc sự kiện cách mạng, cho nên cũng như trường hợp ý niệm về thần minh trên kia.
Ở đây chúng ta cũng phải công nhận rằng: không thể lấy những lịch sử để giải nghĩa sinh hoạt tinh thần con người. Vì lịch sử không làm nên tinh thần đó, nhưng chính sinh hoạt đó làm cho lịch sử có khuôn mặt như thế. Sở dĩ người ta đã nghĩ như thuyết tiến hóa và thuyết cách mạng, là vì người ta đã bị tiêm nhiễm những thiên kiến của khoa tâm lý học cổ truyền, cho rằng ý niệm về Thượng Đế là một thành quả của những biến cố tâm linh, phản ảnh đúng những biến cố ngoài vũ trụ.
Husserl đã chứng minh sự vô lý của thiên kiến về vũ trụ khách thể đó. Tâm lý học ngày nay vạch cho thấy ý nghĩ không có sẵn nơi vạn vật như những bản tính nội tại, chỉ có ý nghĩa cho những ý thức mà thôi. Khi bỏ được thiên kiến về vũ trụ tuyệt đối khách thể rồi. Chúng ta thấy vấn đề nguồn gốc ý niệm về Thượng Đế được giải nghĩa một cách rõ ràng và ổn thỏa.
_Phương Nam_
2023
THẮC MẮC VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA
THẮC MẮC VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA
Nhìn lại những thập niên gần đây, khi mức độ thiên tai, bạo lực và tội ác gia tăng, cuộc sống con người ngày càng trở nên mong manh và thường xuyên đối diện với nhiều hiểm họa. Trong bối cảnh đó, người kitô hữu không thể không thắc mắc tại sao nhân loại hôm nay phải gánh chịu bao tội ác và khổ đau. Ra như thế giới này đang đi vào giai đoạn hư hoại nặng nề, và Đấng sáng tạo chẳng hề ngó ngàng đến công trình của Người. Chẳng lẽ trần gian hôm nay vắng bóng Thiên Chúa? Nếu Người vẫn hiện diện, chẳng lẽ Người lại bó tay trước những thảm họa? Một Đấng sáng tạo như vậy có phải là vị Thiên Chúa mà người Công giáo vẫn hằng tôn thờ hay không?
Thực ra, những thắc mắc này không có gì mới mẻ đối với nhân loại. Đứng trước vấn đề sự ác và đau khổ, con người vẫn bị thách thức chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, hoặc coi Người chẳng can hệ gì đến cuộc sống con người. Trong phạm vi bài này, chúng tôi toát lược lại những quan điểm ủng hộ và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chúng tôi cũng đề cập đến vấn đề sự ác trong tương quan với ý chí tự do và tình yêu chân thực.
I. Những quan điểm về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
1. Quan niệm tôn giáo
Niềm tin tôn giáo bao giờ cũng hàm ngụ một tương quan giữa thế giới tự nhiên với siêu nhiên. Chúng tôi xin tạm diễn giải như sau:
- Lập trường tự nhiên cho rằng ngoài thế giới tự nhiên ra, không còn điều gì khác nữa. Thế giới mà ta có thể ngắm nhìn và động chạm rồi khảo sát một cách khoa học là toàn bộ thực tại.
- Lập trường siêu nhiên nhận rằng ngoài thế giới tự nhiên, vẫn tồn tại một điều gì đó – thế giới “bên kia” mà thế giới của ta hiện nay đang bị lệ thuộc về sự hiện hữu và ý nghĩa tối hậu.
Người có niềm tin tôn giáo luôn tin rằng điều thiện tối thượng con người có được hệ tại mối tương quan với thế giới “bên kia”. Những người hữu thần tin rằng thế giới “bên kia” chính là vương quốc của Thiên Chúa. Trong thế giới này, mọi người đều có thể diện kiến Thiên Chúa cách nhãn tiền.
Trái lại, trong thế giới của chúng ta, Thiên Chúa hầu như hoàn toàn ẩn tàng. Không phải tất cả mọi người đều hiển nhiên thừa nhận là có Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà thần học hữu thần đều nhất quyết cho rằng sự thiện tối thượng con người có được hệ tại mối tương quan niềm tin, tình mến và lòng sùng mộ với vị Thiên Chúa thật bí nhiệm này.
Như vậy, vị Thiên Chúa đó là ai? Và tại sao chúng ta lại phải tôn thờ Người? Thế đấy, Thiên Chúa được mệnh danh là “Hữu thể tối thượng”… Nhưng như vậy nghĩa là gì? Điều gì làm cho Thiên Chúa quyền năng như thế? Vì những đặc tính nào mà Người được kể là đấng Tối cao.
2. Lập trường hữu thần cổ điển
Dựa theo lập trường này, chúng tôi xin gợi lại những điểm người có niềm tin tôn giáo vẫn thường gán cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa là:
- Đấng sáng tạo vũ trụ
- Đấng trường tồn, toàn năng, toàn trí và toàn thiện
- Hiện diện khắp nơi
- Đấng thánh, tức là hoàn toàn siêu việt, mầu nhiệm.
- Ngôi vị, tức là Đấng mà ai cũng cảm thấy có thể đối thoại và khẩn cầu, nhưng lại vô chất, tức là Thần khí.
- Đấng trọn lành, công chính, yêu mến, cảm thương và trắc ẩn.
Chúng ta có thể tổng hợp những ý tưởng truyền thống về Thiên Chúa bằng cách dùng lý lẽ của thánh Anselmo, “Đấng hiện hữu như một cái gì mà không một cái gì cao cả hơn có thể quan niệm được” , tức hữu thể vĩ đại nhất.
II. Nghi vấn về sự hiện hữu của Thiên Chúa
Việc thắc mắc về sự hiện hữu của Thiên Chúa có ý nghĩa gì? Ít nhất chúng ta có thể diễn giải thắc mắc này theo hai cách.
Cách 1 : Liệu có một hữu thể nào đó có được tất cả các đặc tính nêu trên không? Điều đáng ngại là trong số những người tin có Thiên Chúa, thì lại có một số không tin là Thiên Chúa có đủ các phẩm tính nêu trên. Chẳng hạn, Harold Kushner viết một tác phẩm nhan đề, “Khi điều xấu xảy ra với người tốt”. Trong tác phẩm này ông lập luận rằng cách tốt nhất để giải quyết vấn đề sự dữ là thừa nhận Thiên Chúa không toàn năng! Dù bạn có đồng ý hay bất ưng với Kushner, thì bạn vẫn không thể nào quy kết rằng vị này là một gã vô thần. Một hướng dẫn khác để tiếp cận vấn đề này là không điều gì có thể được coi là Thiên Chúa nếu không thỏa mãn những phẩm tính trên. Vậy thì nghi vấn về sự hiện hữu của Thiên Chúa cũng có nghĩa là nghi vấn về việc liệu có thể có một thứ gì đó có được tất cả các phẩm tính nêu trên không?
Cách 2 : Cách diễn giải thứ hai về nghi vấn sự hiện hữu của Thiên Chúa là xem xét bản tính chân thực của Thiên Chúa một cách hoàn toàn cởi mở. Ngay cả khi chúng ta không biết đích xác làm thế nào để cảm nhận Thiên Chúa, chúng ta vẫn có thể hỏi “Liệu có một thực tại nào đó vẫn ẩn tàng sau các thực tại tôn giáo không?” Hoặc, phải chăng thực tại đó chỉ là phát minh của nhân loại? Thiên Chúa dù có là thực tại nào đi nữa, vẫn phải chịu trách nhiệm về sự kiện chúng ta là những hữu thể tôn giáo. Chúng ta có thể cảm nghiệm chắc chắn rằng một thực tại đích thật nào đó vẫn nắm giữ vai trò này, mà vẫn không cần phải rậm lời bàn bạc xem thực tại đó đích thị là gì.
Dù hiểu được như vậy, nhưng vẫn thấy khó mà tìm ra một lập luận triết học nào đó để giải đáp thắc mắc về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
1. Những lập luận cổ điển về sự hiện hữu của Thiên Chúa
Những lập luận triết học quan trọng nhất về sự hiện hữu của Thiên Chúa dựa trên một hay nhiều phẩm tính của Thiên Chúa.
- a. Lập luận hướng đích: xuất phát từ trật tự chúng ta cảm nhận được trong thế giới, lập luận này quy về một Đấng sáng tạo hoặc Nhà thiết kế thượng trí.
- b. Lập luận vũ trụ học: xuất phát từ sự hiện hữu của vũ trụ, lập luận này dò tìm về nguyên nhân đầu tiên.
- c. Lập luận hữu thể học: xuất phát từ ý tưởng về hữu thể hoàn hảo, lập luận này dẫn tới sự hiện hữu của hữu thể hoàn hảo này.
2. Những lập luận ủng hộ sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Trong khi thần học coi sự hiện hữu của Thiên Chúa là hoàn toàn tất yếu dựa trên nền tảng thế giá, đức tin hoặc mặc khải, thì nhiều triết gia và một số thần học gia vẫn mong là có thể đưa ra những lý chứng chắc chắn về sự hiện hữu của Người.
Thánh Tôma Aquinô sinh thời vào thế kỷ XIII đã đề xuất ngũ đạo, ngõ hầu có thể dùng triết học chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chúng tôi xin tóm lược như sau:
a. Lập luận về biến căn bất động: Chúng ta biết rằng thế giới này là một sự chuyển động liên tục; bất cứ sự vật nào chuyển động được cũng đều cần phải được tác động từ một vật khác; vật khác này cũng bị tác động bởi một vật khác nữa. Và tình trạng tương tác chuyển động này không để kéo dài đến vô hạn được, vì như thế sẽ không có vật làm chuyển động ban đầu, thì cũng không có những chuyển động kế tiếp. Như thế phải thừa nhận có “biến căn đệ nhất”, tức Thiên Chúa.
b. Lập luận về nguyên nhân tác thành: Không vật nào lại có thể là nguyên nhân tác thành cho chính mình được. Chẳng hạn, cái bàn có được là nhờ người thợ mộc; người thợ mộc chào đời là nhờ song thân. Lại nữa, những nguyên nhân tác thành không thể kéo dài tới vô hạn được, vì như thế sẽ không có nguyên nhân tác thành thứ nhất, thì cũng không có hiệu quả cuối cùng. Như thế cần phải có “nguyên nhân tác thành tiên khởi”, đó chính là Thiên Chúa.
c. Lập luận vũ trụ học: Tất cả các vật thể vật lý, dù là đồi núi, đất đá hay sông ngòi, cũng đều chỉ là đang thành hình, hiện hữu rồi tan biến, dù chúng tồn tại lâu đời hay vắn vỏi. Mặt khác, vì mọi vật đều có thể không hiện hữu, nên chắc chắn phải có một thời điểm mà không vật nào tồn tại. Vì hư vô không thể là nguyên nhân cho thứ gì, và nếu không vật nào hiện hữu ở một thời điểm xác định nào đó thì làm sao lúc này lại có vạn sự? Thế nên, luôn luôn phải có ít nhất một vật tất yếu vĩnh hằng, tức Thiên Chúa.
d. Lập luận về mức độ hoàn thiện khác nhau của các vật thể trong vũ trụ: Việc so sánh mức độ hơn kém về hoàn thiện của vạn sự chỉ có ý nghĩa trong khi ngấm ngầm thừa nhận một sự thiện tối thượng, tức là Thiên Chúa.
e. Lập luận hướng đích: Mọi vật trong vũ trụ đều di chuyển về một đích nào đó. Mũi tên không thể nào trúng đích nếu người giương cung không định hướng bắn. Bởi vậy, cần phải có một nhà thiết kế thông tuệ điều hướng vạn sự di chuyển đến đích của chúng. Nhà thiết kế đó chính là Thiên Chúa.
Còn có thêm 2 lập luận nữa có tầm quan trọng trong lịch sử đó là lập luận hữu thể học và lập luận luân lý học. Lập luận thứ nhất dựa vào lời lẽ của thánh Anselmo sinh thời thế kỷ XI, và cũng được lý luận của Descartes ủng hộ, đó là, sẽ có mâu thuẫn về mặt luận lý nếu chối bỏ sự hiện hữu của Thượng đế. Thánh Anselmô đã bắt đầu bằng định nghĩa: “Thiên Chúa hiện hữu như một cái gì mà không một cái gì cao cả hơn có thể quan niệm được”. Thật vậy, nếu Thiên Chúa chỉ tồn tại trong trí tuệ, thì Người chưa hẳn là hữu thể vĩ đại nhất mà ta có thể quan niệm được, bởi chúng ta vẫn có thể nghĩ tới một hữu thể khác cao cả hơn, xét vì nó tồn tại trong cả trí tuệ lẫn thực tại, và thực tại này mới là Thiên Chúa. Thế nên, nếu nghĩ Thiên Chúa chỉ tồn tại trong lý trí, mà không có trong thực tại thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn về mặt luận lý. Như vậy, điều này chứng tỏ Thiên Chúa vừa hiện hữu trong lý trí, vừa hiện hữu trong thực tại.
Dựa trên lý thuyết của mình, E. Kant chối bỏ cả lập luận hữu thể học lẫn lập luận hướng đích, ông cho rằng lý trí quá giới hạn đến nỗi không thể thấu triệt được điều gì vượt ra ngoài kinh nghiệm con người. Tuy nhiên, ông vẫn lập luận tôn giáo sở dĩ được thiết lập như một sự giả định là vì những hoạt động luân lý trong tâm trí con người (lý trí thực hành). Sự hiện hữu của Thiên Chúa là một giả định tất yếu để có được những phán đoán luân lý khách quan mà chúng vượt ra ngoài những khuynh chiều luân lý tương đối; những phán đoán như thế đòi phải có những tiêu chuẩn nằm ngoài trí năng nhân loại, nghĩa là, những tiêu chuẩn đó thừa nhận lý trí của Thiên Chúa (x. Samuel Enoch Stumpf, Philosophy history and Problems, Kant: Proofs of God’s Existence, 1994)
3. Lập luận chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa
Lập luận chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa hình thành là do các triết gia, các nhà vô thần, và phái bất khả trị. Một số lập luận này cho thấy sự hiện hữu của Thiên Chúa không tương hợp với những sự kiện thực tế. Số khác cho rằng Thiên Chúa không tồn tại bởi những quan niệm về Người không mạch lạc và rất mơ hồ. Số khác khẳng khái phê bình những lập luận khẳng định có Thiên Chúa.
Về chuyện phủ nhận Thiên Chúa, một trong những lập luận gây ấn tượng mạnh nhất đó là vấn đề sự ác. Lập luận này cho rằng ba câu phát biểu sau đây không thể đồng thời đúng được: (a) Sự ác tồn tại; (b) Thiên Chúa toàn năng; (c) Thiên Chúa toàn ái. Lập luận được nêu lên như sau:
- Nếu Thiên Chúa có thể cản sự ác nhưng không làm, thì Người không toàn ái.
- Nếu Thiên Chúa muốn cản sự ác nhưng không làm được, thì Người không toàn năng.
- Nếu Thiên Chúa vừa muốn cản sự ác, vừa có khả năng làm như thế, vậy tại sao lại có sự ác?
Lập luận khác lại cho rằng sự tồn tại một Thiên Chúa toàn trí không tương hợp với sự kiện ý chí tự do – tức con người có quyền chọn lựa. Nếu Thiên Chúa toàn trí, hẳn Người phải biết trước những gì con người sắp làm trong một hoàn cảnh xác định. Ở trường hợp này, người ta thực sự không còn tự do để lựa chọn những gì khi mà Thiên Chúa đã biết đương sự sẽ chọn; như vậy ý chí tự do chỉ là chuyện ảo tưởng. Mở rộng vấn đề này, nếu một ai đó phạm tội chẳng lẽ lại nói người ấy tự do phạm tội? Hà cớ gì mà buộc họ phải chịu trách nhiệm?
Hume đã đưa ra những lời phê bình sâu sắc về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chống lại lập luận vũ trụ học (lập luận thứ 3 của thánh Tôma Aquinô), ông cho rằng ý tưởng tồn tại một hữu thể tất yếu là chuyện vớ vẩn. Hume phát biểu: “Những gì chúng ta có thể quan niệm như là hiện hữu, thì cũng có thể quan niệm như không hiện hữu vậy. Ông cũng thắc mắc là tại sao nguồn gốc cùng đích của vũ trụ lại không là chính toàn thể vũ trụ trường tồn và vô thủy mà cứ nhất mực đòi phải là Thiên Chúa?”
Hume cũng phê bình lập luận hướng đích (lập luận thứ năm trong ngũ đạo của thánh Tôma). Đặc biệt, ông nhấn mạnh là chẳng hề có một nẻo đường hợp lý để chúng ta có thể lấy đó mà quy về các phẩm tính của Thiên Chúa, là Đấng ‘tạo dựng thế giới do bản chất sáng tạo của Người. Chẳng hạn, Hume đặt vấn đề là làm sao chúng ta lại không dám quyết rằng biết đâu vũ trụ lại được tạo dựng bởi một tập thể chứ không phải cá nhân, hoặc có khi vũ trụ là kết quả của một trong nhiều cuộc thử nghiệm sáng tạo và ngay từ đầu đã có một ít vật bị hư hoại; hoặc có thể vũ trụ ban đầu thành hình là do cuộc tranh tài đuối sức của một vị thần trẻ con, rồi vị ấy đã nông nổi bỏ rơi nó vì hình dạng khuyết tật.
4. Qua sông phải lụy đò
Ai trong chúng ta cũng đều có quyền chọn lựa. Chúng ta có thể nhìn vào bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa và tin rằng Người hiện diện. Hoặc chúng ta có thể phi bác những bằng chứng để khẳng định không có Thiên Chúa; cách nào thì cách, chúng ta đều phải vượt qua nẻo đường đức tin, bởi không lập luận nào có thể xác minh rạch ròi nơi phòng thí nghiệm! Thế nên muốn qua sông ắt phải lụy đò. Câu hỏi chủ chốt ở đây là: giữa một bên là vấn đề thật thiết yếu cho sự sống còn của chúng ta và một bên là thắc mắc đòi phải có câu trả lời, thành thực mà nói, chúng ta phải sẽ chọn bên nào? Một lần nữa, chúng ta hãy khảo sát những chọn lựa có thể là “đò ngang” đưa chúng ta “qua sông”.
Chiếc đồng hồ đeo tay hay bộ từ điển điện tử là dấu mở cho ta nghĩ về nhà sản xuất tài ba đã sáng chế ra những sản phẩm tinh vi này. Tương tự, vũ trụ này cũng ngầm phản ánh một nhà thiết kế thông sáng khôn lường. Lương tâm con người tồn tại như một tiếng nội tâm cho phép con người tin vào Thiên Chúa, tuân theo phán quyết xác thực nhất và bản năng cao nhất của mình. Vốn là lời mặc khải của Thiên Chúa. Kinh Thánh đã đưa ra bằng chứng Thiên Chúa hiện diện trong công trình sáng tạo và lương tâm con người. Thêm vào đó, đức Kitô là bằng chứng sau cùng về Thiên Chúa và Người cũng được nhìn nhận là đấng sáng tạo (Ga 1, 3), là nguồn mạch của sự thông sáng (Ga 1, 9) và là trung tâm điểm của Kinh Thánh (Ga 5, 39).
Với các nguồn tài nguyên, tính phức hợp và một trật tự ăn khớp nhịp nhàng, vũ trụ này vẫn có đó mà không cần nguồn gốc, nguyên nhân hoặc ý định sáng tạo của một đấng nào cả. Mọi sự chỉ là tình cờ. Các định luật điều phối vũ trụ vẫn hoạt động nhịp nhàng mà không cần sự định hướng hoặc dẫn dắt nào cả. Những bước nhảy vọt vĩ đại và lạ lùng đều là do quá trình tiến hóa, chẳng hạn, đồ vật biến thành thảo mộc, thảo mộc biến thành động vật. Dù không có hướng dẫn, những hữu thể này tự hình thành nên một và các cơ quan cảm giác. Chính sự ngẫu nhiên hình thành nên một tổng hợp độc đáo và phong phú cho hành tinh này. Nhờ vậy mà ta mới khả dĩ hiện hữu trên “ốc đảo” của cuộc bể dâu, giữa hoang mạc vũ trụ bao la này. Con người không có linh hồn. Hiện hữu của nó chấm dứt khi nhắm mắt xuôi tay, chẳng hơn gì loài cầm thú. Bất kỳ luân lý nào con người cặm cụi dè giữ cũng đều do mình bày ra và bắt nguồn từ xã hội. Bởi vậy, thật trơ trẽn khi cho rằng phán đoán của mình về người khác có giá trị.
Kinh Thánh tuy được viết ra do khoảng 40 tác giả khác nhau, sinh trưởng trong quãng thời gian 1500 năm, ghi lại những sự kiện rời rạc và độc lập, những câu chuyện kỳ bí, vậy mà lại diễn tả một sự trùng hợp và thống nhất đến mức thật khó tin. Không có một kế hoạch thống nhất cho lịch sử nhân loại. Sự hiện hữu của ta chỉ là tình cờ, việc ta làm ở đời cũng chỉ là phù du chóng vánh, tương quan giữa tha nhân với ta không hề có ý nghĩa cùng đích. Tương tự như mọi sinh vật khác, chúng ta không có lý do tồn tại, có chăng chỉ là sống sót dật dờ. Và nếu sự thực đúng là vậy, đức Kitô hẳn đã không nói về chân lý rằng Người là Con Thiên Chúa đến từ trời để cứu ta khỏi chết đời đời và đưa ta về với Thiên Chúa.
Trong hai chọn lựa trên, bạn sẽ ngả theo lập trường nào để quyết định cho vận mệnh đời mình? Bạn sẽ chọn “đò” nào để “qua sông”?
III. Thần luận và Thuyết tiến hóa
1. Vấn đề sự ác và đau khổ
Nhiều Kitô hữu thắc mắc về vai trò của tiến hóa sinh học sẽ cung cấp cho các tín đồ của các tôn giáo khác một nẻo đường hợp lý, để hóa giải ý tưởng về một đấng Sáng tạo là nguồn gốc của sự sống. Vả lại, việc xây dựng thuyết tiến hóa như vậy có nguy cơ giải trừ quan-điểm-về-một-thế-giới-có trật-tự. Một khi chống lại quan điểm này, ta có thể chân thành đặt câu hỏi “Tại sao Thiên Chúa lại cho xuất hiện thuyết tiến hóa? Thử hỏi vấn đề hiện hữu của Thiên Chúa có đơn giản, sáng tỏ, hợp lý và dễ thuyết phục hơn không, nếu Thiên Chúa – Đấng sáng tạo loại bỏ thuyết tiến hóa sinh học, và không cho phép thuyết đó như một khả thể trong công trình sáng tạo?” Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm sống, tức khắc chúng ta cũng có thể đặt ra một câu hỏi tương tự, thậm chí còn nan giải hơn nhiều, đó là “Tại sao Thiên Chúa lại để con người đau khổ? Tại sao Thiên Chúa lại để cho tội ác xâm nhập vào tạo vật?
Câu hỏi này thuộc phạm vi “thần luận”. Thử hỏi tại sao Thiên Chúa thánh thiện, công minh, chính trực và toàn năng lại cho phép tội ác và khổ đau hoành hành trong vũ trụ mà Người đã sáng tạo và hết lòng bảo tồn? Các thần học gia đã chạm trán với vấn đề nan giải này trong nhiều năm qua.
Chúng ta vẫn thấy không dễ tán thành quan điểm của những người vô thần không chấp nhận Thiên Chúa có thể tồn tại bên ngoài những giới hạn trí năng của họ, trừ phi họ toàn trí. Bởi vậy, lập trường vô thần của họ không thể đứng vững về mặt luân lý. Điều đáng ngại hơn là những người tuy đã thấu hiểu rạch ròi về vấn đề Thượng đế, nhưng vẫn chọn lập trường vô thần bởi họ không thể hiểu được một Thiên Chúa hoàn toàn thánh thiện, yêu mến mà lại cho xuất hiện tội ác và khổ đau. Chúng ta không thể làm ngơ trước những bận tâm chính đáng của họ.
Các nhà thần học đều nhìn nhận vấn đề do các nhà thần luận đặt ra thật nan giải. Giải pháp thần học cũng phải dựa trên những thành tố sau đây. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ với một mục đích nào đó. Từ Kinh Thánh, ta kết luận rằng Thiên Chúa đặt ta vào vũ trụ này, được tạo dựng theo giống hình ảnh Người, và vì thế có những phẩm cách giống như Người, bao gồm lý trí và ý chí. Thiên Chúa chẳng những cho ta cơ hội nhận biết sự hiện hữu, tính tối thượng, và tất yếu của Người mà còn cho ta thấy nẻo đường chuộc tội và hòa giải của Người. Đặc biệt, Thiên Chúa không áp đặt ý chí của Người trên chúng ta, vấn đề ở chỗ là Người không hủy diệt sự chọn lựa tự do của ta.
Có lẽ vì thế mà chúng ta thấy mình không đủ khả năng để đưa ra một chứng cứ chắc chắn về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Biết đâu, với chứng cứ như thế, chúng ta có nguy cơ buộc mọi người phải tin vào Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta chỉ tìm được những chứng cứ loại suy, còn lý chứng “hiển minh” về sự hiện hữu của Thiên Chúa thì không bao giờ có được! Bên cạnh đó, ta vẫn có thể tìm ra đủ những chứng cứ quy nạp về sự hiện hữu của Thiên Chúa và nhìn nhận Người tồn tại, rằng Người thật xứng đáng để phụng thờ, rằng chúng ta đang cần hòa giải với Người và mong Người phục hồi cuộc sống rạn vỡ của chúng ta.
Điểm then chốt là khi Thiên Chúa mặc khải chính mình, Người không buộc chúng ta tin vào Người. Người không hề có ý biến chúng ta thành những cỗ máy. Sự thực là Thiên Chúa đã cho phép con người có thể chọn lựa không tin vào Người, đây là mấu chốt dẫn đến tội ác, đau khổ và xa lìa Thiên Chúa. Một khi đã chọn lựa không tin vào Người, chúng ta cũng không thể đón nhận biến cố nhập thể và cuộc thương khó của Đức Kitô, nhờ Người mà ta được hòa giải với Thiên Chúa. Quả thực, Thiên Chúa đã phải trả một giá quá đắt để duy trì khả thể chọn lựa vô hạn của mỗi chúng ta!
Một khi Thiên Chúa đã nghiêm túc đưa ra vấn đề này, chúng ta cũng cần tìm hiểu lý do tại sao. Câu trả lời nằm ở chỗ là Thiên Chúa đã cho ta cơ hội để yêu thương chân thực, là cửa ngõ dẫn đến tình yêu huyền diệu, và là khả thể của lòng tôn thờ chân chính. Nếu không có chọn lựa, chẳng thể nào có tình yêu chân thực theo nghĩa tròn đầy nhất. Thật thế, người ta chỉ có thể vươn tới chân tính cao cả nhất của tình yêu khi được lựa chọn tự do.
2. Chọn lựa tự do và Tình yêu chân thực
Tình yêu Thiên Chúa vượt quá xa kinh nghiệm của con người đến mức để có thể hiểu được tình yêu ấy, ít là một cách lờ mờ, chúng ta cần phải hiểu tình yêu nhân loại ở mức tối đa, rồi áp dụng phương pháp loại suy. Thật vậy, tình yêu Thiên Chúa được phản ánh bởi tình yêu nhân loại qua một số hình ảnh trong Kinh Thánh, chẳng hạn như tình yêu phu phụ. Tình yêu bắt nguồn từ một phía, nhưng cần phải được đáp trả từ phía còn lại. Có như vậy, tình yêu chân thực mới đạt tới mức viên mãn, và người ta dám phó mình cho nhau. Tình yêu được đặt nền trên sự tương kính và tâm đầu ý hợp. Vì tự do là nền tảng của tình yêu, nên mỗi bên đều có quyền tự chọn. Cựu Ước cho ta nhiều ví dụ về những nét đẹp của tình yêu có chọn lựa tự do và những tấn bi kịch hòng đạt đến tình yêu bằng sức mạnh.
Kết quả sẽ ra sao nếu Thiên Chúa khiến ta chỉ vâng ý Người mà thôi? Nếu không thể ganh ghét, liệu chúng ta có được lòng yêu thương chân thực không? Thật vậy, sự chọn lựa hoàn toàn tự do là điều kiện tiên quyết dẫn đến tình yêu chân thực. Thiên Chúa quyết trao tặng chúng ta tình yêu mến Người. Thiên Chúa không buộc ta quay về với tình yêu của Người, vì khi làm như vậy, Người hủy diệt tình yêu chân thực. Khởi đi từ ý chí tự do của chính Thiên Chúa, người chịu chết để giải phóng ta khỏi tội lỗi và tái lập cho ta ơn làm nghĩa tử.
Rốt cuộc Thiên Chúa đã phải trả giá quá đắt để duy trì sự chọn lựa tự do của chúng ta, nhờ vậy, tình yêu chân thực mới khả dĩ tồn tại. Điều này bao hàm việc tự mặc khải chính mình theo cách mà Người đã chọn. Người đã cho chúng ta thấy những bằng chứng thật đầy đủ, thậm chí rất phong phú, về sự hiện hữu của Người, nhưng vẫn để cho ta có quyền “chối từ” Người. Một khi đã từ chối Người, chúng ta có nguy cơ đánh mất tình yêu chân thực. Nếu nhờ khoa học mà ta có thể đưa ra bằng chứng rạch ròi về Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ đánh mất sự chọn lựa tin hay không tin vào Thiên Chúa, và như vậy chúng ta cũng sẽ gián tiếp phủ nhận mục đích nền tảng của công trình sáng tạo.
3. Giới hạn của khoa học
Trong khuôn khổ của mình, phương pháp khoa học tỏ ra rất hiệu nghiệm. Tuy nhiên, những kết luận khoa học về mỗi giả thuyết, dù có được kiểm nghiệm nhiều lần ở nhiều thời điểm và không gian khác nhau, vẫn chỉ giới hạn các định luật khoa học vào những lãnh vực rất nghiêm ngặt. Cho nên không thể áp dụng định luật đó vào trong mọi hoàn cảnh được, nếu không muốn nói là không thể, khi giải quyết những biến cố đơn nhất. Về mặt khoa học, các khoa học gia sở dĩ rút ra kết luận được là nhờ thận trọng áp dụng những kiến thức đã thủ đắc vào trong từng sự kiện cụ thể. Tuy nhiên, đây không phải là một kết luận có thể đem áp dụng phổ quát, và không thể cả tin vào những giả thuyết đạt được từ phương pháp này.
Nhờ giáo huấn của Kinh Thánh soi dẫn, ta biết Thiên Chúa như là Đấng sáng tạo và bảo tồn. Một khi kitô hữu thừa nhận các định luật khoa học và các quy tắc đến từ Thiên Chúa, thì cũng nhận thấy Thiên Chúa hoàn toàn tuân theo các định luật này. Nếu Thiên Chúa có ý định phá vỡ một quy tắc nào để tạo ra một biến cố độc đáo, thì cũng cần phải hiểu chính xác rằng biến cố đó vượt ra ngoài khuôn thước của phương pháp khoa học. Trên phương diện thực nghiệm, biến cố đó không thể được kiểm chứng ở những thời điểm và không gian khác với nơi đã xảy ra. Chính xác mà nói, chúng ta phải gọi đó là “phép lạ” theo nghĩa hẹp của hạn từ.
Bởi vì mục đích của khoa học cũng chỉ là để giải thích và hiểu được phần nào vũ trụ vật lý và sinh vật ở mức tối đa trong giới hạn của nó, nên dù người ta có đầu tư cho khoa học bao nhiêu đi nữa để mong có thể đưa ra những lời giải thích về mọi biến cố, nhưng những lời giải thích ấy chỉ khả thi đối với các biến cố thuộc lĩnh vực khoa học mà thôi.
Chúng ta có thể hiểu được hành động của Thiên Chúa là sự can thiệp vào các định luật vũ trụ trong trường hợp Người muốn tạo ra những biến cố độc đáo. Tuy nhiên, nếu chỉ nại vào phương pháp khoa học, khoa học gia vẫn có thể đưa ra những lời giải thích nhưng không thể nói gì về Thiên Chúa được. Dưới cái nhìn của nhà khoa học, dù cảm nhận vũ trụ này thật đẹp và đa phức, chúng ta vẫn thấy kinh ngạc trước những cấu trúc “kỳ diệu” Thiên Chúa đã thực hiện. Không hề có phép lạ xảy ra trong lãnh vực khoa học và cũng đừng tưởng có thể dùng phương pháp khoa học để kiểm chứng phép lạ.
Có những Kitô hữu vẫn đòi bằng chứng khoa học về Thiên Chúa và những chứng cứ rạch ròi về sự hiện hữu của Người. Thực tế, các khoa học gia chỉ tìm ra những lý chứng quy nạp, còn chứng cứ rạch ròi về sự hiện hữu của Thiên Chúa nằm ngoài tầm tay của khoa học gia. Nếu tìm ra những chứng cứ như vậy, thì loài người lại bị ép buộc phải chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và tin vào Người.
Điều này đưa ra một mâu thuẫn không thể chấp nhận được so với những gì các nhà thần học tìm thấy trong lập luận về ý chí tự do và vai trò của sự ác trong một vũ trụ được ban tặng tự do chân thực. Thiên Chúa đã đồng hành với lịch sử nhân loại, chấp nhận cuộc Vượt qua với một giá quá đắt để bảo đảm sự tự do cho ta, có thể mới nảy sinh tình yêu chân thực. Bởi vậy, thật là sai lầm khi nỗ lực đòi khoa học phải cho chúng ta một chứng cứ rạch ròi về Thiên Chúa. Điều này vô lý vì nó mâu thuẫn với chức năng và giới hạn của phương pháp khoa học. Nhưng trong sự thông sáng khôn lường. Thiên Chúa đã dự liệu một kế hoạch cho vũ trụ thoát khỏi tình trạng mâu thuẫn đó.
4. Thuyết tiến hóa nằm trong mục đích sáng tạo
Để đưa ra một ví dụ cụ thể hơn, kitô hữu nào đã từng cống hiến thời gian và sức lực chỉ để phi bác “thuyết tiến hóa” cần tự hỏi xem có cần thiết phải làm như vậy không. Những lý giải biện minh cho sự hiện hữu của thần thánh vượt ra ngoài khả năng của các phương pháp khoa học. Các khoa học gia chỉ đưa ra những giả thuyết khả dĩ trong khuôn khổ các định luật khoa học mà thôi. Trong phạm vi tri thức, phương pháp khoa học nào không bao hàm khả thể tìm kiếm Thiên Chúa thì chỉ nên hoạt động trong khuôn khổ địa hạt của mình mà thôi, để khỏi bị kết án là không tìm kiếm Thiên Chúa. Nếu khoa học có khả năng chứng thực tính tất yếu của Thiên Chúa, thì sẽ triệt tiêu mục đích sáng tạo của Thiên Chúa là trao tặng ý chí tự do cho con người. Như vậy, nhờ thần luận, chúng ta mới biết được tại sao Thiên Chúa không cho ta một phương pháp “khoa học” nào để minh giải về sự hiện hữu của Người.
Tại sao Thiên Chúa lại cho xuất hiện quan điểm tiến hóa? Xoay quanh mục đích công trình sáng tạo. Thiên Chúa chấp nhận khả thể tội lỗi và khổ đau để kiến tạo một tình yêu chân thực. Xét như là hệ quả của việc chọn lựa này, chính Thiên Chúa đã mang lấy khổ đau của toàn thể nhân loại! Cũng thế, khi cho phép tự do và tình yêu chân thực hiện hữu. Thiên Chúa cũng cho phép một hệ thống là thuyết tiến hóa xuất hiện, không bị bó buộc phải công nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng như cần thiết để bảo tồn cùng một mục đích của công trình sáng tạo là chọn lựa tự do và tình yêu chân thực!
IV. Kết luận
Có chúng ta chẳng bao giờ chấp nhận được sự ác và khổ đau với tất cả những bóng hình dị hợm của nó, nếu chúng ta đòi tách nó ra khỏi mục đích ban đầu công trình sáng tạo, nghĩa là tách sự ác ra khỏi khả thể chọn lựa tự do và tình yêu chân thực. Tệ hơn nữa, nếu cố gắng dùng lý lẽ để vạch ra mặt xem kẻ nào là tác giả của sự ác để đấu tố và xét xử hoặc dùng lý trí để xoa dịu những nỗi đau do sự ác gây ra đều là những trò “bịt mắt bắt dê” mà thôi. Chi bằng, nếu lồng vấn đề sự ác vào trong tình yêu chân thực, hẳn tự bản chúng ta sẽ cảm nhận được một sự chuyển biến lạ lùng, đó là khúc ai ca biến thành vũ điệu và nỗi oán hận trở thành lời tạ ơn. Cội nguồn của sự chuyển biến lạ lùng này vượt ra ngoài khả năng đoán định và suy tưởng của con người cũng như không hề bị trói cột vào những định luật tự nhiên. Đấng có khả năng làm như vậy mới là vị Thiên Chúa mà người kitô hữu xưa nay vẫn tâm thành phụng thờ. Và nếu có thực lòng cố gắng vận dùng mọi lý lẽ để minh giải hay phủ nhận Người, chúng ta mãi mãi vẫn chỉ là những trẻ thơ bập bẹ trước công trình sáng tạo diệu kỳ của Người mà thôi.
Nói cách khác, thay vì rậm lời bàn bạc một cách chi li về mối tương quan giữa các trường phái tiến hóa, xuất phát do những cách hiểu khác nhau về công trình sáng tạo, chúng ta cùng tỏ lòng khiêm cung nhìn nhận bản tính tùy phụ của toàn thể thụ tạo trước kế hoạch thật vi diệu của Thiên Chúa, Đấng đã tự mặc khải và trao tặng tình yêu đích thực của Người cho toàn thể nhân loại. Có như vậy, chúng ta mới có thể thầm lặng bày tỏ lòng cung kính thuần hậu trước Thiên Chúa và tâm thành phụng sự Người.
Tài liệu tham khảo
- Karl Krienke, School of Natural and Mathematical, Seattle Pacific Univerity, WA 98119 (Perspectives on Science & Christian Faith, December 1992)
- Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học phương Tây, tập II, 1974. 3. Samuel Enoch Stumpf, Philosophy history and Problems, 1994.
-
_ Tuệ Trinh_
2023
KINH THÁNH VÀ VIỆC CẦU NGUYỆN
KINH THÁNH VÀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Văn kiện của Uỷ ban Giáo hoàng Thánh Kinh bàn về việc giải thích Kinh Thánh đặc biệt nhấn mạnh rằng việc chú giải Kinh Thánh không thể dừng lại ở chỗ tìm ra ý nghĩa của bản văn dựa theo ý định của tác giả khi viết ra nó, nhưng làm sao để giúp cho cộng đồng tín hữu nhờ Kinh Thánh để tiếp xúc được với Lời Chúa hôm nay. Phải nhìn nhận rằng từ công đồng Vaticanô II đến nay, các tín hữu công giáo đã có dịp làm quen với Kinh Thánh hơn trước nhiều. Không kể các lớp thần học phải quy chiếu về Kinh Thánh như là nền tảng, các tín hữu cũng lĩnh nhận Lời Chúa nhiều hơn qua các buổi cử hành Thánh Lễ, những lớp học hỏi Thánh Kinh, những buổi chia sẻ Lời Chúa. Bài này giới thiệu việc dùng Kinh Thánh trong việc cầu nguyện công và tư.
Chúng tôi đã nhận xét rằng các phương pháp được áp dụng gần đây trong khoa chú giải Kinh Thánh thường lấy từ các ngành khảo cứu văn chương hay ngôn ngữ học. Tuy nhiên, cũng nên thêm rằng có một ngành đang chớm nở, đó là “lịch sử của khoa chú giải” nghĩa là xét xem một bản văn nào đó của sách thánh đã được hiểu và giải thích như thế nào trải qua 20 thế kỷ của lịch sử của Giáo hội. Chính trong khi khảo cứu lịch sử của khoa chú giải mà các học giả đã trở lại với vấn đề các nghĩa của Sách thánh, được sách Giáo lý Hội thánh công giáo trình bày ở số 115-117. Và cũng chính khi khảo cứu lịch sử của khoa chú giải, đặc biệt là thời các giáo phụ, mà người ta đã học phương pháp sử dụng Thánh kinh trong việc cầu nguyện. Có hai đường lối đáng được lưu ý:
- Việc giải thích các ý nghĩa khác nhau của Thánh vịnh;
- Lectio divina.
I. Các ý nghĩa khác nhau của thánh vịnh
Thánh vịnh được phụng vụ sử dụng nhiều nhất cho việc cầu nguyện, đặc biệt là trong Giờ kinh Phụng vụ và trong các đáp ca. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta đã hơn một lần cảm thấy khó khăn khi cầu nguyện với các thánh vịnh. Chính vì vậy mà đã có nhiều sáng tác trong lãnh vực này, nhằm giúp vượt qua những trở ngại đó. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo nói tới vấn đề này trong những số 2585-2589.
1. Bước đầu tiên là tìm hiểu nghĩa văn của các thánh vịnh. Tuy rằng các thánh vịnh đều là thể thơ (nghĩa là một lối hành văn khác với văn xuôi), nhưng trong thể thơ lại còn có những hình thức khác nhau nữa, tỉ như: ngợi khen, khẩn cầu, tín thác, tạ ơn, ca thán, dạy khôn. Mỗi hình thức tuân theo một khung diễn tả riêng của nó.
2. Tuy nhiên, ngoài việc tìm hiểu nghĩa văn, để cho thánh vịnh trở thành kinh nguyện Kitô giáo, chúng ta cần phải giải thích nó trong khung cảnh của Tân Ước, như là lời của Đức Kitô, của Hội thánh, của mỗi Kitô hữu. Đây là cách thức cầu nguyện bằng thánh vịnh mà các giáo phụ đã áp dụng. Vì thế, dựa theo sự gợi ý của văn kiện trình bày sách Giờ kinh Phụng vụ số 109, nhiều tác giả đã xuất bản những chú giải đi kèm các thánh vịnh dựa theo tư tưởng của các giáo phụ. Thí dụ, thánh vịnh thứ 1: ta có thể áp dungj hình ảnh người công chính là Đức Kitô, đấng hằng tuân giữa luật Chúa; ta cũng có thể áp dụng cho Hội thánh và các tín hữu, nếu được tháp nhập và Đức Kitô là cây nho và tuân giữ luật đức ái, thì sẽ sinh ra nhiều hoa trái phúc lộc.
II. Lectio divina
Một cách thức khác nữa để cầu nguyện với sách thách là Lectio divina. Thường thì người ta không muốn dịch từ này ra sinh ngữ (thí dụ Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 1177), bởi vì muốn duy trì nội dung phong phú của nó. Thực vậy, “lectio” không phải chỉ là đọc; theo nguyên ngữ latinh, “legere” có nghĩa là: hái, thu lượm; do đó lectio có nghĩa là hái tư tưởng gói ghém trong đoạn sách, thu lượm sứ điệp chứa đựng trong đó. Thêm vào đó tính từ “divina” muốn nêu bật rằng đối tượng của nó là Thiên Chúa; đồng thời con người cũng nhờ Thiên Chúa mở hco thấy chân lý chứa đựng trong Lời của Ngài. Từ ngữ “lectio divina” (hay lectio sacra) đã xuất hiện trong các tác phẩm của các giáo phụ từ thế kỷ 4-5, và được ghi vào thời khoá biểu hằng ngày của các đan sĩ, thí dụ như trong luật thánh Biển Đức. Các giáo phụ quan niệm rằng Sách thánh là nơi hẹn hò chính yếu của con người với Chúa: khi đọc sách thánh là ta lắng nghe Chúa nói, còn khi cầu nguyện là ta thưa chuyện với Ngài. Khi đọc Sách thánh, ta không phải chỉ lo tìm hiểu ý nghĩa của các từ ngữ trong đó, nhưng mà, dưới sự hướng dẫn của Thánh thần, ta còn khám phá ra Đức Kitô, nội dung và đối tượng của toàn Sách thánh. Sang thời Trung cổ, các đan sĩ dần dẫn đã truyền lại những kinh nghiệm thực hành của họ, đặc biệt là Guigô II, viện phụ dòng Chartreux hồi thế kỷ 12 (1173-1180), đã tóm lại bốn động tác chính của lectio divina: lectio, meditatio, oratio, contemplatio, và được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trích ở số 2654: “Hãy tìm qua việc đọc, và sẽ tìm qua việc gẫm suy; hãy gõ qua việc cầu khẩn và sẽ mở nhờ chiêm ngắm”. Dĩ nhiên, giả thiết là tiên vàn đã phải chuẩn bị tâm hồn, tỉ như thanh tẩy lương tâm khỏi tội lỗi, khung cảnh thinh lặng để có thể gặp gỡ Chúa. Bây giờ chúng ta đã xét tới bốn động tác:
1. Động tác đầu tiên là “lectio”: nó không hệ tại việc đọc cho bằng việc chăm chú lắng nghe Chúa qua đoạn Sách thánh.
2. Tiếp đó là “meditatio”, có nghĩa là để cho Lời Chúa thấm nhập toàn thể các quan năng của ta. Một vài tác giả gọi là “nhai đi nhai lại” (ruminatio), nhằm để cho Lời Chúa thấm nhiễm vào tư tưởng, tâm tình của ta, thấm nhập vào đời sống của ta.
3. “Oratio” là lời cầu nguyện bộc phát lên từ con tim sau khi đã được Lời Chúa đánh động; lời nguyện ấy có thể mang lấy hình thức của chính Lời của Chúa. Khi ta thưa lại với Chúa bằng chính Lời của Người thì tất nhiên là ta đã chấp nhận: Amen, xin vâng theo Lời Người.
4. Sau cùng “Contemplatio” nói lên tâm tình biết ơn, thán phục, thờ lạy, ngợi ca, khi nếm được vẻ ngon ngọt của Lời Chúa.
Dĩ nhiên, trải qua các thế kỷ, cái sườn đơn giản của Guigo được thêm bớt châm chế. Một cái lược đồ tương tự đã có thể tìm thấy trong Phụng vụ Lời Chúa:
- Công bố Lời Chúa với đôi lời chú giải tiếp theo;
- Thinh lặng để suy niệm’
- Đáp ca bằng lời của thánh vịnh;
- Tung hô ngợi khen “alleluia”.
Một lược đồ khác đã muốn bổ túc thêm vài động tác khác nữa.
- Lectio
- Meditatio
- Collatio
- Oratio
- Contemplatio
- Operatio
Như vậy sau khi đã chú ý đón nghe lời Chúa, và suy gẫm, các đan sĩ chia sẻ với nhau (collatio), hoặc giúp nhau đào sâu hơn những ý nghĩa của sách thánh. Ngoài ra, người ta còn thêm một động tác chót nữa (operatio), nhằm kéo dài buổi cầu nguyện ra cuộc sống, cố gắng tìm gặp Thiên Chúa hiện diện qua công việc bổn phận, đồng thời đem thực hành điều mà Chúa đã soi sáng trong lúc cầu nguyện. Dù sao chăng nữa, ta thấy “lectio divina” là một thức giải thích Kinh Thánh, khi mà không để cho nó thành chữ chết, cũng không phải chỉ tìm hiểu ý nghĩa văn chương của các câu văn, nhưng là khám phá ra cái nghĩa sống động của Sách thánh, như là lời nói của Chúa làm ánh sáng và nuôi dưỡng tín hữu trên đường lữ hành.
Việc trở về với đường lối giải thích Sách thánh của các giáo phụ (tức là đọc thánh vịnh theo nhãn giới Kitô, và lectio divina), không có nghĩa là hạ giá những phương pháp chú giải cận đại. Những kết quả của những phương pháp giải thích hiện đại mở cho ta thấy nghĩa văn (sensus litteralis) của Kinh Thánh. Thế nhưng, nhưng ta đã biết, ngoài nghĩa văn còn có nghĩa tinh thần nữa (sensus spiritualis), nghĩa là đọc mỗi đoạn văn Kinh Thánh trong bối cảnh của toàn thể lịch sử mạc khải, nhờ đó mà một bản văn của Cựu Ước sẽ sáng nghĩa hơn trong Tân Ước, cũng như toàn thể Cựu Ước lẫn Tân Ước phải dẫn đưa con người tới cứu cánh tối hậu của mạc khải, đó là sự thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, Thiên Chúa đã muốn cho Kinh Thánh được viết ra không phải chỉ như làm chứng tích của những lời nói và hành động của Người đã tỏ ra trong quá khứ; Người còn muốn sao cho con người nhờ Kinh Thánh có thể nghe lời sống động của Người, và đáp lại bằng trót cả tâm tư và đời sống.
Sau cùng, chúng tôi xin thêm một ghi chú nữa. Các đan sĩ và tu sĩ cho đến đầu thời Trung cổ vẫn nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện bằng “Lectio divina” vừa nói trên. Dần dần, vì tiếng latinh trở nên xa lạ với đời sống thường ngày khiến cho các tu sĩ không thể đọc Sách thánh cách dễ dàng được nữa, nên họ đã thay thế bằng việc đọc sách thiêng liêng (lectio spiritualis).
_Hoa Trang_
2023
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU KINH THÁNH
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU KINH THÁNH
Chúng ta có thể nhận thấy rằng một trong những động lực của sự đổi mới về phương pháp thần học hệ tại việc đặt Kinh Thánh làm nền tảng của mọi suy tư thần học; thay vì khởi sự từ những lý luận siêu hình rồi tiếp đó tìm các câu Kinh Thánh để chứng minh cho kết luận của mình. Tuy nhiên, có thể nói đến thế nhưng ngay trong chính việc học hỏi Kinh Thánh, người ta cũng thấy xuất hiện những phương pháp mới.
Trong bài này chúng tôi điểm qua 6 phương pháp chính để tìm hiểu Kinh Thánh: 1) Phê bình lịch sử; 2) hiện sinh; 3) duy vật; 4) xã hội; 5) phân tâm; 6) cấu trúc.
I. Phương pháp phê bình lịch sử (Méthode historico-critique)
Phương pháp đơn giản nhất thường được áp dụng để tìm hiểu ý nghĩa Kinh Thánh là tìm hiểu từ ngữ (cái từ này có nghĩa là gì?) Đó là đường lối cổ truyền và phổ thông hơn cả; người ta mổ xẻ ý nghĩa của các từ, xem nghĩa đen và nghĩa bóng của nó, dựa theo thể văn và mạch văn.
Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 20, một trường phái mới đã xuất hiện, chủ trương rằng muốn hiểu ý nghĩa của bản văn Kinh Thánh, thì việc tìm hiểu ý nghĩa của các từ chưa đủ, cần phải đi ngược lên tiến trình mà quyển sách đã thành hình.
Thực vậy, tác giả của các Sách thánh không phải là những cá nhân đơn thân độc mã, nhưng tác phẩm của họ (như 4 quyển Tin Mừng) là kết quả của một tiến trình lâu dài: khởi đầu từ những nguồn tư liệu truyền khẩu, kế đó đến giai đoạn trưởng thành giữa lòng cộng đồng tín hữu, và sau cùng, mỗi tác giả mới sử dụng những nguồn ấy để soạn lại theo một chủ ý thần học riêng. Chính vì vậy mà ta thấy vì sao giữa các Tin Mừng vừa có những điểm giống nhau (bởi vì từ những nguồn chung) và vừa có những điểm khác nhau (bởi vì lối biên soạn riêng).
Phương pháp phê bình lịch sử muốn đi tìm về nguồn gốc sự kiện (như Đức Giêsu lịch sử), trước khi có những nhào nặn của cộng đồng và của các soạn giả (trình bày Đức Kitô của lòng tin).
II. Phương pháp giải thích hiện sinh (Interprétation existentiale)
Trong khi mà phương pháp phê bình lịch sử muốn tìm về khuôn mặt lịch sử của Đức Giêsu, thì Rudolph Bultmann, do ảnh hưởng của Martin Heidgger, chủ trương rằng vấn đề tìm hiểu lịch sử của Đức Giê-su không quan hệ cho bằng khám phá ra sứ điệp cứu độ dành cho con người, sứ điệp của sự hy vọng vào một cuộc sống mai sau khi đã chấm dứt cuộc đời dương thế.
Việc chú giải Kinh Thánh phải nhằm gột rửa những quan niệm, từ ngữ lệ thuộc vào một thời đại xa xưa, ngõ hầu trình bày một sứ điệp sống động dành cho con người của thời đại hôm nay.
Đàng sau ý hướng thần học của Bultmann, người ta nhận thấy chủ trương về sự chú giải chịu ảnh hưởng của Martin Heidegger và H.G. Gadamer, đó là chủ trương cho rằng ý nghĩa của một tác phẩm không phải tìm nơi tác giả (người viết) cho bằng nơi người đọc, xem họ muốn tìm cái gì cầm cuốn sách trên tay.
III. Giải thích duy vật (Lecture matérialiste de la Bible)
Phương pháp này phát nguyên từ một số học giả mácxít từ cuối thế chiến thứ hai áp dụng để tìm hiểu thân thế của Đức Giêsu, và đã được bổ túc bởi một vài học giả Kinh Thánh, tựa như Fernand Belo và M. Clévenot, đó là chưa kể các nhà thần học giải phóng. Dĩ nhiên, các học giả ấy không phải chỉ dựa trên lý thuyết của Marx và Engels, nhưng họ còn chịu ảnh hưởng của Louis Althuser, cũng như của học phái cấu trúc nữa.
Đại khái, họ giả thuyết rằng Kinh Thánh đã ra đời trong một khung cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, ý thức hệ của thời đại. Bởi vậy, muốn hiểu và giải thích Tin Mừng cho đúng, thì cần phải phân tích thái độ của Đức Giêsu trước thực trạng của xã hội đương thời, và những đường hướng canh tân cách mạng mà Ngài muốn đề ra.
Sự tìm hiểu Kinh Thánh đòi hỏi sự áp dụng phương pháp phân tích xã hội của mácxít: các liên hệ sản xuất, sự đấu tranh giai cấp, v.v…
IV. Phương pháp xã hội học (Exégèse sociologique)
Nhiều người thường đồng hóa xã hội chủ nghĩa hay xã hội học với học thuyết của Marx. Sự thực không phải như vậy. Marx chỉ tượng trưng một khuynh hướng học hỏi xã hội, đặc biệt nhìn dưới khía cạnh sản xuất kinh tế.
Các phương pháp xã hội học mà một số học giả áp dụng vào việc nghiên cứu Kinh Thánh nhằm tìm hiểu không những là khung cảnh xã hội của thời Đức Giêsu, nhưng còn muốn tìm hiểu thêm về sự thành hình của phong trào những người theo Ngài, từ đó, những tác phẩm Kinh Thánh đã ra đời.
Nói khác đi, các phương pháp xã hội học nói đây là xã hội về tri thức, về các vai trò của vị cứu tinh, về những định chế. Tác phẩm cổ điển của khoa xã hội học là của Max Weber, khi ông ta nghiên cứu những ảnh hưởng của Do thái giáo đối với đời sống của người dân và sinh hoạt cộng đoàn. Kế đó, người ta đã áp dụng vào việc nghiên cứu các hình thức xã hội của Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Một cách cụ thể hơn, áp dụng vào Tân Ước, G.Theissen tìm hiểu cái mà ông gọi là “phong trào của ông Giêsu”, đặt trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, cảnh vực của Palestina. Phong trào đó ra đời trong bầu khí thời đại của các phong trào thế mạt (apocalyptique).
V. Phương pháp tâm lý chiều sâu
Dĩ nhiên xưa nay không thiếu những người đã tìm cách tìm hiểu tính tình, tâm lý của các nhân vật trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, phương pháp mà chúng ta nói đây muốn mở cửa đối thoại với những ngôn ngữ và tư tưởng của khoa tâm lý học hiện đại, đặc biệt là khoa tâm lý chiều sâu và phân tâm học, để tìm hiểu chính tâm lý của tác giả quyển sách.
Thực ra phương pháp này hãy còn mới mẻ, và chỉ được áp dụng một cách giới hạn vào việc phân tích một vài bản văn, tựa như dụ ngôn người con hoang đàng, người Samaritanô nhân hậu, hoặc hai chương 7, 8 của thư gửi giáo đoàn Rôma.
M.A. Tolbert giải thích dụ ngôn người con hoang đàng như sau: dụ ngôn này biểu lộ ước muốn căn bản của con người tìm về kết hợp và hòa đồng trong đời sống. Đứa em đi tìm sự thỏa mãn tính dục ở “hạ ngã” (infra ego), tượng trưng cho con người muốn phá bỏ những cấm lệnh (tabu); đứa con cả tượng trưng cho cái mà Freud gọi là “siêu ngã” (super ego), trụ sở của luân thường, đạo giáo, luật lệ. Người cha tượng trưng cho cái “ngã”, vừa muốn thỏa mãn yêu sách của đôi bên, vừa muốn hòa hợp với thực tế.
Một cách tương tự, P.E. Langevin đã muốn cho thấy rằng những gì mà thánh Phaolô viết trong chương 7 và 8 của thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói lên những thảm cảnh của nội tâm con người giống như tâm phân học đã khám phá trong cuộc phát triển nhân cách.
Thiết tưởng cũng nên thêm rằng, đã hơn một nhà thần học đã mất ghế giáo sư (E. Drewemann) khi không thấy nhãn giới nào khác trong Kinh Thánh ngoài phân tâm học!
VI. Phương pháp cấu trúc (Structuralisme)
Cấu trúc hay cơ cấu luận ám chỉ một phong trào triết học, với những khuynh hướng khác nhau, cũng như ám chỉ một phương pháp nghiên cứu khoa học áp dụng vào nhân chủng học, tâm lý, xã hội, văn chương, âm nhạc.
Lãnh vực mà cấu trúc được sử dụng vào việc tìm hiểu Kinh Thánh là thuyết cấu trúc về ngôn ngữ, đặc biệt là ký hiệu học (sémiotique), khoa tìm hiểu các ký hiệu, nghĩa là vì đâu mà ký hiệu mang một ý nghĩa.
Phương pháp này mới được sử dụng vào khoảng thập niên 70 của thế kỷ 20 ở Pháp, dưới sự hướng dẫn của Roland Barthes. Phương pháp cấu trúc nhấn mạnh đến sự cấu tạo các bản văn hơn là chủ ý của tác giả, tìm hiểu cách xếp đặt của các tổng hợp của các từ ngữ, các đoạn văn, các chương và toàn quyển sách. Phương pháp xem ra hấp dẫn, nhưng ngữ vựng phức tạp của khoa ngôn ngữ học đã làm một số chú giải Kinh Thánh đầu hàng, ấy là chưa kể những tiền đề triết lý của thuyết cơ cấu.
Trên đây, chúng tôi chỉ mới thuật lại một vài phương pháp để tìm hiểu ý nghĩa của bản văn Kinh Thánh. Điều đó giả thiết các phương pháp phê bình khác đã được áp dụng để thiết lập nguyên bản (critique textuelle), dựa từ cả trăm thủ bản lưu truyền.
Mặt khác, chúng ta đừng nên quên rằng trong việc chú giải Kinh Thánh, sau giai đoạn tìm hiểu ý nghĩa của tác giả văn bản xét như là một tác phẩm văn chương, nhà chú giải còn phải đi thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của đoạn văn với tâm tình đức tin, trong khung cảnh của chương trình mạc khải cứu độ. Người ta thường gọi chặng này là “thần học Thánh kinh” (théo-logie biblique) sau giai đoạn chú giải Kinh Thánh (exégèse biblique). Đó là nói trên nguyên tắc, chứ trên thực tế thì sự phân biệt ấy có vẻ không tưởng.
Như chúng ta đã thấy, mỗi phương pháp làm việc trên đây đều giả thiết một thứ thần học nào đó, tuy rằng đôi khi chỉ là ý thức hệ; tỉ dụ như khi đọc Kinh Thánh theo phương pháp duy vật, thì người ta không phải chỉ chủ ý tìm ý nghĩa của từng đoạn văn, nhưng người ta đã giả thiết rằng tất cả vai trò của Đức Kitô chẳng có gì là tôn giáo cả, song chỉ là cải tổ xã hội.
Mặt khác, phương pháp phê bình lịch sử cho thấy rằng chính mỗi tác giả Kinh Thánh đã có một thứ thần học nào đó, tỉ như thần học của Mátthêu thì khác của Gioan. Nhận xét vừa nói tuy rằng có thể dẫn tới kết luận là có bao nhiêu thánh sử thì có bấy nhiêu thần học Kinh Thánh; song, mặt khác, xét dưới khía cạnh khách quan của tiến trình thành hình của Sách thánh, nó cho ta thấy rằng muốn hiểu đúng nghĩa của bản văn Kinh Thánh, cần phải đi vào tâm tình của người viết, cũng như khung cảnh cộng đồng đức tin của soạn giả. Nói khác đi, không thể nào chỉ khảo sát Thánh kinh như một tác phẩm văn chương thuần túy, nhưng cần phải chia sẻ đức tin của cả cộng đồng Hội Thánh nữa. Vì thế mà bên cạnh những phương pháp cận đại khảo cứu Kinh Thánh vừa nói, người ta nhận thấy một ngành khác chuyên về lịch sử khoa chú giải theo truyền thống Giáo hội, đặc biệt là của các thánh Giáo phụ.