2022
Tại sao việc cử hành lễ Chúa Nhật trong năm lại quan trọng?
Tại sao việc cử hành lễ Chúa Nhật trong năm lại quan trọng?
Cho dù ở nhiều nơi, xã hội không công nhận Chúa Phục Sinh, thì Kitô hữu chúng ta vẫn vui mừng làm chứng cho niềm vui Chúa Phục Sinh và có bổn phận cử hành mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô vào mỗi Chúa Nhật.
Ngày Sabát
Ngày thứ bảy trong tuần là ngày Sabát, một ngày nghỉ ngơi long trọng, được dành cho Đức Chúa. Điều này nhắc nhớ buổi bình minh của công trình sáng tạo, khi Thiên Chúa dựng nên mọi thứ trong 6 ngày và sau đó Ngài nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Ngày Sabát cũng đánh dấu công trình của Đức Chúa giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Ngày Sabát là ngày nghỉ ngơi và nhàn rỗi. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc nghỉ ngày Sabát không nhất thiết có nghĩa là từ chối mọi việc làm và không có ngoại lệ. Thay vào đó, chúng ta phải nhận ra rằng người nghèo cũng cần phải được hưởng sự thư thái, nghỉ ngơi, và giúp đỡ. Vì vậy, ngày Sabát cũng là ngày làm điều tốt cho người khác.
Ngày của Đức Chúa
Ở nhiều khía cạnh, Giao ước mới hoàn thành và nâng cao giá trị của Giao ước cũ. Ngày Sabát vẫn diễn ra vào Thứ Bảy, nhưng Chúa Nhật là sự hoàn thành của ngày Sabát. Ngày Chúa nhật khác biệt rõ ràng với ngày Sabát vì Chúa nhật là “ngày thứ tám” liền sau ngày Sabát nên mang ý nghĩa một công trình tạo dựng mới được thực hiện nhờ sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã sống lại từ kẻ chết vào “ngày thứ nhất trong tuần” và do đó, đã thánh hiến một mệnh lệnh luân lý mới.
Chúng ta phải giữ ngày thánh của Đức Chúa bằng cách cử hành ngày Chúa nhật trong việc “thờ phượng bên ngoài dâng lên Thiên Chúa như dấu chỉ của một lợi ích chung liên quan đến mọi người’’ Việc thờ phượng vào ngày Chúa nhật hoàn thành mệnh lệnh luân lý của Giao Ước cũ, lấy lại chu kỳ và tinh thần của luật đó, bằng cách hàng tuần tôn vinh Đấng Tạo hóa và Đấng Cứu Chuộc của dân Ngài. (GLCG 2176).
Chúa Nhật Thánh Thể
Việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật, ngày dành riêng cho Đức Chúa, là trọng tâm của đời sống Giáo Hội. Khi cử hành Thánh Thể vào Chúa Nhật, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Theo cách này, mỗi Chúa nhật trong năm là một lễ Phục sinh nhỏ.
Các tín hữu quy tụ lại với nhau vào mỗi Chúa nhật và cử hành trong phụng vụ những gì Chúa Kitô đã thực hiện, Người là ai, Người đã dạy những gì, và Người đang làm gì qua chúng ta ngày nay. Vì vậy, chúng ta đến nhà thờ vào mỗi Chúa nhật, cũng như những ngày lễ buộc.
Như Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng, “Bạn không thể cầu nguyện ở nhà giống như ở nhà thờ, nơi có cộng đoàn thờ phượng, nơi những lời cầu xin được cất lên với Thiên Chúa như từ một trái tim vĩ đại, và là nơi còn có điều gì đó hơn thế nữa: sự đồng tâm nhất trí, sự liên kết của đức ái, lời cầu nguyện của các linh mục”.
Chúa nhật Lễ Buộc
Người Công giáo có bổn phận tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc khác. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống ân sủng mà chúng ta hằng khao khát. Trừ khi được miễn chuẩn vì một lý do nghiêm trọng chẳng như bệnh nặng, chăm sóc trẻ sơ sinh, hoặc do vị mục tử cho phép khi có lý do chính đáng, còn ngoài ra, chúng ta sẽ phạm tội trọng nếu không tham dự lễ Chúa Nhật hoặc các ngày lễ buộc, ví dụ như lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời…
Vì chẳng thể tự cứu mình, do đó, chúng ta cần anh chị em của mình, và mỗi chúng ta đều cần nhau trong Đức Kitô. Chúng ta phải hiện diện trong thánh lễ để cầu nguyện như một cộng đoàn Thánh Thể. Trong trường hợp thiếu linh mục thì việc tín hữu quy tụ để cử hành phụng vụ Lời Chúa và cầu nguyện chung với nhau là điều rất quan trọng cần thiết.
Một ngày của Ân sủng và Nghỉ ngơi
Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy sau công trình tạo dựng. Vì vậy, Ngày của Đức Chúa, sự hoàn thành của Ngày Sabát, phải được đánh dấu bằng việc tận hưởng “một thời gian đầy đủ để nghỉ ngơi và nhàn rỗi, để vun trồng đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo của mình” (GLCG 2184).
Bao nhiêu có thể, chúng ta phải hạn chế “dấn thân vào các việc lao động hoặc các hoạt động nào ngăn cản việc phụng tự phải dành cho Thiên Chúa, ngăn cản niềm vui riêng trong ngày của Chúa, ngăn cản việc thực thi các công việc từ thiện và ngăn cản sự thư giãn thích hợp về tinh thần cũng như về thể xác” (GLCG 2185). Tuy nhiên, chúng ta không nên xao nhãng bổn phận đối với gia đình. Như Thánh Augustinô đã dạy, “Đức ái của sự thật tìm kiếm sự nhàn hạ thánh thiện nhưng sự cần thiết của đức ái chấp nhận một công việc chính đáng”.
Giáo hội cũng dạy rằng, “Khi tôn trọng sự tự do tôn giáo và công ích của mọi người, các Kitô hữu phải cố gắng làm cho các ngày Chúa nhật và các ngày lễ của Hội Thánh được luật pháp công nhận. Họ phải nêu gương công khai cho mọi người về việc cầu nguyện, sự tôn trọng và sự vui tươi, và phải bảo vệ các truyền thống của mình như một đóng góp quý báu cho đời sống tinh thần của xã hội nhân loại” (GLCG 2188).
Cho dù ở nhiều nơi, xã hội không công nhận Chúa Phục Sinh, thì Kitô hữu chúng ta vẫn vui mừng làm chứng cho niềm vui Chúa Phục Sinh và có bổn phận cử hành mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô vào mỗi Chúa Nhật.
Will Wright
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
2022
Một vài nét về nguồn gốc tháng hoa và việc dâng hoa
Một vài nét về nguồn gốc tháng hoa và việc dâng hoa
Vào những thế kỷ đầu, Hoa được coi là Nữ thần của mùa Xuân. Vì thế, tháng Năm, tháng khởi đầu Mùa Xuân, người Rôma có tập tục tổ chức ngày lễ tôn kính Hoa cũng là tôn kính Nữ thần mùa Xuân.
Ảnh: giaoxutanviet.com
1/ Một vài nét về nguồn gốc tháng hoa và việc dâng hoa:
Vào những thế kỷ đầu, Hoa được coi là Nữ thần của mùa Xuân. Vì thế, tháng Năm, tháng khởi đầu Mùa Xuân, người Rôma có tập tục tổ chức ngày lễ tôn kính Hoa cũng là tôn kính Nữ thần mùa Xuân.
Các tín hữu Công giáo đã thánh hóa tập tục trên khi tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Từ thế kỷ XIII, vào tháng Năm, một vài xứ đạo ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã tổ chức những cuộc rước hoa đem đến dâng kính Đức Mẹ. Nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác các bài ca dùng màu sắc và hương hoa để diễn tả tâm tình con thảo ca tụng các nhân đức cao quý của Đức Mẹ.
Các linh mục dòng Tên tại Roma đã tổ chức tháng hoa kính Đức Mẹ tại lưu xá các sinh viên của Hội Dòng. Khi trở về, các sinh viên này đã đem truyền bá việc tổ chức Tháng Hoa tại quê hương của họ. Vì thế, tập tục này được phát triển tại nhiều nơi.
Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.
Thánh Philipe Nêri, vào ngày 1 tháng 5, đã quy tụ các trẻ em chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Người dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.
Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi buổi chiều đều có chầu Mình Thánh Chúa và hát mừng Đức Mẹ. Từ đó, việc tổ chức các hoạt động phượng tự đặc biệt trong tháng Đức Mẹ được nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.
Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 19, tất cả các giáo xứ trong Giáo Hội đều tổ chức long trọng việc mừng kính Đức Mẹ trong tháng Năm, tháng kính Đức Mẹ. Các nhà thờ có các linh mục giảng thuyết về lòng sùng kính Đức Mẹ. Cha Chardon đã có nhiều công trong việc này. Không những Người làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.
2/ Giáo huấn của Hội Thánh về việc tôn sùng Đức Mẹ:
Năm 1815, Đức Thánh Cha Piô VII đã khuyến khích việc tôn sùng Đức Maria trong tháng Năm.
Năm 1889, Đức Thánh Cha Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức tôn kính Đức Mẹ.
Đức Thánh Cha Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, nhấn mạnh “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.
Năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành Tông huấn đề cao lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria trong tháng 5. Qua đó, Người cũng nêu lên những giá trị cao quý của việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số I).
Đức Thánh Cha mở đầu tông huấn bằng những lời diễn tả tâm tình Tháng kính Đức Mẹ thật đáng để chúng ta ghi nhớ:
“Tôi lấy làm vui mừng và an ủi bởi thói quen đạo đức liên kết với Tháng Năm, là tháng dành dâng kính Đức Trinh Nữ và mang lại nhiều lợi ích cho dân Kitô giáo. Bởi vì một cách đúng đắn, Đức Maria được xem như một con đường mà qua đó chúng ta được dẫn tới Chúa Kitô, người nào gặp gỡ Đức Maria thì không thể không gặp gỡ Đức Kitô như vậy. Vì lý do nào khác mà chúng ta lại không tiếp tục trở về với Đức Maria để tìm kiếm Đức Kitô trong cánh tay của Mẹ, tìm gặp Đấng Cứu Độ chúng ta trong, qua và với Mẹ? Con người cần phải trở về với Đức Kitô trong thế giới đầy lo âu và nguy hiểm, thôi thúc bởi trách nhiệm và nhu cầu cấp bách của trái tim con người hầu tìm thấy một nơi ẩn trú an toàn và một mạch nước sự sống siêu việt”.
Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã đặt lại chỗ đứng của việc tôn kính Đức Mẹ Maria, nghĩa là việc tôn kính Mẹ Maria phải được đặt vào trong tương quan của mầu nhiệm ơn cứu rỗi, việc tôn kính Đức Mẹ phải được đi đôi với những mầu nhiệm trong cuộc đời của Đức Kitô. Việc tôn kính Mẹ Maria trong tháng Năm là một truyền thống tốt đẹp, nhưng nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, cùng đích của mọi việc tôn thờ là chính Chúa. Trong niềm hiếu thảo đối với Mẹ Maria, người Kitô hữu luôn được mời gọi để không ngừng kết hiệp với Chúa. Người Kitô hữu không nhìn lên Mẹ Maria như một Nữ Thần, mà là một tín hữu mẫu mực, một người tín hữu đã tiên phong trong cuộc hành trình đức tin.
Việc sùng kính Đức Maria còn bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi vì: nhờ Người, với Người và trong Người, mọi vinh quang, danh dự đều quy về Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, những biểu hiện tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria cần phải dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
3/ Giáo huấn của Hội Thánh về việc đạo đức bình dân:
Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI đề cao tầm quan trọng của lòng đạo đức bình dân nhưng Người nói lòng đạo đức bình dân luôn luôn phải được thanh tẩy.
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 8 tháng 4 năm 2011, dành cho Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh, Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 đề cao lòng đạo đức bình dân như một yếu tố quan trọng trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng tại đại lục này.
Ngỏ lời với gần 50 Hồng Y, Giám Mục và các Linh Mục chuyên gia, Ðức Thánh Cha khẳng định rằng lòng đạo đức bình dân là một môi trường gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và là một hình thức biểu lộ đức tin của Giáo Hội. Vì thế, “không thể coi yếu tố này như một cái gì phụ thuộc trong đời sống Kitô, vì nếu làm như thế có nghĩa là quên mất tầm quan trọng tối thượng hoạt động của Chúa Thánh Linh và sáng kiến nhưng không của tình yêu Chúa”.
Trong bài diễn từ, Đức Thánh Cha đã nhắc đến việc đạo đức bình dân như “một nơi chốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, và một cách để bầy tỏ đức tin của Giáo Hội.” Đối với Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, nếu việc đạo đức này được “quy hướng cẩn thận và được kèm theo đầy đủ” bằng các lối diễn tả khác của lòng mộ đạo bình dân “sẽ cho phép có một cuộc gặp gỡ có kết quả tốt với Thiên Chúa, một sự tôn thờ Thánh Thể, một lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria.” Điều này cũng cho phép trau dồi một “lòng ái mộ người kế vị Thánh Phêrô và một ý thức mình thuộc về Giáo Hội.” Tất cả những điều ấy cũng giúp ích cho việc rao giảng Tin Mừng, thông truyền đức tin, để đưa các tín hữu đến gần các bí tích, củng cố những liên hệ bằng hữu, đoàn kết gia đình và cộng đoàn, cũng như gia tăng tình liên đới và thực thi bác ái”.
Ðức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng “cần làm sao để đức tin là nguồn mạch chính của lòng đạo đức bình dân, để những việc đạo đức này không phải chỉ là một biểu lộ văn hóa của một miền nào đó. Hơn nữa, lòng đạo đức bình dân cần ở trong quan hệ chặt chẽ với Phụng vụ thánh, phụng vụ này không thể bị thay thế bằng một biểu hiện tôn giáo nào khác.”
Ðức Thánh Cha không quên ghi nhận “có một số hình thức sai trái của lòng đạo đức bình dân, chúng không cổ võ sự tham gia tích cực trong Giáo Hội, chúng tạo nên sự xáo trộn và có thể chỉ giúp thực hành các việc đạo đức hoàn toàn bề ngoài mà không ăn rễ sâu nơi đức tin nội tâm sinh động”. Trong một bức thư gửi cho các chủng sinh, Người viết: “Lòng đạo đức bình dân có thể đi tới thái độ vô lý và chỉ hời hợt bề ngoài. Tuy nhiên, nếu hoàn toàn loại bỏ lòng đạo đức bình dân thì thật là điều sai lầm. Qua lòng đạo đức này, đức tin đi vào tâm hồn con người, trở nên thành phần tình cảm, phong phục và cảm thức sống chung của họ. Vì thế, lòng đạo lức bình dân luôn luôn là một gia sản lớn của Giáo Hội, nhưng chắc chắn cũng luôn phải thanh tẩy lòng đạo đức này…”
4/ Việc dâng hoa tại Việt Nam:
Để bày tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ, người tín hữu Việt Nam thực hành nhiều việc đạo đức bình dân như: rước kiệu Đức Mẹ, lần chuỗi Mân Côi, dâng hoa…
4.1) Ý nghĩa của việc dâng Hoa kính Mẹ.
Để bày tỏ lòng yêu mến, kính trọng hoặc biết ơn, người ta thường tặng hoa cho nhau. Cũng vậy, người công giáo cũng dâng hoa để tỏ lòng yêu mến, tôn kính và biết ơn đối với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh…
4.2) Ý nghĩa các mầu hoa:
Các màu hoa vừa tượng trưng cho các nhân đức của Đức Mẹ vừa diễn tả các tâm tình, các ước nguyện của con cái muốn dâng lên Mẹ.
– HOA TRẮNG:
+ Ý nghĩa: biểu trưng sự trong sạch khiết trinh nơi Mẹ.
+ Tâm tình: Xin Mẹ giúp ta gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, sạch tội.
– HOA HỒNG:
+ Ý nghĩa: diễn tả lòng mến nồng nàn mà Mẹ dành cho Chúa.
+ Tâm tình: Xin Mẹ dạy ta biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em như Chúa đã yêu ta.
– HOA VÀNG:
+ Ý nghĩa: tượng trưng niềm tin sắt đá của Mẹ.
+ Tâm tình: Xin Mẹ dạy chúng ta sống phó thác, tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ.
– HOA XANH:
+ Ý nghĩa: tượng trưng cho niềm cậy trông và hy vọng.
+ Tâm tình: Xin đừng để ta thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống.
– HOA TÍM:
+ Ý nghĩa: tượng trưng những đau thương, bệnh tật, tang tóc, cô đơn.
+ Tâm tình: Xin Mẹ dạy ta biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ.
5/ Cấu trúc một buổi dâng hoa truyền thống:
Nghiên cứu lại vãn Hoa Đức Mẹ ngày xưa, ta thấy bố cục của buổi dâng hoa rất rõ ràng. Thông thường cấu trúc một buổi dâng hoa gồm 3 phần.
Phần I: Sau khi cộng đoàn rước tượng Đức Mẹ vào nhà thờ (hoặc lễ đài – nếu cử hành thánh lễ ngoài trời), đặt tượng lên toà thì bắt đầu cất tiếng hát.
+ Bái vịnh: Ngũ bái thờ lạy Ba ngôi Thiên Chúa, tôn kính Đức Mẹ, Thiên thần và các Thánh.
Phần II: Gồm:
+ Ca ngợi các nhân đức của Đức Mẹ.
+ Tiến hoa ngũ sắc: Từng đôi con hoa đỏ, trắng, vàng, tím, xanh.
+ Dâng 7 loài hoa quí (quì, sen, lê, cúc, mai, mẫu đơn, lan) để ca tụng Đức Mẹ.
Phần III: Cảm tạ – Tạ ơn Chúa. Tạ ơn và cầu khẩn với Đức Mẹ
6/ Một mẫu Vãn Hoa Dâng Kính Đức Mẹ
Nghiên cứu lại vãn Hoa Đức Mẹ tháng năm xưa, ta thấy bố cục của buổi dâng hoa rất rõ ràng : Khởi đầu là phần khai mạc, rồi đến ngũ bái (Chúa Cha, Chúa Con, Thánh Thần, Đức Mẹ và chư thánh), Năm Sắc Hoa (Đỏ, Trắng, Vàng, Tím, Xanh) rồi Bảy Hoa (Quỳ, Sen, Lê, Cúc, Mai, Lan và Mẫu Đơn). Sau đó là phần diễn ý và Kết hoa.
- Khai Hoa
Lạy ơn Đức Mẹ Chúa Dêu,
Chúng tôi trông cậy cùng kêu van Bà.
Xin hằng bầu cử trước toà,
Tỏ ra lòng Mẹ rất là yêu con.
Trong nơi khổ ải chon von,
Cách xa mặt Mẹ hãy còn lầm than.
Chúa Con xưa xuống thế gian,
Chẳng từ bỏ kẻ gian ngoan tội tình.
Lại cam chịu khổ chịu hình,
Vì loài người thế liều mình đền xong.
Mẹ thương cũng hợp một lòng,
Vâng theo ý Chúa thông công như vầy.
Con xin Mẹ rất nhân thay,
Chớ bao ngoảnh mặt làm khuây chẳng nhìn.
Xin hằng dạy dỗ con liên,
Cùng hằng yên ủi giữ gìn thương yêu.
Con trông Mẹ có phép nhiều,
Muôn vàn thần thánh cũng đều ngửa trông
Chúng con còn chốn long đong
Như người vượt bể mênh mông giữa vời.
Mẹ như sao ngự giữa trời,
Chính bên phương bắc các ngôi sao chầu.
Xin soi dẫn để con theo,
Kẻo con lạc lối sa vào trầm luân.
Đến sau qua khỏi cõi trần,
Con trông cậy Me rộng phần lòng thương.
Liền đem vào cửa thiên đàng,
Được xem thấy Chúa cực sang cực lành.
Cùng xem thấy Mẹ đồng trinh
Hưởng muôn muôn phúc thần hình thảnh thơi.
Gồm đầy mọi sự tốt vui,
Chẳng cùng chẳng hết đời đời. Amen.
- Ngũ Bái
Chúng tôi mọn mạy phàm hèn,
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ.
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa,
Rộng ban giãi tấm lòng thơ trước toà.
- Chúng tôi lạy Chúa Cha nhân thứ
Đã giữ lời phán hứa rủ thương.
Dựng nên rất thánh Nữ vương,
Gây nền mọi phúc treo gương muôn đời.
- Chúng tôi lạy Ngôi Hai xuống thế,
Cứu loài người chẳng để cho hư.
Lại thương trối Mẹ nhân từ,
Để loài con mọn được nhờ mọi ơn.
- Chúng tôi lạy Thánh Thần Chúa cả.
Cho Đức Bà phúc lạ ơn đầy,
Cùng lòng rộng rãi nhân thay.
Để con mọn được ăn mày phần thương.
- Chúng tôi lạy Nữ vương Thánh mẫu,
Chúa Ba Ngôi yêu dấu cách riêng.
Trên trời dưới đất cầm quyền,
Mọi loài đáng phải không khen bội phần.
- Chúng tôi lạy Thiên thần các thánh
Đang vui mừng trong tính Chúa Dêu.
Đẹp lòng Đức Mẹ thương yêu
Vốn hằng chầu chực xin điều ngợi khen.
III. Dâng Hoa
Chúng con bồ liễu phận hèn,
Ơn thương đã được bước lên lạy mừng.
Đoá hoa khóm nóm tay bưng.
Tấc niềm cần bộc xin từng tỏ ra.
Đền vàng quỳ trước dâng hoa
Trông lên tháp báu thấy toà Ba Ngôi
Mười hai nhân đức gương soi,
Kính dâng Đức Mẹ đời đời ngửa trông.
Vì xưa Thiên Chúa rủ lòng,
Chọn làm Thánh Mẫu bởi dòng thánh quân
Ngành vàng lá ngọc khác trần,
Sinh Ngôi Thánh tử đồng thân trọn đời.
Giúp công cứu chuộc đền bồi,
Ơn trên thông xuống cho loài sinh linh.
Tràng châu mở cảnh tràng sinh,
Trồng cây cực tốt cực lành Ro sa.
Đượm nhuần vũ lộ thi – a, (gratia)
Bốn mùa hoa nở rum ra lạ lùng.
3.1 Năm Sắc Hoa
Nhiệm thay hoa đỏ hồng hồng,
Nhuộm thêm Máu thánh thơm chung lòng người.
Vì thương Con gánh tội đời,
Chịu như dao sắc thâu nơi lòng mình.
Xinh thay hoa trắng tốt lành,
Ví cùng nhân đức đồng trinh Đức Bà.
Nguyên tuyền hơn ngọc hơn ngà,
Sáng trong hơn tuyết cùng là hơn gương.
Quí thay này sắc hoa vàng
Sánh nhân đức mến Bà càng trọng hơn.
Một niềm tin kính nhơn nhơn,
Vững vàng cậy mến trong cơn vui sầu,
Dịu thay hoa tím càng màu.
Ý trên bà những cúi đâu vâng theo.
Bằng lòng chịu khó trăm chiều,
Khiêm những nhịn nhục hằng yêu hãm mình.
Lạ thay là sắc hoa xanh.
Mừng Bà nhân đức trọn lành cực cao.
Dờn dờn sau trước một màu,
Quản chi sương nắng dãi đầu ngày đêm.
Hoa năm sắc đã giãi niềm,
Lại trưng cổ điển dâng thêm kinh đề.
3.2 Bảy Loại Hoa
Đức Bà thờ Chúa một bề,
Hoa quì chăm chắm hướng về thái dương.
Tội Nguyên không nhiễm khác thường.
Hoa sen trên nước chẳng vương bùn lầy.
Lòng đầy thánh sủng giáng lâm,
Hoa lê tuyết đượm mầu thơm khác vời.
Tuổi cao phúc đức càng đầy,
Lạ lùng hoa cúc nở ngày vãn thâu.
Toà cao thần thánh kính chầu,
Hoa mai đỉnh núi nở đầu trăm hoa.
Muôn loài cám mến âu ca,
Hoa đơn phú quý gần xa vui vầy.
Các ơn Chúa phó trong tay,
Hoa lan vương giả hương bay ngạt ngào.
3.3 Diễn ý hoa đã dâng
Bảy hoa mượn chỉ nghĩa mầu,
Hình dong ơn phúc kính tâu ngợi mừng.
Hợp cùng năm sắc điều dâng,
Dường mười hai ngọc kết tầng triều thiên.
Còn muôn phúc cả ơn riêng,
Trăm hoa khôn khá sánh khen được nào.
Chúng con đang chốn phong đào,
Mong gieo hạt giống e vào bụi gai.
Cậy trông Đức Mẹ nhân thay,
Rủ thương vì chúc tụng này cùng hoa.
Lòng thốn thảo, đóa linh pha,
Xin điều dâng tiến trước toà Ba Ngôi.
Diện tiền cầu khẩn thay lời,
Đằm đằm mưa móc trên trời tưới liên.
Thêm ơn vun xới cách riêng,
Ruộng thiêng sạch cỏ mọc lên chốn lành.
Hoa nhân trái phúc đủ ngành,
Đời này dùng đủ lại dành đời sau.
- Kết Hoa
Tấc thành đã được giãi tâu,
Dám xin hợp ý khấu đầu tạ ơn.
Đội ơn Chúa rất khoan nhân,
Đã cho con mọn kính dâng hoa này.
Đội ơn Thánh tử ngôi Hai,
Đã cho con mọn được thay thảo thờ.
Đội ơn Đức Mẹ nhân từ
Đã cho con mọn ngây thơ ngợi mừng
Tấm lòng xin với hoa dâng,
Giãi niềm thảo kính vốn từng thần hôn.
Chúng con dâng cả xác hồn,
Xin thương chịu lấy chúng con đừng từ
Ban ơn cho chúng con nhờ,
Được lòng sốt sắng phượng thờ cho liên.
Đời này được sự bằng yên,
Đời sau lại được ngợi khen hát mừng.
Amen.
(Nguồn : gxdaminh.net)
2022
Đức tin hay mê tín, một lựa chọn
Đức tin hay mê tín, một lựa chọn
Ở thời buổi hiện đại, đức tin và tôn giáo thường bị cho là mê tín phi lý, ngược với lý trí và khoa học. Đức tin có thực sự không tương thích với lý trí không? Điều gì làm đức tin khác với mê tín?
Một số thực hành tôn giáo đối với chúng ta có vẻ nghi ngờ, nhưng nó có thể che giấu một đức tin chân chính | © Marie Stas / Cathobel
Đức tin có phải mê tín không? Nếu câu hỏi là khiêu khích thì nó nhắm gởi đến các tín hữu qua những lời chỉ trích hiện đại. Tuy nhiên, một câu hỏi thích đáng vì các hình thức mê tín đôi khi có thể lén lút len vào việc giữ đạo, như cỏ lùng xen vào lúa tốt. Vậy làm thế nào để phân biệt mê tín với đức tin?
Chỉ trích các tôn giáo
Vào cuối thời Trung cổ của kitô giáo, thuật ngữ “mê tín dị đoan”, “tôn giáo của những người thờ thần tượng” nhằm đối ngược với “đức tin chân chính”, chung chung có nghĩa những người thờ đa thần, được cho là thờ thần giả trong các vật linh thiêng. Sau này, chính người công giáo bị một số người tin lành buộc tội là thờ thần tượng, đặc biệt là thờ Trinh Nữ Maria và các thánh, kể cả tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, tất cả những điều này bị cho là mê tín dị đoan.
Tóm lại, trong bối cảnh kitô giáo thời Trung cổ và Phục hưng, đức tin được phân biệt rõ ràng với mê tín dị đoan, nếu chỉ xét theo đối tượng tương ứng của chúng: một bên là Thiên Chúa thật, một bên là các thần tượng.
Lý trí và mê tín
Vào thế kỷ 17, sự ra đời của triết học duy lý đã dẫn đến một sự phân biệt khác: phân biệt giữa khoa học và mê tín. Đối với những triết gia được gọi là “Khai sáng” và những người kế tục họ, kiến thức về tự nhiên phải dựa trên quan sát các hiện tượng tự nhiên và lý trí, trái ngược với mê tín, nghĩ rằng mình biết nhưng lại dựa trên niềm tin phi lý trong các lực siêu nhiên. Ví dụ: giông bão là hiện tượng mà nguyên nhân vật lý có thể xác định được, chứ không phải do một vị thần đập búa vào đe…
Với chương trình phát triển một tôn giáo phải phù hợp với lý trí, một số triết gia hiện đại – như Spinoza hay Hegel – đẽo gọt đức tin tôn giáo, đặc biệt là kitô giáo xem đây là mê tín phi lý. Đối với triết gia Feuerbach (1804-1872), niềm tin vào Thượng đế là kết quả của một quá trình mà con người, bị tác động bởi tính hữu hạn, phóng sự khao khát vô hạn của mình lên một thực thể vô hạn tưởng tượng. Triết gia Nietzsche lấy ý tưởng này làm ý tưởng của ông, còn triết gia Marx và Freud sẽ phát triển theo các phê phán về tôn giáo của riêng họ.
Một đức tin hợp lý
Các tư tưởng gia của chủ nghĩa vô thần hiện đại này sẽ làm lung lay đức tin kitô giáo lâu dài. Vì thế các Giáo hội khác nhau ở phương Tây, đặc biệt là các mục tử và thần học gia của họ, sẽ phải đương đầu với một thách thức chưa từng có: làm thế nào để giải thích về đức tin khi nền tảng đầu tiên của nó, là chính sự hiện hữu của Thiên Chúa, được đặt vấn đề một cách triệt để?
Một công việc dài hơi tiếp theo, được đánh dấu bởi nhiều cuộc tranh luận và tranh chấp giữa những người ủng hộ việc hợp lý hóa kitô giáo, những người không còn giữ lại các khía cạnh thuần túy của con người, và những người ủng hộ một đức tin xây dựng trên thẩm quyền duy nhất của “Thiên Chúa mạc khải.”
Đây được gọi là “cuộc khủng hoảng theo chủ nghĩa hiện đại”, cuối cùng dẫn đến sự cân bằng mới giữa khoa học, lý trí và đức tin – một cân bằng mà ngày nay chúng ta vẫn còn gặt hái thành quả.
Về đức tin, một cách chính xác, Giáo hội công giáo đã tái khẳng định, nó không chống lại lý trí, nhưng ngược lại giả định nó. Chỉ những sinh vật được ban tặng cho lý trí, cũng như ý chí và tự do, mới có thể nhận được mặc khải của Chúa qua đức tin.
Một điều vượt ra ngoài lý trí
Từ Công đồng Vatican I (1870-1871), Giáo hội đã long trọng khẳng định, trong một chừng mực nào đó một sự hiểu biết tự nhiên về Thiên Chúa là có thể. Lý trí của con người có thể nhận ra rằng một “nguyên lý” siêu việt là nguồn gốc của vạn vật, dù khi sự siêu việt này vượt quá khoa học nhân văn của chúng ta.
Nói cách khác, lý trí có thể nhận ra… một cách hợp lý rằng có một điều vượt ra ngoài lý trí.
Đây là khi đức tin can thiệp: đón nhận mạc khải của Chúa vô danh, Đấng được biết nơi Chúa Giêsu-Kitô. Đức tin, theo nghĩa này, cho phép lý trí vượt qua chính nó mà vẫn hoàn thiện chính nó. Đức tin mang lại một điều gì đó mà lý trí không thể tự cho mình: một mối quan hệ sống động với Thiên Chúa hằng sống, vượt ra ngoài phạm vi lý trí của con người, nhưng không từ chối lý trí.
Mê tín phi lý
Trong quan điểm này, đức tin do đó không phi lý. Theo nghĩa này, nó rõ ràng nổi bật so với mê tín, giống như một phép ảo thuật. Tự điển Le Petit Robert, quyển tự điển tham khảo của tiếng Pháp, định nghĩa mê tín như sau: “Hành vi phi lý trí, nói chung là theo chủ nghĩa hình thức và quy ước, đối với điều thiêng liêng; thái độ tôn giáo coi như vô tích sự”. Định nghĩa này, trong số rất nhiều định nghĩa khác tiếp nối nhau trong ba thế kỷ, xứng công là đã tổng hợp được.
Mê tín dị đoan thực sự là một “thái độ tôn giáo”, theo nghĩa nó liên quan đến điều “thiêng liêng, nhưng điều thiêng liêng này luôn luôn không được xác định rõ ràng. Đó có thể là một “siêu nhiên” ẩn danh, số phận, may rủi, tình cờ. Nhưng cũng là của một vị thần hoặc một Thiên Chúa… mà người ta cố gắng làm cho thuận lợi, hoặc ngược lại tìm cách tránh xa, qua cử chỉ, nghi thức, qua lời nói có sẵn để dùng. Một cách dùng thường được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà không cần đặt vấn đề về cơ sở của nó.
Lô-gích cho và nhận
Lô-gích này thường gắn liền với niềm tin, mê tín cũng có thể phát sinh từ sự không tin tưởng. Khi không còn đức tin vào Chúa, xu hướng tôn giáo của con người đôi khi hướng đến những điều trần tục nhất: chơi xổ số ngày thứ sáu 13, tránh đi dưới cái thang, hoặc chạm vào gỗ để mọi việc diễn ra tốt đẹp.
Mê tín cũng có thể được phản ánh qua các thực hành rất phức tạp, được tìm thấy trong các nền văn minh quá khứ, và ngày nay. Khi đó nó thể hiện một quan niệm ma thuật trong mối quan hệ của con người với thế giới siêu nhiên hoặc thần thánh. Bằng cách thực hiện một số nghi thức nào đó, đặc biệt là các việc hiến tế, chúng ta nghĩ chúng ta đang hành động trên thần thánh, nhưng đó là phản ứng theo các yêu cầu đủ loại của chúng ta, theo lô-gích cho và nhận. Đôi khi nghi thức còn được tự nó cho là có hiệu quả, một cách tự động tạo thuận lợi cho “thần thánh”.
Làm chủ so với tin tưởng
Chính thái độ này mà Kinh thánh gần với việc thờ ngẫu tượng, làm cho sức mạnh lời cầu xin của một nam thần hay nữ thần theo hình ảnh con người, để phục vụ ý muốn của con người. Ham muốn quyền lực, giàu có, chiến thắng kẻ thù. Do đó, một thái độ hoàn toàn trái ngược với thái độ tin vào Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, của I-saác và của Gia-cốp… và vào Chúa Giêsu-Kitô.
Khi mê tín cho rằng có thể làm chủ các sức mạnh thần thánh hoặc các lực đen tối cho các mục đích riêng của mình, thì đức tin là tin tưởng vào hành động của Chúa trong chúng ta và cho chúng ta. Khi mê tín muốn bẻ cong đấng siêu nhiên hoặc Thiên Chúa hằng sống theo ý muốn của mình thì đức tin là buông bỏ, là phó mình vào ý chí tình yêu của Đấng đã giải thoát con người, giải thoát chính mình để đi đến hiệp thông với Chúa.
Bề ngoài và đức tin đích thực
Chúng ta đừng nhầm lẫn: mê tín hiểu theo nghĩa này không dành riêng cho các ngẫu tượng không kitô giáo. Cũng như đức tin chân chính có thể được sống bên ngoài kitô giáo. Các hình thức mộ đạo có thể che giấu một hình thức mê tín dị đoan, cũng như một số thực hành mà chúng ta nghi ngờ lại có thể nuôi dưỡng một đức tin chân chính. Chỉ một mình Chúa mới nhìn thấy những gì đang diễn ra trong các tâm hồn, kể cả tâm hồn chúng ta.
Sự cám dỗ mê tín và thờ ngẫu tượng xuyên suốt lịch sử Israel, cũng như của Giáo hội và của tất cả mọi người. Đức tin chúng ta cần thanh tẩy thường xuyên hay đúng hơn để chính mình được thanh tẩy bởi Đấng duy nhất có thể lấp đầy tâm hồn chúng ta, mà ơn vượt quá vô hạn bất cứ điều gì chúng ta có thể mong muốn. Điều quan trọng, và điều này phụ thuộc vào chỉ một mình chúng ta, là chúng ta chọn tin tưởng vào Chúa hay muốn Chúa phục vụ chúng ta.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2022
Lịch sử, ý nghĩa và lòng tôn kính Đức Mẹ trong tháng 5
Lịch sử, ý nghĩa và lòng tôn kính Đức Mẹ trong tháng 5
Có lẽ, không một ai trên Đất Việt là người Công Giáo mà lại không biết đến tháng Năm là tháng Hoa dâng kính Mẹ.
Thật vậy, sinh hoạt tôn giáo tại các giáo xứ từ Bắc –Trung –Nam, cứ mỗi dịp tháng Năm về, ấy là lúc muôn con tim dạo rực hướng về Mẹ Maria như một ngọn hải đăng để tỏ lòng tôn kính, mến yêu.
Trong số vô vàn cách tỏ bày lòng tôn kính đối với Đức Mẹ nơi con dân Nước Việt, thì lòng đạo đức bình dân như: dâng hoa kính mẹ; rước kiệu Mẹ; lần chuỗi Mân Côi; rồi những bài thánh ca hết sức dễ thương được cất lên để ton vinh Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào tháng Hoa. Tháng Hoa đối với Giáo Hội Công Giáo mang một ý nghĩa đặc biệt vì nó được dành riêng để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Trước tiên, xin được khởi đi từ lịch sử của tháng Hoa, để thấy được diễn tiến của Giáo Hội trong việc sùng kính này.
1. Gốc tích tháng Hoa
Mới đây, dịp phong thánh cho hai vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vừa qua tại Rôma, qua màn hình trực tiếp, chúng ta đều thấy thời tiết không còn lạnh lắm qua cách ăn mặc của người dân khắp nơi đổ về. Thời tiết lúc này bên Rôma cũng giống như khí tiết của Việt Nam tại các vùng Bắc Bộ. Khí hậu lúc này không còn rét đậm rét hại, cái rét mà nhiều người diễn tả: “rét cắt da cắt thịt”. Vì thế, cây cối trơ trụi và không phát triển là bao.
Từ những nét đặc trưng của khí hậu như thế, nên ngay từ những thế kỷ đầu, tại Rôma, thời điểm này, người ta tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên, bằng những cuộc rước linh đình để tôn kính Hoa là nữ thần của mùa Xuân.
Người Công Giáo thời điểm đó đã tôn giáo hóa ý nghĩa này và thánh hóa tập tục đó bằng cách rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng tốt tươi…
Ở nhiều nơi, người ta rước những cành lá có nụ, có hoa ở đầu cành, gọi là “Rước xanh”. Những cành hoa, lá, được đưa về nhà thờ trang trí và nhất là nơi ngai tòa Mẹ Maria.
Đối với các nghệ nhân, thì họ đua nhau điêu khắc hay vẽ những bông hoa thật đẹp để tôn lên vẻ đẹp kiều mỹ của Mẹ trên các bức tranh hay trên vách tường…
Còn các nghệ sĩ thì sáng tác những bài hát mang đượm lòng tôn kính. Các bài giảng về Mẹ cũng được soạn ra để cùng nhau sử dụng hầu bày tỏ lòng tôn kính.
Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã khởi xướng việc trang hoàng hoa muôn sắc chung quanh tượng Mẹ.
Còn thánh Philiphê Nêri, vào ngày 01 tháng 05, đã quy tụ các trẻ em lại quanh bàn thờ Mẹ, và hướng dẫn các em dâng lên Mẹ những bông hoa tươi sắc. Ngài cũng dâng lên Mẹ những đóa hoa lòng còn trong trắng đơn sơ để Mẹ dìu dắt các em.
Sang thế kỷ thứ 17, việc dâng hoa kính Mẹ được cử hành trong toàn dòng các nữ tu kín Clara. Mỗi chiều đều vang lên những bài hát kính Đức Mẹ. Từ đó, dần dần được lan rộng ra bên ngoài nơi các xứ đạo lân cận.
Đầu thế kỷ 19, việc tôn kính Mẹ được lan rộng nhiều nơi. Các nhà giảng thuyết đã có những bài giảng suất sắc về Mẹ. Linh mục Chardon là người có công nhiều nhất trong việc phổ biến lòng đạo đức này. Thời điểm trên, lòng tôn kính Mẹ được cử hành rầm rộ nhất là tại nước Pháp và một số nước lân cận.
Các Đức Thánh Cha được coi là gắn bó đặc biệt với Đức Mẹ, đó là: Đức Thánh Cha Piô VII, đã cổ võ việc sùng kính Mẹ vào tháng Năm. Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này. Và, đến thời Đức Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, đã thêm vào và có tính khuyến khích cao: “Việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.
Đầu thế kỷ 20, Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ được Đức Phaolô VI ban hành, trong đó có đoạn viết: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công Giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số 1).
Tháng 10 năm 2002, chuẩn bị mừng 25 năm Giáo Hoàng của đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngài gửi đến mọi thành phần dân Chúa bức Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi” về Kinh Mân Côi, lặp lại xác tín và lòng yêu mến Đức Mẹ. Và dịp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2003, ngài chỉ muốn nhắc lại xác tín này là “Hãy cùng với Đức Maria mà chiêm ngắm, bước theo và sinh Chúa Giêsu cho những người đồng thời với mình”.
Ngài cũng đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ:
– Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Độ”, công bố ngày 25.3.1987, để chuẩn bị Năm thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc ngày lễ Mông Triệu năm 1988.
– Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi”, công bố ngày 16.3.2002.
Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng và công bố Năm Mân Côi (từ tháng 10.2002 đến tháng 10.2003).
Như thế, việc tôn sùng Đức Mẹ không tách rời mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, mà Mẹ được ví như máng chuyển ơn của Người xuống cho nhân loại.
Lược qua một chút về lịch sử tháng Hoa, cũng như những hướng dẫn về lòng tôn sùng Đức Mẹ, chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu thêm về ý nghĩa của tháng này.
2. Ý nghĩa của tháng Hoa
Mẹ Maria cũng được ví như Người Nữ tuyệt vời, đẹp nhất trong muôn ngàn phụ nữ, Mẹ đẹp tâm hồn, Mẹ đẹp thân xác. Vì thế, nơi hoa tỏa ra mùi thơm ngào ngạt, tượng trung cho các nhân đức nơi Mẹ. Đồng thời, những sắc màu của hoa tượng trưng cho Mẹ là Mẹ muôn loài khi đón nhận vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.
Đức Mẹ còn được ví như Hòm Bia của Thiên Chúa, mà hoa lại là vật được dùng để trang trí cho Hòm Bia Giao Ước thời Cựu Ước. Như thế, Đức Mẹ luôn ở bên Thiên Chúa. Và hoa lại ở bên Mẹ…!
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền lệnh cho Môsê làm những nụ và cánh hoa để trang trí nơi cây đèn 7 ngọn đặt trước Hòm Bia Giao Ước. Hay như Salomon, ông đã ra lệnh cho nghệ nhân điêu khắc những cánh hoa bên trong và bên ngoài để trang trí nơi Cực Thánh trong đền thờ.
Bắt nguồn từ đó, hoa trong phụng vụ hay truyền thống của người Công Giáo luôn được coi trọng. Nó được dùng để trang hoàng cung thánh, bàn thờ hay để tỏ lòng tôn kính với các vị thánh, đặc biệt là Đức Mẹ. Tức là hoa được dùng vào vị trí trang trọng trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội.
Mẹ Maria được ví như bông hoa thơm ngát trước tòa Chúa, nhưng trước đó Mẹ cũng là những con người rất đỗi bình thường như bao người phụ nữ khác. Tuy nhiên, được Thiên Chúa tuyển chọn, và qua tiếng “Xin Vâng” nên Mẹ đã trở nên tuyệt mỹ hơn muôn ngàn phụ nữ. Mẹ đã trở nên đóa hoa thơm ngát trước Ngai Thiên Chúa. Mẹ đã trở nên đóa hoa độc nhất vô nhị của thế giới loài người. Tại sao lại như thế, thưa chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và như một sự tất yếu, Mẹ là Mẹ loài người.
Nhờ ơn Chúa, Mẹ đã trở nên đóa hoa kiệt tác như: ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn đồng trinh trọn đời, Mẹ Thiên Chúa, Hồn xác lên trời và Mẹ như “hoa hường mầu nhiệm vậy”.
3. Ý nghĩa của việc dâng Hoa kính Mẹ
Tại sao lại dâng hoa mà không dâng những thứ khác? Thưa! Rất đơn giản, vì hoa là thứ đẹp nhất trong mọi loài Chúa dựng nên, chẳng thế mà Đức Giêsu đã ví sự lộng lẫy, tươi đẹp của hoa còn hơn cả vua Salomon: “Chúng con hãy xem hoa huệ ngoài đồng. Chúng không canh cửa, không xe dệt, thế mà Thầy bảo cho chúng con biết, ngay cả Vua Salômôn dù vinh hoa tột bậc, cũng không thể mặc đẹp bằng một bông hoa ấy”.
Các nhà thờ thường hay tổ chức dâng hoa kính Mẹ, lúc này, mỗi màu hoa lại tượng trung cho một nỗi lòng của con cái muốn dâng lên Mẹ, hay ca ngợi một nhân đức nào đó của Mẹ. Như vậy, Hoa biểu trưng cho lòng Mẹ và cũng là biểu trưng của lòng con người:
Hoa huệ trắng biểu trưng sự trong sạch khiết trinh nơi Mẹ;
Hoa hồng diễn tả lòng mến nồng nàn mà Mẹ dành cho Chúa;
Hoa lan toát lên sự trung thành, mạnh mẽ và can đảm nơi Mẹ;
Hoa sen tượng trưng phó thác, đại lượng và cung kính nơi Mẹ;
Hoa có màu tím tượng trung cho sự khiêm tốn …
Người Việt Nam chúng ta khi biết ơn ai, hoặc kính trọng ai, thường hay biểu cảm qua bó hoa hay bông hoa. Cũng vậy khi đón nhận được ơn lành từ Trên ban, người ta cũng dâng tạ bằng những bông hoa. Với người Công Giáo, những biến cố quan trọng trong đời sống đức tin như: khi Rửa tôi; Thêm Sức; lãnh nhận Hôn Phối; hay Truyền Chức thánh, người ta cũng tặng hoa cho những người được mừng, và ngay cả khi chết, người ta cũng biểu đạt bằng hoa trên quan tài, bên di ảnh hay nơi mộ phần. Hay khi gặp rủi ro, tai nạn, bệnh tật, khi hết bệnh, người ta cũng dâng hoa để tỏ làng biết ơn với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh…
Riêng với Đức Mẹ, người dân Việt Nam có lòng sùng kính đặc biệt. Từ khắp nơi, mọi thành phần, lứa tuổi, đều hân hoan, nô nức dâng kính Mẹ những đóa hoa tươi thắm mối dịp tháng Năm về.
Tuy nhiên, hoa được dùng để qua đó, diễn tả hoa thiêng cõi lòng của con người. Hoa sẽ tàn phai, héo úa, lòng người cũng sẽ tàn phai và ủ rũ nếu không đón nhận được sứ điệp từ những việc đạo đức này.
Vì thế, điều quan trọng chính là tấm lòng chân thành, đơn sơ, yêu mến, phó thác, cậy trông của mỗi chúng ta dành nơi Mẹ. Như thế, nhờ những cách hoa lòng, chúng ta sẽ được nâng tâm hồn lên với Mẹ để Mẹ đón nhận và bầu chữa cho chúng ta. Thật vậy, không một ai có lòng tôn kính Mẹ mà mất ơn cứu rỗi bao giờ.
4. Lòng sùng kính Đức Mẹ đem lại hy vọng được sự sống đời đời
Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Trong nhiệm cục ân sủng, kể từ khi Mẹ tin tưởng ưng thuận trong ngày truyền tin, sự ưng thuận mà Mẹ đã kiên quyết giữ trọn cho đến bên Thập Giá. Đức Maria tiếp tục thiên chức làm Mẹ cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu độ mọi người được tuyển chọn. Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng ngài vẫn tiếp tục liên lỉ chuyển cầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được cứu độ đời đời …. Vì thế, trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian” (LG 62).
Vì Mẹ là Mẹ của Đầu thân thể mầu nhiệm Hội Thánh là chính Đức Giêsu và là “mẹ của nhân loại” (x. LG 54), và, Đấng Cứu Thế đã mang lấy đau khổ của mọi người thì Mẹ Maria, Đấng đồng công cứu chuộc, đã chia sẻ hơn ai hết các hậu quả tai ác của tội lỗi nhân loại khi đảm nhận sứ mệnh làm Mẹ Đấng Cứu Thế: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 35).
Tuy nhiên, vai trò Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian của Đức Mẹ phải gắn liền với Đức Giêsu Đấng là khơi nguyên và cùng đích của mọi điều thiện hảo.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cung minh định: “Trinh nữ Maria được công nhận và tôn kính là Mẹ đích thực của Thiên Chúa và của Đấng Cứu chuộc… Mẹ cũng thật sự là ‘Mẹ các chi thể Chúa Kitô’… vì Mẹ đã cộng tác bằng đức ái của mình vào việc sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh, là những chi thể của Đức Kitô là Đầu. Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, là Mẹ của Hội Thánh” (x. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 963).
Việc sùng kính Đức Maria còn bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi vì: nhờ Người, với Người và trong Người, mọi vinh quang, danh dự đều quy về Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, những biểu hiện tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria cần phải dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thế nên, mọi việc tôn sùng Đức Mẹ phải nhằm vào sự kết hợp trực tiếp với Đức Giêsu, thiếu yếu tố này, mọi việc kể như vô hiệu.
Qua những gì đã chia sẻ ở trên dựa trên Giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta có quyền tin tưởng sẽ được cứu độ khi tôn sùng Đức Mẹ cách chính đáng và hợp với ý định và trong chương trình của Thiên Chúa.
Về điểm này, thánh Alphonsô quả quyết: “Hết mọi ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch: nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người mà không có Mẹ cầu xin cho. Hơn nữa, Mẹ Maria là Mẹ đầy tình thương, Mẹ chỉ có một sứ mạng, một chức vụ là thương xót: đến nỗi những tội nhân khốn nạn nhất, tuyệt vọng nhất là những người đầu tiên được Mẹ cứu, Mẹ dấu yêu, miễn là họ đừng bỏ mất thiện chí cải tạo mà tin tưởng chạy đến với Mẹ”. Ngài còn kêu gọi tội nhân bằng lời tha thiết này: “Bạn hãy yêu mến Mẹ Maria! Hãy cầu xin Mẹ, thì bạn sẽ được cứu rỗi”; “Chúng ta được rỗi là do Mẹ cầu bầu”; “Tôi tớ Mẹ không ai có thể hư mất đời đời”.
5. Những việc làm cụ thể tỏ lòng tôn sùng Đức Mẹ theo truyền thống Việt Nam
Bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người dân Việt Nam ngay từ lâu, đã có hình ảnh tốt đối với Đức Mẹ qua hình ảnh người mẹ trong đời thường.
Chắc chắn đã có lần anh chị em nghe lời giới thiệu ngọt ngào, truyền cảm, đầy xúc động của ca sĩ Thanh Lan trong băng nhạc chủ đề Quê hương và Lòng Mẹ như sau:
“Mẹ là dòng suối ngọt ngào”
“Mẹ là bóng mát dịu dàng”
“Mẹ là nguồn thương yêu bất tận”
“May mắn thay là những người còn mẹ”
“Mất mát thay là những người thiếu mẹ”
“Mỗi người chúng ta hãy dành một Bông Hồng cài áo Mẹ”
“Tất cả chúng ta đều trở nên bé nhỏ dưới ánh mắt, trong vòng tay và trong tình thương yêu bao la như biển cả của mẹ.”
“Mẹ đã che chở cho chúng ta trong những vinh nhục của cuộc sống, qua những sóng gió của cuộc đời”.
Như vậy, lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng ta mang đậm nét kính trọng và mến yêu vì mang nặng tình mẫu tử. Qua hình ảnh người mẹ trần gian, thôi thúc chúng ta hướng về Mẹ trên trời. Thật vậy, trong cuộc sống, những lúc gặp khó khăn hay hoạn nạn, nhiều người đã thuộc nằm lòng những ca vãn ngợi khen, và cầu xin tha thiết như: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển… “; “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam…”; “Lạy Mẹ, xin yên ủi chúng con luôn luôn…”, v.v… rồi những kinh Kính Mừng, tràng chuỗi Mân Côi được đọc lên râm ran trong các thánh đường, nơi các gia đình, và trong mọi biến cố vui buồn, thành công hay thất bại… Các cuộc rước linh đình, nhiều đền đài được mọc lên, nhiều nhà thờ được mang tước hiệu của Mẹ. Những thói quen đó đã đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một tinh thần sốt sắng, giàu đức tin, lòng mến và trung kiên giữ đạo dù trải qua trăm nghìn thử thách gian truân.
Tuy nhiên, việc sùng kính đó nhiều lúc đã làm cho không ít người xa lạ với đức tin, tức là họ đã nhìn nhận Đức Mẹ như là đấng Trung Gian tuyệt đối, mà quên mất rằng: “Mọi ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Trinh Nữ trên nhân loại, đều bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô” (x. LG 60). “Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một thụ tạo nào ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và Cứu Chuộc” (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 970).
Thiết nghĩ, nhân dịp này, mỗi chúng ta hãy nhìn lại việc sùng kính của mình dành cho Đức Mẹ, và nếu đang đi quá xa về cách thức biểu lộ niềm tin và cách tôn sùng Mẹ không đúng với Giáo Huấn của Giáo Hội, thì hãy chỉnh lại sao cho phù hợp, để lòng tôn sùng Đức Mẹ không mất đi hay xa lạ với Đức Tin Công Giáo mà lại làm cho đức tin được thêm khởi sắc và đúng như ý Chúa, ý Mẹ và Giáo Huấn của Giáo Hội mong muốn.
Vì thế, Công Đồng đã nhắc nhở: “Lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở những tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Mong sao, những việc tôn sùng Đức Mẹ của chúng ta sẽ dẫn đến việc noi gương Mẹ để sống cho đẹp lòng Thiên Chúa như Mẹ đã sống, để sau cuộc đời này, chúng ta được cùng Mẹ ca ngợi Thiên Chúa không ngừng trên Thiên Quốc.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt với là Đức Maria. Xin cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa như Mẹ, biết noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời nay, chúng con cũng được vào Thiên Quốc dự tiệc vui bên Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, xin đón nhận muôn vàn ý nguyện của chúng con dâng lên Mẹ qua những đóa hoa muôn sắc màu, ước gì chúng con được đón nhận những ơn lành của Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ. Amen.
Jos.Vinc. Ngọc Biển