2022
Vì sao tôi yêu mến Bí tích Giải tội?
Vì sao tôi yêu mến Bí tích Giải tội?
Nghe có vẻ kỳ lạ khi nói rằng Bí tích Giải tội là một trong những bí tích tôi yêu thích, nhưng làm sao có thể không như thế khi mà tôi đã tìm thấy nơi đây lòng thương xót và sự cứu chuộc vô cùng lớn lao?
Nếu tôi xót thương người khác trong việc tông đồ và lời giảng dạy của mình, thì đó là vì tôi đã được tỏ cho thấy lòng thương xót lớn lao. Đã hơn một lần, tôi là đứa con hoang đàng, kẻ đã trẩy đi phương xa cùng với của cải và phước lành của Cha; sau đó thức tỉnh trong sự nhơ uế và trống rỗng của mình – chỉ để trở về cùng với sự phó thác hoàn toàn trong vòng tay rộng mở của một Thiên Chúa, Đấng biết và yêu thương tôi.
Một trong những kho tàng lớn nhất của Đức tin chúng ta chính là bí tích của lòng thương xót, Bí tích Hòa giải, hay thường được gọi là Bí tích Giải tội. Lúc này đây, tôi có thể nêu lên sự hình thành của bí tích này từ các công đồng đầu tiên của Giáo hội sơ khai, những khảo luận của các Giáo phụ trình bày chi tiết về việc Kinh thánh khuyến khích chúng ta thú nhận tội lỗi của mình (1Ga 1,9) và việc các Tông đồ được ban quyền năng để tháo cởi và cầm buộc tội lỗi (Mt 18,18); nhưng giờ đây, tôi muốn chia sẻ với các bạn về sự kính sợ và cảm kích mà tôi dành cho mầu nhiệm thánh này.
Bí tích Giải tội thật sự là lời nhắc nhở thường hằng về sự sa ngã của tôi và việc tôi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa để có thể chạy tốt cuộc đua trên trần gian này.
Một Thiên Chúa ở giữa những thiếu sót và nhơ uế
Tôi nhận ra rằng tình yêu của tôi đối với Bí tích Giải tội dường như là một khái niệm kỳ lạ trong thời hiện đại của chúng ta. Việc thú nhận bất cứ điều gì thì luôn ngụ ý rằng tôi đã phạm sai lầm. Trong thời đại của thuyết tương đối hiện nay, trong đó không có sự thật khách quan và “tội lỗi” là một khái niệm đã mất: liệu có gì là sai không? Tội lỗi có còn tồn tại nữa không?
Để đến trước một vị linh mục trong Bí tích Giải tội và thú nhận tội lỗi của bản thân một cách riêng tư, dễ bị tổn thương và trọn vẹn con người thì chắc chắn trái ngược hẳn với vẻ bề ngoài được tô vẽ hoàn hảo mà tôi mong muốn thể hiện trên mạng. Chúng ta đang sống trong thời đại mất sự kết nối, trong đó chúng ta có thể ẩn mình sau màn hình điện thoại và các rào cản kỹ thuật số và chặn bất cứ điều gì không thoải mái. Chúng ta có thể chỉnh sửa hình ảnh trên mạng xã hội của mình để đảm bảo rằng chúng ta được miêu tả là không tì vết với các bộ lọc hoàn hảo. Chúng ta có thể xóa các sai sót của mình, chặn sự phiền toái và xóa lịch sử trình duyệt để chúng ta trông như thể chúng tôi không có gì phải che giấu.
Nhưng có một vấn đề. Đó là chúng ta không hoàn hảo. Tất cả chúng ta đều có những thứ mà chúng ta che giấu.
Tôi biết rằng tôi đã đỗ vỡ và bị tổn thương. Tôi đã cảm thấy sức nặng của tội lỗi nơi tâm hồn mình, những tác động kép của dục vọng, giận dữ, tự cao tự đại và lười biếng về tâm linh. Tôi bị cám dỗ để nói dối và ăn cắp. Tôi đã cho phép mình ở trong những mối quan hệ không lành mạnh, bị dẫn dắt bởi dục vọng và sự bất an. Tôi rất có xu hướng phạm tội. Đó không phải là chứng loạn thần kinh; đó là một phán đoán trung thực về vấn đề đang xảy ra. Chúng ta không thể nhận được sự chữa lành nếu không gọi tên căn bệnh trước.
Con người cần phải ăn năn và tuân theo những gì là chân thật. Ngày nay, chúng ta thường cố gắng làm như vậy thông qua các phương tiện không hoàn chỉnh, không hoàn hảo và thậm chí bị bóp méo, chẳng hạn như việc trị liệu và những giây phút trải lòng trên các chương trình truyền hình hằng ngày. Mọi người đăng quá nhiều điều về cuộc sống của họ lên mạng vì nhu cầu chân thành về sự kết nối của con người và về sự thật được biết đến. Chúng ta mong muốn được mọi người nhìn thấy và yêu mến vì con người thật của chúng ta, bất kể chúng ta cố gắng chôn vùi những chi tiết đó như thế nào.
Có tôn giáo hay không, chúng ta có bản năng sợ hãi những kẻ nói dối và bị lừa dối. Chúng ta đánh giá cao những người đàn ông và phụ nữ liêm chính, những người sống ngay thẳng, có hành vi phù hợp với cách nói chuyện của họ. Những hành động vô đạo đức được thực hiện trong bí mật sẽ ăn mòn chúng ta bởi vì chúng ta đang sống trong bóng tối. Chúng ta mong muốn sự thật và sống trong ánh sáng của sự thật. Sự thật giải thoát chúng ta và mang lại sự chữa lành.
Tất nhiên, vẻ đẹp là nhờ Đức Giêsu Kitô, nhờ Người chúng ta có được nhiều điều hơn là nhờ những bài đạo lý trong một chương trình truyền hình: chúng ta thực sự được trả lại cho sự toàn vẹn mà chúng ta đã được dựng nên. Đức Giêsu là Đấng Chân Thật có thể xua tan sự giả dối và tật nguyền của chúng ta, nhưng chỉ khi chúng ta thú nhận rằng chúng ta cần được chữa lành trước.
Thường thì khi Đức Giêsu gặp người bệnh, Người sẽ chữa lành phần hồn một cách dễ dàng cũng như phần thể xác. Khi người ta đưa người bạn bại liệt của họ đến với Đức Giêsu để được chữa lành, trước tiên Người đã tha thứ tội lỗi của người đó (Mt 9,1-8). Tông đồ Giacôbê khuyến khích người bệnh: “Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát” (Gc 5,16). Bí tích Giải tội mang lại sự chữa lành cả bên ngoài lẫn bên trong thực sự.
Tất nhiên, chỉ có Thiên Chúa mới có thể tha thứ tội lỗi. Những người Pharisêu đã sửng sốt khi Đức Giêsu tuyên bố mình có quyền tha tội, vì về cơ bản Ngài đang đánh đồng mình với Giavê, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacop. Một tuyên bố như vậy đã tạo nên một ý tưởng tuyệt vời rằng Thiên Chúa sẽ chấp nhận mặc lấy thân xác trần tục để sống cùng với sự thiếu sót và nhơ uế của chúng ta và bước đi giữa chúng ta.
Đó chính xác là những gì Thiên Chúa đã hứa và đã làm.
Trở về cùng Cha
Vài giờ trước khi chúng tôi kết hôn, vợ tôi và tôi đã đến với Bí tích Giải tội một cách riêng lẻ, với ước muốn tiến vào hôn nhân cách tự do nhất có thể. Chúng tôi đã thú nhận những lần chúng tôi đã cho đi tình yêu của mình cho những người không xứng đáng và những lần khi bản thân chúng tôi không yêu như chúng tôi phải yêu. Tôi biết rằng qua nhiều năm xem nội dung khiêu dâm, tôi đã trao thân cho rất nhiều phụ nữ khác, nhưng nhờ ơn Chúa mà tâm trí và ký ức của tôi đã bắt đầu quá trình chữa lành. Vào ngày cưới, chúng tôi muốn đến với nhau mà không có bất kỳ sự che giấu nào về quá khứ của chúng tôi và trở nên gắn bó với nhau. Và đó là tất cả những gì Bí tích Giải tội hướng đến.
Từ “Hòa giải” nhấn mạnh sự trở về thân mật với Thiên Chúa. Sự gợi mở về tình yêu hôn nhân không phải ngẫu nhiên mà có; nó chính xác là điểm then chốt. Thiên Chúa muốn chúng tôi hiện diện với Ngài trong từng khoảnh khắc với mức độ hiệp nhất vợ chồng đó. Tội lỗi không chỉ là sự phá vỡ các quy tắc, mà là sự cắt đứt một mối quan hệ yêu thương. Sự thú nhận là hành động đúng đắn trở lại với Người yêu thiêng liêng, người luôn mong mỏi chúng ta quay trở về.
Tiên tri Hôsê đã nói với đồng bào của ông đang bị lưu đày: “Hỡi Israel, hãy trở về với ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi”(Hs 14,2). Hết lần này đến lần khác, người Do Thái đã quên đi sự nhân từ của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên định đợi chờ mà chỉ người yêu mới có thể làm được. Hết lần này đến lần khác, chúng ta bị cám dỗ rời xa sự tốt lành của Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn chờ đợi sự trở lại của chúng ta. Qua vị linh mục không hoàn hảo, chúng ta được đến gần với Người Yêu Hoàn hảo của tâm hồn mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố rằng không phải Thiên Chúa mệt mỏi khi tha thứ cho chúng ta, mà là chúng ta mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ. Tôi biết rằng tôi đã trải qua sự xấu hổ và thất vọng khi phải trở lại với Bí tích Giải tội hết tuần này sang tuần khác vì các vấn đề về dục vọng trong những năm đại học của tôi. Tôi đi đến các giáo xứ khác nhau, lo lắng rằng các linh mục sẽ bắt đầu nhớ đến tôi. Tất nhiên, tôi đã bỏ quên một điều rằng tôi cần phải chịu trách nhiệm và Thiên Chúa luôn chờ đợi ở đó nơi vị linh mục để đón nhận tôi trở lại mối tương quan mật thiết với Ngài.
Bây giờ tôi đã là một người cha, tất nhiên, các con của tôi sẽ làm những việc thách thức sự kiên nhẫn của tôi và khiến tôi tức giận. Cơn giận của tôi với chúng kéo dài nhưng chỉ trong chốc lát, và ngay sau đó, tôi cố gắng an ủi, hòa giải và tưới tắm tình yêu cho chúng. Thiên Chúa là Cha nhìn chúng ta với tình yêu thương vô bờ bến đến nỗi không có tội lỗi nào chúng ta phạm phải có thể tách chúng ta ra khỏi Ngài. Nhưng chúng ta phải đủ khiêm tốn để nói: “Lạy Cha, xin tha thứ cho con, vì con đã phạm tội.”
Hãy đi và đừng phạm tội nữa.
Câu trả lời cho những khủng hoảng luân lý của thời đại chúng ta là sống trong sự thánh thiện. Trong mỗi lần thử thách đối với Giáo Hội, các vị thánh vĩ đại đã đứng lên để dẫn đầu cuộc đáp trả, hướng dẫn các linh hồn khiêm hạ để thừa nhận rằng họ là tội nhân cần một Đấng Cứu Rỗi.
Vào cuối mỗi lời thú tội, chúng ta nêu lên một Hành động Thống hối, trong đó chúng ta khẳng định ý muốn tránh bất cứ điều gì dẫn chúng ta vào tội lỗi. Có một nguy cơ coi Bí tích Giải tội như một biện pháp rửa xe nhanh chóng khi chúng ta thường xuyên đến với bí tích này mà không cam kết thay đổi các hành vi và thói quen có vấn đề. Điều này làm giảm hiệu năng của lòng thương xót thánh thiêng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Máu Thánh của Đức Kitô.
Chúng ta nghiêm túc đến mức nào khi thực hiện lời kêu gọi ăn năn này? Chúng ta phải “đi vào bên trong”. Chúng ta phải sẵn sàng tìm hiểu gốc rễ của thói quen và xem vết thương của chúng ta bắt nguồn từ đâu. “Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi” (Mc 9,47). Tôi có những người bạn đã hạ cấp điện thoại của họ từ “điện thoại thông minh” xuống “điện thoại ngu ngốc”, để họ có thể thoát khỏi những cám dỗ vô tận về dục vọng, đố kỵ và lười biếng. Tôi đã cài đặt phần mềm trên máy tính của mình nhiều năm trước để giúp tôi vượt qua việc sử dụng nội dung khiêu dâm và bắt tôi phải chịu trách nhiệm, vì tâm hồn và thiên chức trong tương lai của tôi. Điều đó không dễ dàng và cần nhiều thời gian. Nhưng thông qua việc chúng ta xem xét nguồn gốc của các vết sẹo, Thiên Chúa được tôn vinh và chúng ta có thể được biến đổi. Hành vi có thể được sửa chữa và có thể đạt được sự toàn vẹn với sự hỗ trợ của Đấng Chữa Lành.
Sự tha thứ và bình an
“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Thiên Chúa không sai Con Một của Ngài đến để chúng ta có nhiều luật lệ hơn và sống trong tội lỗi ám ảnh và sợ hãi, nhưng để chúng ta có cuộc sống dồi dào (Gn 10,10). Một cuộc sống được sống trong tình yêu thánh thiện và sự thật sẽ thực sự giải thoát chúng ta.
Tôi cố gắng đến với Bí tích Giải tội ít nhất mỗi tháng một lần. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ xưng tội mỗi tuần một lần – những gì Ngài phải thú nhận, chỉ có Chúa mới biết! Càng trở nên thánh thiện hơn, chúng ta càng thấy rõ những khuynh hướng ích kỷ và thiếu sót của mình và thấy khoảng cách lớn giữa chúng ta là ai với chúng ta có thể là ai. Các vị thánh vĩ đại đã chứng thực điều này. Nhưng Thiên Chúa vẫn ban ân phúc của Ngài trên những người đủ khiêm tốn và đủ kiên trì để cầu xin.
Hãy trải nghiệm sự chữa lành mà Thiên Chúa muốn tuôn đổ trên bạn. Hãy trở về với sự thân mật của Thiên Chúa trong bí tích quý giá này của Giáo hội.
Hãy thú tội và tin tưởng vào sự vinh hiển của Thiên Chúa!
Bobby Angel
Ngọc Quí
2022
Sự khác nhau giữa Tượng chịu nạn và Cây thánh giá trơn
Sự khác nhau giữa Tượng chịu nạn và Cây thánh giá trơn
Tượng chịu nạn biểu lộ việc Chúa Kitô bị đóng đinh, trong khi cây thánh giá trơn, chỉ là cây gỗ trơ trọi. Giáo hội Công giáo luôn sử dụng Tượng chịu nạn; Chính Thống giáo và Giáo hội Đông phương cũng vậy.
Cây Thánh giá trơn xuất hiện vào thế kỷ XVI, đầu tiên là giữa những người theo giáo phái Calvin, vốn là những người nhấn mạnh sự đơn giản trong cả phụng vụ và kiến trúc. Những người theo giáo phái Luther và Anh giáo thời đó vẫn sử dụng Tượng chịu nạn, và họ có những nhà thờ được trang trí cầu kỳ hơn những người theo giáo phái Calvin. Theo thời gian, con cháu và những người ly khai khỏi giáo phái Calvin và Anh giáo – chẳng hạn như những người theo giáo phái Methodists, Baptists and Presbyterians – đã chấp nhận cây thánh giá trơn, trong khi nhiều người Anh giáo và giáo phái Luther vẫn sử dụng Tượng chịu nạn, nhưng cũng có một số người dần chuyển sang sử dụng thánh giá trơn. Còn người Công giáo thì vẫn tiếp tục sử dụng Tượng chịu nạn như vẫn quen làm từ trước.
Điều này có lẽ khởi đi từ những người theo đạo Tin Lành, họ ưa thích sự đơn giản, nên dần dần đã phát triển thành một lập trường thần học nhất định. Theo đó, khi sử dụng thánh giá trơn, họ muốn nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã sống lại và “không còn bị đóng đinh vào thập giá nữa”. Đối với nhiều người trong số họ, cây thánh giá giờ đây đã trống trơn và họ cũng nên dùng thánh giá trơn theo cách diễn tả này.
Vì nghĩ như thế, nên một số người đã đi xa hơn khi nói rằng người Công giáo sử dụng Tượng chịu nạn là do người Công giáo tin rằng Chúa Giêsu vẫn còn ở trên thánh giá.
Điều này, tất nhiên, là không đúng sự thật.
Là những tín hữu Công giáo, chúng ta ý thức đầy đủ và long trọng tuyên xưng mỗi Chúa nhật trong Kinh Tin kính rằng: Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết và Người đang ngự trong vinh quang bên hữu Chúa Cha. Tượng chịu nạn là sự mô tả cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Người chỉ dâng hiến lễ một lần, thay cho tất cả, và hoàn tất vĩnh viễn (x. Dt 10,14).
Việc sử dụng Thánh giá có hình Chúa Giêsu là điều bắt buộc trong phụng vụ Công giáo và cả những cây Thánh giá được rước và đặt trên bàn thờ. Điều này là do Thánh lễ hiện tại hóa việc Chúa Giêsu bị đóng đinh. Chúng ta không “đóng đinh lại” Chúa Giêsu. Đúng hơn, rằng Chúa Giêsu đã một lần, chết cho chúng ta, một hiến lễ hoàn hảo và trọn vẹn được hiện tại hoá cho chúng ta. Việc sử dụng Tượng chịu nạn nhắc nhớ chúng ta về điều này.
Và, ngay cả khi người Công giáo được phép có một cây thánh giá trơn, thì truyền thống phổ biến là người Công giáo luôn có Tượng chịu nạn trong nhà. Đây như một lời tuyên xưng, một lời giới thiệu với bất kỳ ai khác rằng: Chúng tôi là một ngôi nhà Công giáo; chúng tôi là một giáo xứ Công giáo.
2022
Tại sao phải xin linh mục chúc lành?
Tại sao phải xin linh mục chúc lành?
Có thể chúng ta không nhận ra rằng mình đã nhận được biết bao ân lộc từ Thiên Chúa khi có các linh mục bên cạnh mình. Vì vậy, chúng ta thường không để ý đến giá trị của phép lành mà các ngài có thể đem đến cho chúng ta, và chúng ta đang gạt bỏ truyền thống xin chúc lành này.
Thánh Gioan Maria Vianney, được giáo hội tuyên phong làm quan thầy của các linh mục đã nói rằng: “Nếu tôi gặp một linh mục và một thiên thần, tôi sẽ chào linh mục trước khi chào thiên thần. Thiên thần là bạn của Thiên Chúa, nhưng linh mục là người chiếm giữ vị trí của Chúa”.
Thay mặt Chúa Kitô [In persona Christi]
Khi được thụ phong, các linh mục hành động thay mặt Chúa Kitô, nghĩa là, đối với chúng ta các linh mục là người đại diện chính Chúa Kitô. Vì thế, thánh Gioan M. Vianney đã nói rằng linh mục là người “chiếm giữ” vị trí của Thiên Chúa, cho nên ngài xứng đáng được chào đón trước, trước cả thiên thần. Thêm nữa, vị linh mục đã nhận nơi Thiên Chúa quyền mang Chúa Kitô đến cho chúng ta, một chức năng mà ngay cả các thiên thần cũng không thể làm được.
Thật thế, trong nghi thức truyền chức linh mục có hai thời điểm quan trọng: việc đặt tay của giám mục và xức dầu trên tay của linh mục. Khi nhận dầu vào lòng bàn tay, vị linh mục đảm nhận 4 chiều kích quan trọng: đón tiếp, chúc lành, dâng lễ và thánh hiến.
Chiều kích thứ hai là chiều kích chúng ta đề cập hôm nay. Khi chúng ta xin phép lành của linh mục, cử chỉ đó muốn nói lên rằng chúng ta muốn tham dự vào việc xức dầu mà ngài đã lãnh nhận; chúng ta muốn trở thành một phần của phép lành này. Có một số người, thậm chí còn có thói quen hôn tay của các linh mục, bởi vì chính các ngài là người mang Chúa Kitô đến cho chúng ta, các ngài là công cụ của ơn sủng của Thiên Chúa dành cho các tín hữu.
Tại sao nhiều người không xin các linh mục chúc lành?
Cha Camilo Júnior, một nhà truyền giáo thuộc dòng Chúa Cứu Thế và là thành viên của ủy ban giới trẻ của Đền thờ Quốc gia cảnh báo rằng, việc không xin linh mục chúc lành phản ảnh một thực tế đó là nhiều người sẽ không còn xin cha mẹ mình chúc lành nữa.
“Xin chúc lành là một thói quen được cha mẹ dạy dỗ, vừa cho chính mình và cho gia đình của mình và cho các linh mục. Luôn luôn có những bà mẹ nói với con cái của mình “con hãy xin linh mục chúc lành”, và đứa bé đưa tay ra. Người nào không xin phúc lành nơi cha mẹ thì người đó sẽ ít bận tâm đến việc hỏi thăm cha mẹ mình”.
Do đó, đừng gạt bỏ việc xin các linh mục chúc lành và tham dự vào việc xức dầu do Thiên Chúa tặng ban. Và đừng quên cầu nguyện cho cha xứ của các bạn và các linh mục mà các bạn quen biết. Các linh mục là công cụ của Thiên Chúa giữa chúng ta, là sự phong phú mà Giáo hội ban cho chúng ta. Họ cần lời nguyện của chúng ta, và đó là cách mà chúng ta bày tỏ tấm lòng biết ơn vì các linh mục đã cống hiến cuộc đời mình cho dân Thiên Chúa, cho chúng ta.
Tác giả bài viết: G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2022
12 đặc điểm của Thánh Giuse mà mỗi người cha nên noi gương
12 đặc điểm của Thánh Giuse mà mỗi người cha nên noi gương
Hãy chiêm ngắm người cha trần thế của Chúa Giêsu để nhận ra vài lời khuyên cho các bậc làm cha.
“Với trái tim người cha”
Đây là một năm hoàn hảo để đọc Tông thư được Đức Giáo Hoàng Phanxicô soạn thảo nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày công bố chọn Thánh Giuse là Bổn mạng của Giáo hội Hoàn vũ. Tông thư được đặt tên là “Patris corde,” trong Tiếng Việt là: “Với trái tim người cha” (đây là cụm từ mở đầu tông thư). Năm Kính Thánh Giuse kéo dài đến ngày 8 tháng 12 năm 2021, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Khi đọc các sách Tin Mừng, chúng ta thấy khá ít tường thuật về Thánh Giuse. Tuy vậy, những tường thuật đó đủ để cho chúng ta thấy những nhân đức và những nét đặc trưng trong mối tương quan của ngài với Thiên Chúa, với Đức Trinh Nữ Maria và với Chúa Giê-su.
Trở nên một người cha tốt nhờ hiểu biết từ Thánh Giuse
Có bao giờ bạn tự hỏi làm thế nào để trở nên một người cha tốt nhờ vào gương sáng của Thánh Giuse? Trong bảng tóm tắt dưới đây, bạn sẽ tìm thấy 12 phẩm chất của Thánh cả Giuse có thể áp dụng vào cuộc sống của mỗi người cha:
- NGƯỜI “CÔNG CHÍNH”
Đối với người Do Thái, thành ngữ “người công chính” ít nhiều tương đương với việc gọi ai đó là thánh. Thánh sử Matthêu dùng nó để mô tả Thánh cả Giuse (Mt 1,19). Ngài là một người luôn tìm kiếm để thấu hiểu và sẵn sàng thực thi Thánh ý Thiên Chúa, thậm chí phải trả giá bằng sự đau khổ và hy sinh. Chẳng hạn, chúng ta thấy Người luôn tuân giữ Luật Môsê trong Lễ Tiến Dâng Chúa Hài Đồng tại Đền thờ (Lc 2: 22,27,39). Ngài cũng vâng lời với cách đáp trả bốn thị kiến trong những giấc mơ mà Ngài đã được mặc khải (x. Mt 1,20; 2: 13,19,22).
- NGƯỜI CHE CHỞ VÀ BẢO VỆ
Để bảo vệ Chúa Giêsu khỏi vua Hêrôđê, kẻ muốn giết Chúa Giêsu vì tin rằng Người sẽ chiếm đoạt ngai vàng của ông ta. Thánh Giuse quyết định chịu cảnh tha hương cùng Đức Maria và Chúa Hài đồng ở Ai Cập. Tại đó, ngài sẵn sàng sống như một người ngoại quốc trong khi là một người Do Thái (x. Mt 2,13-18) cho đến khi có điều kiện trở về quê hương Israel.
- BÌNH DỊ
Khi trở về từ Ai Cập, Thánh Giuse không hoàn toàn tin vào những gì vua Hêrôđê con có thể làm với Hài Nhi Giêsu. Vì thế, Ngài chọn một cuộc sống bình dị và không gây chú ý tại Nazareth – một ngôi làng nhỏ. Đối với người Do Thái, Galilê không phải là một nơi có thế giá: họ cho rằng “không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả” (Ga 7:52). Và chính Nathanael đã hỏi Chúa Giêsu, “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46) Thánh Cả Giuse chọn cuộc sống bình dị để tập trung vào một điều quan trọng: đó là Đấng Mêsia có thể hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc của Người.
- CON NGƯỜI HÀNH ĐỘNG
Thánh Giuse – một người thực tế, quyết đoán và giàu nghị lực. Ngài luôn phải đưa ra những quyết định khó khăn và quan trọng, chẳng hạn như, phải làm gì trong mối liên hệ giữa Ngài với Đức Trinh Nữ Maria khi phát hiện ra rằng Maria sắp sinh một con trai (Người là Con Thiên Chúa). Ngài phải lên kế hoạch cho chuyến đi Bêlem để đăng ký điều tra dân số trong khi Đức Maria đang mang thai. Và chúng ta có thể tưởng tượng Thánh Giuse đã phải thiết lập và tháo dỡ xưởng mộc của mình ở bất cứ nơi nào ngài đến để nuôi sống gia đình mình. Lòng nhiệt thành và quan điểm thiêng liêng của Thánh Giuse không mâu thuẫn với việc ngài là một con người hành động.
- KHIÊM NHƯỜNG
Thánh Cả Giuse chắc chắn đã cố gắng làm những gì có thể để chuẩn bị thật chu đáo cho sự giáng sinh của Hài nhi Giêsu, nhưng vì sự việc lại diễn ra tại Bêlem, nên thánh nhân phải chấp nhận rằng Đấng Messia đã phải sinh ra trong máng cỏ vì “không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc. 2: 7). Ngài thích nghi và cố gắng làm những gì tốt nhất cho Con Thiên Chúa trong cảnh huống này.
- YÊU THƯƠNG
Ở bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria, một người đàn ông có thể cư xử như thế nào khi hiểu hết được sự cao cả trong sứ mệnh của mình? Thánh nhân biết ngài đang chăm sóc Đức Mẹ một cách đặc biệt, Mẹ là mẹ của Chúa Giêsu – Đấng là Thiên Chúa thật và người thật. Ngài cũng ý thức rằng ngài mang trọng trách là cha nuôi của Đấng Messia. Chúng ta có thể thừa nhận Thánh Giuse là một người cha yêu thương, dịu dàng, gần gũi, ân cần, nhân hậu, vui vẻ, nhưng không làm giảm đi sức mạnh và quyền thế của mình.
- CAN ĐẢM
Khi biết Đức Maria sẽ là Mẹ Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse đã nhận lấy tư cách làm cha hợp pháp của Chúa Giêsu và làm theo lời sứ thần phán: “Ngươi phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu vì chính người sẽ cứu dân người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1:21).
- KHIẾT TỊNH
Thánh Giuse là người thuộc dòng dõi hoàng tộc trong dân Do Thái. Lẽ ra, ngài có thể có một cuộc hôn nhân đơm hoa kết trái và có những đứa con ruột. Nhưng Thiên Chúa có một dự định khác, và Thánh Giuse được chọn làm cha “nuôi” của Chúa Giê-su. Ngài sẽ giữ khiết tịnh, sẽ bảo vệ và cư xử với Đức Maria và Chúa Giêsu với lòng tôn trọng tuyệt đối. Và Thánh nhân sẽ hiến chính bản thân mình cho sứ mệnh này với tất cả trái tim của ngài. Đó là lý do tại sao Giáo hội đã đặt Thánh Giuse làm bổn mạng của các gia đình: bởi vì ngài biết không điều gì ngoài tình yêu đích thực nên ngự trị trong một gia đình.
- THỰC HIỆN QUYỀN THẾ
Tin Mừng Thánh Luca cho chúng ta biết rằng, sau sự kiện tại Đền Thờ ở Giêrusalem (con trẻ bị thất lạc và cuối cùng được tìm thấy), Thánh Gia trở về nhà và Chúa Giêsu “sống cùng cha mẹ Người” (Lc 2:51). Thánh Giuse thi hành quyền thế trong khi biết rằng ngài đang trong vai trò làm cha của Đấng là Thiên Chúa của ngài. Và sau đó kết quả được trưng dẫn trong chính Tin Mừng: “Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến.” (Lc 2:52).
- ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
Thánh Giuse phải làm việc, đi lại, nuôi sống gia đình hàng ngày, quan tâm khách hàng trong công việc làm mộc. Nhưng ngài không bao giờ sao lãng những giờ tương giao với Thiên Chúa: thánh nhân đặt câu hỏi, tìm kiếm câu trả lời và cách giải quyết, rồi ngài vâng theo. Ngài biết rằng trong ba người (Ngài, Đức Maria, Chúa Giêsu ), ngài là người cần Chúa nhất, và ngài không ngừng cầu nguyện. Trong cuộc sống hàng ngày, ngài tương giao trực tiếp với Chúa Giêsu và Mẹ Maria! Đó là lý do tại sao Thánh nhân là bậc thầy về đời sống nội tâm: Ngài có thể hướng dẫn chúng ta trong tình yêu thương.
- CON NGƯỜI LAO ĐỘNG
Qua Tin Mừng, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là con của một bác thợ mộc (xem Mt 13:55). Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng ngài không giàu có và không sống cuộc sống như một người thừa kế: ngài đã làm việc bằng chính đôi tay của ngài để nuôi sống gia đình Nazareth. Ngài được biết đến như một người lao động tuyệt vời.
- ĐÔI MẮT HƯỚNG VỀ THIÊN QUỐC
Thánh Giuse dâng mình cho những kế hoạch của Thiên Chúa, vì biết rằng điều quan trọng nhất trong cuộc đời là thi hành Thánh ý Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì sẽ đưa ngài về thiên quốc. Ngài đã dẫn đưa gia đình mình lên đường và là người đầu tiên trong 3 người hoàn tất cuộc hành trình đời mình. Thật hợp lý khi nghĩ rằng khi ngài qua đời, Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã ở cùng ngài. Đó là lý do tại sao ngày nay chúng ta có ngài là vị thánh bảo trợ cho một một cái chết lành; chúng ta cũng mong ước rời khỏi thế giới này như vậy, được bao quanh bởi Thánh Gia.
Tác giả: Dolors Massot
Chuyển ngữ: Viết Thanh