2022
Bạn nên cúi đầu hay ngước nhìn lúc nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ?
Bạn nên cúi đầu hay ngước nhìn lúc nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ?
Dù bạn có làm gì đi chăng nữa, hãy cân nhắc thi hành với lòng cung kính khi Chúa Giêsu hiện diện nơi bánh và rượu đã được truyền phép.
Trong một Thánh lễ theo Nghi thức Công giáo Rôma, việc truyền phép bánh và rượu được ghi dấu cách đặc biệt bằng việc nâng cao bánh thánh và chén thánh, thường đi kèm với tiếng chuông.
Ngoài ra, thường có một khoảng thời gian thinh lặng ngắn, khi linh mục không còn nói bất kỳ lời nào và chỉ đơn giản là nâng bánh thánh hoặc chén thánh lên cho mọi người xem thấy. Sau mỗi lần nâng cao như thế, linh mục sẽ bái gối.
Bạn nên cúi đầu hay ngước nhìn lúc nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ?
Kể từ khi việc nâng cao bánh thánh và chén thánh được đưa vào Thánh lễ từ thế kỷ XIII, một trong những cách thức đáp lại phổ biến nhất của mọi người là cúi đầu với lòng cung kính. Đó là một hành động để chân nhận sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, để nhìn nhận sự ngự đến của vị Vua các vua.
Vào thế kỷ XVI, cử chỉ này đã được các công đồng khác nhau quy định và trở thành một cách thức đáp lại cách chuẩn mực.
Tuy nhiên, Thánh Piô X đã gợi ý một cách thức đáp lại khác khi khuyến khích các tín hữu ngước nhìn và tôn thờ Mình và Máu Thánh Chúa.
Thánh Piô X đã ấn định một ân xá cho bất cứ ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con… với đức tin, lòng đạo đức và lòng mến, khi nhìn ngắm Mình và Máu Thánh Chúa lúc được nâng cao trong Thánh lễ, hay khi đặt Mình Thánh Chúa để chầu trên bàn thờ.” Nhiều người Công giáo đọc thầm lời nguyện này trong khi nhìn chăm chú vào bánh thánh đang được nâng cao, và đọc thầm câu “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con” khi chén thánh được nâng cao. Chúng ta có thể cúi đầu khi linh mục bái gối sau mỗi lần nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa.
Cả hai cử chỉ đều có thể được thực hiện với đức tin và có thể dẫn đến việc gia tăng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Không có cử chỉ nào là “đúng”, vì nó phụ thuộc hoàn toàn vào đức tin của mỗi cá nhân và vào cử chỉ nào thể hiện tốt nhất mối tương quan của họ đối với Thiên Chúa.
Dù bạn có làm gì đi chăng nữa, hãy cân nhắc thi hành với lòng cung kính khi Chúa Giêsu hiện diện nơi bánh và rượu đã được truyền phép.
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2022
Nến bàn thờ và các loại nến khác trong phụng vụ
Gần đây, đã có những thực hành nhầm lẫn như: (1) đốt 2 cây nến để bên cây thánh giá nhưng không thắp nến bàn thờ; (2) đốt nến phục sinh và chỉ một cây nến phục sinh trên cung thánh suốt năm phụng vụ mà không sử dụng nến nào khác; (3) vào Mùa Vọng, khi sử dụng vòng hoa với 4 cây nến thì cũng không thấy thắp nến bàn thờ nữa. Như vậy, nến bàn thờ đã bị thay thế bằng nến phục sinh/nến thánh giá hoặc bằng nến vòng hoa Mùa Vọng. Lý do của thực hành nhầm lẫn này là không phân biệt chức năng của nến bàn thờ với chức năng của những loại nến khác. Chúng ta cần tìm hiểu hướng dẫn của Hội Thánh để sửa lại những nhầm lẫn đó.
- HƯỚNG DẪN CỦA HỘI THÁNH
Đây là những điểm hướng dẫn liên quan đến nến bàn thờ trong văn kiện của Giáo Hội:[1]
– Nến bàn thờ là cần thiết mỗi khi cử hành phụng vụ để tỏ lòng cung kính và mừng lễ;
– Vị trí của nến bàn thờ là được đặt trên bàn thờ hay chung quanh/gần bàn thờ, tùy theo cấu trúc của bàn thờ và cung thánh, miễn sao cho có sự hoà hợp chung và không cản trở giáo dân nhìn thấy cách dễ dàng những hành động phụng vụ đang diễn ra.[2]
– Số lượng của nến bàn thờ trong Thánh lễ có thể là 2, 4 hoặc 6 cây. Việc thay đổi số lượng nến bàn thờ là nhằm phân biệt ngày lễ và mức độ long trọng của cử hành. Tập tục tốt lành đã phát triển ở một vài nơi và được quy định trong Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma là sử dụng 2 nến bàn thờ cho lễ thường và lễ nhớ, 4 cho lễ kính và 6 nến cho lễ Chúa nhật cùng lễ trọng hay khi đặt Mình Thánh để chầu. Vào những dịp long trọng và trong thánh lễ do Đức Giám Mục giáo phận cử hành, thì phải đặt bảy chân đèn, có thắp nến.
- SỬA LẠI NHỮNG THỰC HÀNH NHẦM LẪN
- Thứ nhất, đặt 2 cây nến bên cây thánh giá trong khi không có nến đặt ở trên hay chung quanh bàn thờ.
Thật ra, có thể tùy nghi đặt hay không đặt nến ở hai bên thánh giá. Sau cuộc rước nhập lễ, nếu thánh giá trong đoàn rước được đặt tại cung thánh [ở trên hay gần bàn thờ] như một cây thánh giá duy nhất trong nhà thờ, thì rất nên để kèm theo hai cây nến vừa đi rước ở hai bên thánh giá. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng hai cây nến này không thể thay thế cho nến bàn thờ vốn có thể lên tới 6 hay 7 cây trong những dịp cử hành long trọng hay khi Đức Giám mục giáo phận chủ tế. Hơn nữa, không phải lúc nào thánh giá cũng được xếp đặt ở trên mặt đất hay ở trên bàn thờ để có thể dễ dàng đốt nến hai bên.[3] Trong trường hợp vị trí của thánh giá được treo giữa không trung phía trên bàn thờ hay được gắn trên cao sát vào bức tường phía sau cung thánh thì việc đốt nến hai bên thánh giá hàng ngày là công việc rất khó khăn và bất tiện nếu không muốn nói là bất khả thi. Chính vì thế, Giáo Hội chỉ trù liệu đốt nến bàn thờ và cho bàn thờ chứ không cho đối tượng thánh giá vì những dấu chỉ xinh đẹp của ánh sáng thánh thiêng phải được tỏ cho mọi người thấy mối liên quan của chúng với bàn thờ nhằm lôi kéo mọi cặp mắt hướng về bàn thờ: điểm tập trung của cộng đoàn phụng tự.
- Thứ hai, dùng nến phục sinh quanh năm thay cho nến bàn thờ.
Nến phục sinh không thể thay thế cho nến bàn thờ vì từ thế kỷ X cũng như theo các tài liệu phụng vụ gần đây, nến phục sinh thường được đặt để tại một nơi vinh dự gần sách Phúc Âm hay gần giảng đài trong Mùa Phục Sinh, từ lễ Vọng Phục sinh cho đến lễ Thăng thiên (nay là cho đến lễ Hiện xuống) như thực hành đã có từ thế kỷ X. Trong suốt Mùa Phục Sinh, cây nến phục sinh tiếp tục được thắp sáng ở vị trí này hay một vị trí thích hợp trong cung thánh, chẳng hạn như gần bàn thờ, ngọn lửa cháy bừng biểu tượng cho tâm hồn Đức Kitô, kết hợp với thân thể của Người trong vinh quang Chúa Cha. Theo “Decreta Authentica” của Bộ Nghi lễ, nến phục sinh không nên chỉ đốt cho việc đặt Mình Thánh chầu (Decree 3479,3). Tuy nhiên, có thể đốt nên nếu trong buổi chầu Thánh Thể đó có cử hành Giờ kinh Phụng vụ hay có ban phép lành lập tức sau Giờ kinh Phụng vụ (Decree 4686,1-2).
Còn ngoài Mùa Phục Sinh, nến phục sinh không được thắp thường xuyên nữa, mà chỉ được đốt lên mỗi khi cử hành nghi thức an táng hay thánh tẩy. Ý nghĩa của thực hành này là ánh sáng phục sinh sẽ không bao giờ lịm tắt trong lòng những anh chị em đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Ngọn nến thắp sáng vừa là dấu chỉ của niềm vui, của sự hiện diện linh thánh, lại vừa là biểu tượng của lời cầu nguyện dâng lên – hay phải dâng lên – Thiên Chúa. Ngoài Mùa Phục Sinh, chỗ thích hợp nhất để nến phục sinh là bên ngoài cung thánh, gần giếng rửa tội hay gần quan tài.
Những gì vừa trình bày phù hợp với hướng dẫn trong Thư Luân Lưu của Bộ Phụng tự và Bí tích “Paschalis Solemnitatis” như sau:
Nến phục sinh đặt một nơi thích hợp, hoặc gần giảng đài hoặc gần bàn thờ, và phải thắp sáng trong tất cả các giờ cử hành phụng vụ trọng thể hơn của mùa này, tức là thánh lễ, giờ Kinh Sáng và giờ Kinh Chiều, cho đến hết Chúa Nhật Hiện Xuống. Sau Mùa Phục Sinh, nến phục sinh đặt ở vị trí trang trọng trong khu vực cử hành bí tích Thánh Tẩy, để mỗi khi cử hành bí tích Thánh Tẩy, thì đốt lên và châm nến cho người lãnh bí tích. Trong nghi thức an táng thì nến phục sinh được đặt ở gần quan tài để nói lên rằng cái chết của người tín hữu là một cuộc Vượt Qua đích thực. Ngoài Mùa Phục Sinh, không được đặt và đốt nến phục sinh trên cung thánh (số 99).
- Thứ ba, dùng nến hồng và tím Mùa Vọng thay cho nến bàn thờ.
Đành rằng có thể chưng vòng hoa Mùa Vọng ở trong hay gần cung thánh với 4 cây nến ở giữa vòng hoa này tương ứng với 4 tuần của Mùa Vọng (3 nến tím và 1 nến hồng). Tuy nhiên, nên nhớ rằng việc sử dụng chúng là do tập tục, chỉ là tùy phụ và nhiệm ý, chúng không phải là nến bàn thờ cũng như không thể thay thế cho nến bàn thờ.
III. KẾT LUẬN THỰC HÀNH
1) Mọi cử hành phụng vụ đều cần thắp nến bàn thờ và không một loại nến nào có thể thay thế cho nến bàn thờ.
2) Loại bỏ thực hành đốt một cây nến phục sinh suốt năm phụng vụ thay cho nến bàn thờ.
3) Có thể sử dụng thêm nến cho vòng hoa Mùa Vọng hay cho cây thánh giá, nhưng vẫn phải đốt nến bàn thờ.
[1] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, các số 117, 307.
[2] United States Conference of Catholic Bishops’ Committee on the Liturgy, Introduction to the Order of Mass: A Pastoral Resource of the Bishops’ Committee on the Liturgy (Washington, DC: USCCB, 2003), no. 52.
[3] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, số 308.
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
2022
Giáo Hội được sinh ra khi nào?
Giáo Hội được sinh ra khi nào?
Chúng ta vẫn thường quen gọi Lễ Hiện Xuống là “sinh nhật của Giáo Hội”, nhưng thực ra, kiểu nói này là một phong tục đạo đức hơn là một giáo huấn hoặc một công bố chính thức. Vậy thì đâu là cách diễn tả đúng thực khi nói về sinh nhật của Giáo Hội?
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng:
Sự khởi đầu và tăng trưởng của Giáo Hội được đánh dấu bằng việc máu và nước trào ra từ cạnh sườn rộng mở của Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Chính từ cạnh sườn của Đức Kitô yên nghỉ trên thập giá đã phát sinh bí tích kỳ diệu là toàn thể Giáo Hội. Như bà Evà được tạo ra từ cạnh sườn của ông Ađam, thì cũng vậy, Giáo Hội được sinh từ trái tim bị đâm thâu của Đức Kitô chết trên thập giá. (số 766)
Theo một cách nào đó, hình ảnh của “sinh nhật” được sử dụng để diễn tả một tiến trình rằng: Giáo Hội được thai nghén trong “lòng mẹ” ở Galilê nơi sứ vụ công khai của Đức Kitô, được sinh ra nơi cái chết của Người trên đồi Canvê, và giờ đây, được sai đi từ phòng Tiệc ly, để bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình đến tận cùng trái đất.
Hiểu như vậy, thì Giáo Hội không xuất hiện dưới hình dạng của một trẻ sơ sinh, vốn gắn liền với sự yếu đuối, nhỏ bé, cần được bao bọc, che chở, nuôi dưỡng để lớn lên. Vì, Giáo Hội trong ngày Lễ Hiện Xuống là một Giáo Hội đã được hình thành, thanh luyện, dạy dỗ, trang bị và trao quyền, và nhất là, được khoác lên mình sức mạnh từ trên cao để bắt đầu một sứ mệnh. Nói cách khác, Giáo Hội vào ngày Lễ Ngũ Tuần là một Giáo Hội đã trưởng thành.
Hơn nữa, cách hiểu này rất gần gũi với hình ảnh của Evà bước ra từ cạnh sườn của Ađam: Evà xuất hiện như một người trưởng thành chứ không phải một trẻ sơ sinh. Vẫn biết rằng ngôn ngữ và hình ảnh bao giờ cũng bao hàm những giới hạn nhất định, và dù không phải là cách diễn tả phổ biến và thông thường nhưng khi nói “sinh nhật của Giáo Hội” nên được hiểu theo cách này.
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, những ngọn lửa Thánh Thần đã đổ xuống Giáo Hội, để rồi, các môn đệ của Chúa Kitô, vốn là những người sợ hãi, nhát đảm, bối rối đã mạnh dạn mở tung cánh cửa bước ra ngoài với sự tự tin, khôn ngoan, niềm vui thánh thiện, và tràn đầy ân sủng để lên đường, cất tiếng rao giảng, và làm chứng cho Tin Mừng cho đến tận thế.
Phải chăng, đây mới là hình ảnh đúng thực để diễn tả về việc Giáo Hội được “sinh ra” trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống?
Tác giả: Đức Ông Charles E. Pope – Nguồn: simplycatholic.com
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP – Dòng Đa Minh Thánh Tâm
2022
Linh mục có được phong thánh và gia vạ tuyệt thông cho ai không?
Linh mục có được phong thánh và gia vạ tuyệt thông cho ai không?
Hỏi: Xin cha vui lòng giải thich một vài thắc mắc sau đây:
- có một số linh mục giảng trong lễ tang là người này chắc chắn đã lên thiên Đàng rồi , Như vậy căn cứ vào đâu mà nói được như thế ?
- Có linh mục chánh xứ kia cứ hăm dọa vạ tuyệt thông cho ai đi dự tiệc cưới của những cặp hôn nhân không hợp pháp trong Giáo Hội. Như vậy có đúng không ?
- Lại có linh mục cứ nói Chúa rất nhân từ, nên đừng lo sợ gì về phần rỗi của mình, vì Chúa Giêsu đã chết thay cho mọi người có tội rồi nên không còn gì phải lo sợ Chúa phạt ai nữa. Điều này có đúng như vậy hay không ?
Đáp:
- Về câu hỏi thứ nhất, tôi đã có đôi lần nói rõ là linh mục không bao giờ được phép biến lễ tang thành lễ phong thánh cho ai (canonization) vì không có giáo lý ,giáo luật nào cho phép làm như vậy. Ai chết, kể cả các linh mục, giám mục, Hồng y và ngay cả Đức Thánh Cha chết, thì Giáo Hội chỉ dạy phải cầu nguyện cho người quá cố mà thôi , chứ không tức khắc tuyên bố ai đã lên Thiên Đàng rồi nên khỏi cần cầu nguyện nữa.
Có phong thánh cho ai thì cũng phải có thời gian điều tra cũng như đòi hỏi theo giáo luật, như phải có một vài phép lạ mà người nào được hưởng nhờ cầu xin với người đã qua đời, rồi Giáo Hội mới phong chân phước ( Blessed) trước khi phong thánh( canonization).Nghĩa là phải qua nhiều thời gian điều tra theo giáo luật , nên từ xưa đến nay, Giáo Hôi chưa bao giờ phong thánh tức khắc cho ai sau khi người đó chết dù là Đức Thánh Cha.
Như vậy, khi giảng trong lễ tang của ai, linh mục nào nói là linh hồn này đã lên Thiên Đàng rồi, là đã tự ý phóng đại hay tưởng tượng để tự ý phong thánh cho người kia mà không căn cứ vào giáo lý , giáo luật nào của Hội Thánh,- hay hơn nữa- đã vượt quyền của Giáo Hội để tự ý phong thánh cho ai vì mục đích đề cao người chết và làm vui lòng cho tang gia của người qua đời.
Lại nữa, nếu biết linh hồn của người chết đã lên Thiên Đàng rồi, tức là đã gia nhập hàng ngũ các Thánh ở trên Trời , thì cần gì phải cầu nguyện cho người ấy nữa ??? vì có giáo lý nào dạy phải cầu nguyện cho một thánh nam hay thánh nữ nào đâu ? . Các thánh nam nữ đang hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng không cần ai cầu xin cho mình nữa. Ngược lại, các Thánh có thể cầu bầu, tức là cầu xin Chúa cách đắc lực cho các tín hữu còn sống trên trần gian và cho các linh hồn thánh đang được tinh luyện nơi Luyện tội.( Purgatory )
Như vậy, ai quả quyết rằng người này, người kia chết đã lên Thiên Đàng rồi là đã tự ý phong thánh cho người ấy, bất chấp luật phong thánh của Giáo Hội, gây ngộ nhận cho giáo dân về phần rỗi của ai mà chính mình cũng không biết, nhưng cứ nói đại để làm vui lòng cho thân nhân người quá cố mà xác còn đang nằm trong nhà thờ cho mọi người có mặt cầu nguyện .
Mọi linh mục đều phải hiểu rằng không ai có cách gì biết được Chúa phán đoán ra sao cho một người đã ly trần. Ai chết thì phải cầu nguyện cho họ, có thế thôi –kể cả cho những người tự tử chết hay chết đột ngột không kịp được sức dầu và lãnh phép lành sau hết của Giáo Hội. Nghĩa là không ai có thể phán đoán người này đã lên Thiên Đàng, người kia đã xuống hỏa ngục rồi ,nên không cần cầu xin cho họ nữa.
Tóm lại, số phận đời đời của một người sau khi chết thì chỉ có Chúa biết và phán đoán công mình, khoan dung cho người ấy mà thôi.
- Về câu hỏi thứ hai, tôi xin được trả lời như sau:
Vạ tyệt thông ( excommunication) là hình phạt nặng nhất mà Giáo Hội bất đắc dĩ phải tuyên phạt ai đã vi phạm một trong những điều Giáo Hội cấm trong giáo luật. Thí dụ phá thai, ném bỏ Mình Thánh Chúa xuống đất.. hành hung Đức Thánh Cha..v.v khi vi phạm một trong những điều ngăn cấm ghi trong giáo luật thì thức khắc bị vạ tuyệt thông tiền kết và vạ này dành cho Đức Thánh Cha quyền tháo gỡ ( x giáo luật số 1364&1). Ngược lại, khi vi phạm điều gì có liên quan đến đức tin hay luân lý,thì giáo quyền địa phương (Tòa Giám mục) có thể gia vạ tuyệt thông hậu kết ( ferendae sententiae) cho ai vi phạm, sau ít là một lần cảnh cáo mà người vi phạm không có thiện chí nhận lỗi và sửa đổi.
Như vậy, đi dự tiệc cưới của ai không kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội chỉ là gương xấu chứ không phải là vi phạm điều gì về đức tin hay luân lý.Nên không thể áp dụng vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae) hay hậu kết ( ferendae sententiae) cho ai được.
Theo luật, không linh mục nào- dù là chánh hay phó xứ- có quyền ra vạ tuyệt thông cho ai. Nếu có, chỉ có giám mục mới có quyền này mà thôi. Vậy linh mục chánh xứ nào ngăm đe gia vạ tuyệt thông cho ai đi dự đám cưới của các cặp hôn nhân không kết hôn trong nhà thờ vì lý do nào đó, là đã đi quá thẳm quyền của mình, hay không hiểu biết gì về vạ tuyệt thông.
Vả lại, ngay cả việc kết hôn không đúng theo luật và nghi thức của Giáo Hội thì chỉ là gương xấu phải tránh, chứ không phải là tội đáng bị vạ tuyệt thông, vì điều này không có ghi trong luật cấm theo giáo luật.
- Về câu hỏi thứ ba, xin được trả lời như sau:
Thiên Chúa là tình thương: đúng. Công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô Là quá đủ cho con người được cứu rỗi : đúng.
Nhưng không phải vì Chúa quá nhân từ, vì công nghiệp của Chúa Kitô là quá đủ, mà con người không cần phải làm gì nữa về phần mình.Hay nói rõ hơn không thể coi đó như bảo đảm chắc chắn về phần rỗi của mình nên cứ tự do sống theo ý riêng mà không cần đóng góp thiện chí cá nhân vào ơn cứu độ của Chúa để sống theo đường lối của Người hầu được cứu rỗi.
Trái lại, nếu không có thiện chí góp phần vào ơn cứu độ của Chúa mà lấy cớ Chúa là tình thương, Chúa Kitô đã chết thay cho mình rồi, nên cứ tự do sống và làm những việc trái với tình thương, công bằng và thánh thiện của Chúa như oán thù, giết người, giết thai nhi, trộm cắp, gian tham , dâm ô thác loạn…thì chắc chắn Chúa không thể cứu người đó được.
Lý do là con người còn có ý muốn tự do ( free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người xử dụng.Nên nếu con người xử dụng tự do này mà chối bỏ Thiên Chúa bằng chính đời sống của mình để phạm những tội nghịch cùng Thiên Chúa mà không hề biết ăn năn sám hối, thì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô sẽ trở nên vô ích hoàn toàn cho ai chọn lối sống này. Nghĩa là Tình thương vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô không thể áp dụng cho những ai lợi dụng tình thương và công nghiệp này để sống theo “văn hóa của sự chết” và chối bỏ Thiên Chúa bằng chính đời sống của mình.
Đó là lý do tại sao Chúa Giê su đã nói với một số người Pharisi đến hỏi Chúa xem có phải những người Ga-li-lê bị Tổng Trấn Phi-la-tô giết chết và mười tám người khác bị thác Si-lô-a đổ xuống đè chết có phải vì họ tội lỗi hơn những người khác hay không, Chúa đã trả lời họ như sau:
“ Tôi bảo cho các ông biết: không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” ( Lc 12: 5 )
Như thế rõ ràng cho thấy là tình thương và công nhiệp của Chúa không thể bao che cho tội lỗi của con người, cố ý phạm vì lợi dụng tình thương tha thứ của Chúa và không biết sám hối để xin tha thứ. Chính vì tội của con người mà Chúa Giêsu phải vác thập giá đau khổ và chịu chết thay cho loài người tội lỗi. Nhưng muốn được hưởng nhờ công nghiệp cứu chuộc đó, để sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau, thì nhất thiết đòi hỏi con người phải cộng tác với ơn cứu chuộc của Chúa để xa tránh mọi tội lỗi, hay sám hối vì đã lỡ phạm tội, vì Thiên Chúa chê ghét mọi tội lỗi còn đầy rẫy trong thế gian, trong bản tính yếu đuối của con người và trong kế hoạch của Sa tăng – kẻ thù cho phần rỗi của mỗi người chúng ta- không bao giờ muốn cho ai được cứu rỗi, được bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là Sự Thật và là sự Sống.” ( Ga 14 : 6)
Như vậy, không thể rao giảng tình thương của Chúa mà không nói đến phần đóng góp của con người vào tình thương và ơn cứu độ của Chúa.
Đây là một khuyết điểm lớn của các giáo phái Tin Lành, là những người chủ trương chỉ cần tin Chúa Kitô ( sola fe) là đủ cho con người được cứu độ mà không cần phải làm gì thêm về phía con người. Đây cũng là khuyết điểm của một số linh mục “mị giáo dân” bằng cách chỉ nói đến tình thương của Chúa mà không nói đến phần đóng góp của con người vào tình thương đó.
Thực tế cho thấy là nếu miệng nói tin Chúa mà chân bước đi theo thế gian để làm các sự dữ như thực trạng sống của con người ở khắp nơi trong thế giới tục hóa ngày nay- đặc biệt là những kẻ đang buôn bán phụ nữ và trẻ em bán cho bọn tú bà, ma cô, cho bọn vô luân vô đạo đang đi tìm thú vui dâm ô và ấu dâm rất khốn nạn- thì dù có tuyên xưng tin Chúa Kitô cả ngàn vạn lần thì cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Câu hỏi “ lời nói phải đi đôi với việc làm” rất đúng cả về mặt tự nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng. Trong mọi giao thiệp với người khác, ai chỉ nói hay, nói hấp dẫn, nhưng không có việc làm cụ thể để chứng mình thì chắc chắn không thuyết phục được ai tin lời mình nói. Cũng vậy, tuyên xưng lòng tin có Chúa mà đời sống lại đi ngược với niềm tin ấy, thì sẽ không giúp ích gì cho phần rỗi của mình và cũng không thuyết phục được ai tin Chúa nữa vì gương sống phản chứng của mình.
Tóm lại, rao giảng tình thương vô biên của Chúa là cần thiết, là đúng. Nhưng sẽ thiếu sót nếu chỉ nói đến tình thương của Chúa mà không nói đến phần đóng góp cá nhân của con người vào tình thương ấy để không lợi dụng tình thương của Chúa mà sống thù nghich với lòng nhân hậu và tha thứ của Chúa như thực trạng của biết bao con người trong thế giới tục hóa ngày nay.
Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn