2022
Một cái nhìn về chiêm niệm Kitô Giáo
Một cái nhìn về chiêm niệm Kitô Giáo
CẦU NGUYỆN LÀ GÌ?
Cầu nguyện, theo một truyền thống rất cổ xưa, là “sự nâng cao của tinh thần – theo nghĩa tâm trí – và của trái tim hướng về Thiên Chúa ”.
Tâm trí là gì? Trái tim là gì?
Tâm trí suy nghĩ, đặt câu hỏi, lên kế hoạch, lo lắng, tưởng tượng.
Trái tim hiểu biết và yêu thương.
Tâm trí là cơ quan của tri thức, trái tim là cơ quan của tình yêu.
Hầu hết sự học hỏi của chúng ta về cầu nguyện chỉ giới hạn ở mức độ tâm trí. Khi còn là trẻ thơ, chúng ta được dạy cầu nguyện, cầu xin Chúa những gì chúng ta cần cho chính chúng ta và cho những người khác. Đây chỉ là một phần của mầu nhiệm cầu nguyện.
Phần khác là lời cầu nguyện của trái tim. Trong lời cầu nguyện của trái tim này, chúng ta không cố gắng nghĩ về Thiên Chúa, không nói với Ngài, và thậm chí không xin Ngài bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ ở đây với Thiên Chúa, Đấng ngự trong chúng ta, trong Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Chúa Thánh Thần là tình yêu, mối tương quan của tình yêu hiệp nhất Cha và Con. Chính Thánh Thần này mà Chúa Giêsu đã thổi vào trái tim mỗi con người. Chiêm niệm là lời cầu nguyện của trái tim gắn kết chúng ta với ý thức con người của Chúa Giêsu trong Thánh Thần. “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rôma 8:26).
Ngày nay, trong Giáo hội, đặc biệt kể từ Công đồng Vatican II vào những năm 1960, Thánh Thần đã dạy chúng ta khám phá lại chiều kích cầu nguyện này. Các tài liệu của Công đồng về Giáo hội và Phụng vụ nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ra “định hướng chiêm niệm” vào đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu ngày nay. Tất cả mọi người đều được kêu gọi để cảm nghiệm trọn vẹn Chúa Kitô.
Điều này có nghĩa là chúng ta không được chỉ dừng lại ở mức độ cầu nguyện tâm trí: nghĩ về Chúa, nói chuyện với Ngài hoặc xin Ngài đáp ứng các nhu cầu của chúng ta. Chúng ta lặn ngụp trong sâu thẳm, nơi mà chính Thánh Thần của Chúa Giêsu cầu nguyện trong tâm hồn chúng ta, trong sự im lặng kết hợp của Ngài với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện chiêm niệm không dành riêng cho các nam nữ tu sĩ, hoặc các nhà thần bí. Đó là một chiều kích cầu nguyện mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi tới. Mục đích của chiêm niệm không phải là làm cho chúng ta sống những trải nghiệm phi thường hoặc những trạng thái ý thức bị thay đổi. Theo cách nói của thánh Tôma Aquinô, chiêm niệm là “sự vui hưởng chân lý một cách giản dị”. Đối vớiWilliam Blake, ông nói về nhu cầu phải “làm sạch cánh cửa nhận thức” để nhìn xem mọi thứ như nó thực sự là: vô hạn.
Do đó, ý thức chiêm niệm được sống trong cuộc sống bình thường. Suy niệm đưa chúng ta đến chiêm niệm và nó là một phần của mầu nhiệm lớn lao của việc cầu nguyện trong cuộc sống của bất cứ ai tìm kiếm sự sung mãn của con người mình. [1]
Chiêm niệm Kitô giáo có nguồn gốc rất xa xưa. Chiêm niệm có từ thời Các Giáo phụ Sa mạc của thế kỷ IV và V. Tu sĩ Biển Đức John Main (1926-1982) [2] đã giúp làm cho chiêm niệm trở nên thích hợp với con người thời nay nam cũng như nữ.
Chiêm niệm là một phương pháp thực hành tâm linh. Trong im lặng, vượt ra khỏi lời nói, ý tưởng hay hình ảnh, chiêm niệm muốn dẫn đến sự hiện diện đơn giản với Thiên Chúa. Đấng đang ở trong phần thân thiết nhất của chính mình.
Đối với điều này, một từ, chỉ một từ cần thiết. Từ này được đưa vào trong tâm hồn, trung thành và nhẹ nhàng, trong một thái độ tin yêu. Theo lời dạy của tu sĩ Biển Đức John Main, đó là từ MARANATHA, có nghĩa là: Lạy Chúa, xin hãy đến.
Chiêm niệm Kitô giáo không chỉ là một kỹ thuật thư giãn hay làm cho tâm trí được an yên. Chiêm niệm Kitô giáo muốn thúc đẩy sự biến đổi của toàn bộ con người trong Thiên Chúa.
Chiêm niệm Kitô giáo là chìa khóa cho buổi sáng và ổ khóa cho buổi tối. Người ta thực hành chiêm niệm Kitô giáo một mình theo từng ngày, nhưng thỉnh thoảng cũng theo nhóm để giúp nhau vững vàng trong luyện tập hàng ngày. Cốt lõi của mỗi cuộc gặp gỡ là sự hiệp thông với nhau trong im lặng, trong một khoảng thời gian 20 đến 30 phút.
Bàn đạp đến tự do
Thoạt nhìn, cam kết mà cuộc hành trình này mời gọi chúng ta không phải là chuyện bình thường. Cần có niềm tin và có thể cần một sự liều lĩnh nhất định để bắt đầu. Nhưng một khi chúng ta bước đi, chính Thiên Chúa, bản chất là tình yêu, sẽ huấn luyện chúng ta, bằng kinh nghiệm sẽ dạy cho chúng ta biết rằng chúng ta sẽ hiểu biết thực tại, cách sống kỷ luật của chúng ta sẽ là bàn đạp dẫn đến tự do.
Cuộc hành trình hướng tới cõi lòng của chúng ta là cuộc hành trình diễn ra trong tất cả mọi tâm hồn. Và trong ánh sáng đầu tiên của thực tại, chúng ta thấy rằng đó là vương quốc mà Chúa Giêsu sinh xuống trần để thiết lập và Ngài tiếp nhận mỗi người bằng cách tái sinh họ trong cõi lòng Ngái. Những gì chúng ta có chỉ là sự cô đơn, hoang mang, cô độc. Những gì chúng ta sẽ tìm thấy là sự hiệp thông, sự chắc chắn, tình yêu. Cung cách của chúng ta là sự đơn giản và trung thành, sự đơn giản trong lời cầu nguyện, trung thành với việc suy niệm hàng ngày của chúng ta. Khi chúng ta đi trên con đường này, chính sức mạnh của tình yêu sẽ gắn kết chúng ta lại gần nhau hơn.
Con đường đơn giản
Tất cả những bậc thầy này đều đồng ý với nhau khi nói rằng trong cầu nguyện, chúng ta không phải là người chủ động. Chúng ta không nói với Chúa; chúng ta lắng nghe lời của Ngài trong chúng ta. Chúng ta không tìm kiếm Ngài; Ngài mới là Đấng đã tìm ra chúng ta. Walter Hilton vào thế kỷ thứ mười bốn, đã rất nói rất đơn giản: “Chính anh em không làm gì cả; anh em chỉ để cho Ngài hoạt động trong tâm hồn anh em.” Lời khuyên của Thánh Têrêsa vẫn còn vang vọng, Chị thánh nhắc nhở chúng ta rằng tất cả những gì chúng ta có thể làm khi cầu nguyện là để bản thân mình sẵn sàng. Phần còn lại là do bởi quyền năng của Thánh Thần dẫn dắt chúng ta.
Con đường rất đơn giản, nhưng nó đòi hỏi một cách nhìn nhất định về tầm quan trọng của nó, một sự khiêm tốn nhất định để có thể bắt đầu, một lòng trung thành nhất định và một lòng dũng cảm nhất định để kiên trì, và trên hết, phải sẵn sàng để được dẫn đến chỗ thành toàn. Đây là tất cả những phẩm chất cần thiết của con người trong bất cứ cuộc tiếp xúc hữu ích nào với cuộc sống. Bước đi trên con đường là việc bình thường. Chúng ta không theo Chúa vì tính cách giật gân của Ngài, nhưng là để xem xét cuộc sống – tất cả các khía cạnh của cuộc sống đó, sự hài hòa bên trong và hướng đi của nó – như một mầu nhiệm của cuộc sống đó. Mối nguy hiểm lớn nhất, sự cám dỗ lớn nhất, là làm phức tạp vấn đề. Qua những gì ta có thể thấy, nếu chúng ta thực sự đang bước đi trên con đường của mình, nếu lời cầu nguyện của chúng ta có sự nghèo khó, là tấm lòng trân quý cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ đạt được sự đơn giản.
Ngôn ngữ rất yếu ớt.
Ngôn ngữ không đủ sức mạnh để giải thích toàn bộ mầu nhiệm! Đây là lý do tại sao sự im lặng tuyệt đối trong chiêm niệm lại rất quan trọng. Chúng ta không cần phải cố gắng suy nghĩ về Chúa, nói với Ngài, hoặc tưởng tượng về Ngài; chúng ta hãy cứ ở trong sự im lặng tuyệt vời này, mở ra cho sự im lặng vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chúng ta khám phá ra trong chiêm niệm, từ kinh nghiệm, thông qua thực hành và lắng nghe lời giảng dạy hàng ngày, rằng đây là môi trường tự nhiên của chúng ta. Chúng ta được dựng nên cho Thiên Chúa và bản chất của chúng ta phát triển và mở rộng trong sự im lặng vĩnh cửu này.
Tuy nhiên, thuật ngữ “im lặng” là một sự giả mạo có lẽ khiến nhiều người không thích, bởi vì nó gợi ra một thứ cảm nhận tiêu cực, như kiểu làm cho âm thanh hoặc ngôn ngữ bị mất đi. Mọi người sợ rằng sự im lặng trong chiêm niệm sẽ khiến họ bị thụt lùi. Tuy nhiên, kinh nghiệm và truyền thống dạy chúng ta rằng sự im lặng khi cầu nguyện không phải là trạng thái chuẩn bị cho ngôn ngữ mà là trạng thái có sau ngôn ngữ, nơi ngôn ngữ đã hoàn thành vai trò của nó, hướng dẫn chúng ta đi qua và vượt ra ngoài chính ngôn ngữ và vượt qua toàn bộ lĩnh vực ý thức tinh thần.
Sự im lặng vĩnh cửu không tước đoạt bất cứ điều gì của ai và dĩ nhiên không tước đoạt bất cứ điều gì của chúng ta; đó là sự im lặng của tình yêu, của sự chấp nhận vô điều kiện. Chúng ta ở đó với Cha của chúng ta, là Đấng mời gọi chúng ta ở đó, là Đấng yêu thương chúng ta ở đó và là Đấng đã dựng nên chúng ta vì tình yêu lặng lẽ đó.
Trạng thái hiện hữu đơn thuần
Suy niệm là bước đưa bạn từ một thứ chủ nghĩa vị kỷ chuyển sang cách nghĩ tập trung. Bằng cách thực hiện bước này, chúng ta tìm thấy vị trí của mình trên trần thế, nơi chúng ta thực sự nên ở và nơi chúng ta thực sự đang ở. Sau đó, tất cả các mối tương quan của chúng ta sẽ có vị trí xứng đáng: mối tương quan của chúng ta với nhau, với môi trường và với tất cả tạo vật, với Thiên Chúa. Sau đó, chúng ta phát hiện ra – và đây điều quan trọng đối với sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần của chúng ta mà mọi người đều phát hiện ra – rằng chúng ta có một vị trí thiết yếu trong kế hoạch thánh thiêng. Điều quan trọng nhất đối với con người ngày nay có lẽ là khám phá ra phẩm giá họ sẽ có được khi đáp lại ân huệ vô song của Đấng tạo nên chúng ta.
Nhưng làm thế nào để thực hiện điều đó ? Chiêm niệm là kỷ luật cho phép điều đó diễn ra. Kỷ luật của chúng ta bao gồm việc học cách lùi lại một bước và chỉnh đốn sự chú ý của chúng ta, toàn bộ con người chúng ta, vào Thiên Chúa. Chúng ta phải bắt đầu từ đó. Chúng ta cần bắt đầu với con người của chúng ta và học cách im lặng trong chính bản thân mình. Điều đó đơn giản có nghĩa là học để trở thành chính mình, thay vì khẳng định bản thân bằng những gì mình làm hoặc nghĩ. Là một nghệ thuật và một thực hành, chiêm niệm đưa chúng ta đến trạng thái đơn giản này thông qua việc lặp đi lặp lại sự tĩnh lặng và cố gắng giữ im lặng khi cầu nguyện.
Hiện diện trọn vẹn
Chiêm niệm là cách để chúng ta tháp nhập trọn vẹn vào giây phút hiện tại. Tất cả chúng ta đều có xu hướng sống trong quá khứ hoặc tương lai. Đừng sống trong quá khứ hoặc trong tương lai! Hãy học cách hiện diện hoàn toàn trong thời khắc hiện tại, trong hiện tại, mà chúng ta có thể diễn tả nó như là sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa. Phần lớn sự bất hạnh đến từ việc chúng ta không chịu ở trong hiện tại. Ngay cả đau khổ cũng có ý nghĩa, và nếu chúng ta không chấp nhận đau khổ đó hoàn toàn vào lúc hiện tại này, chúng ta vẫn cảm nghiệm đau khổ đó nhưng lại bỏ lỡ ý nghĩa của nó. Vì vậy, những gì chúng ta phải học để làm trong chiêm niệm của mình là lắng nghe lời cầu nguyện một cách chú ý hoàn toàn. Ý thức của chúng ta tập trung vào một điểm, đó là âm thanh duy nhất của lời cầu nguyện. Đây là những gì chúng ta phải học để làm, thực hành lời cầu nguyện maranatha – xin hãy đến – lắng nghe lời cầu nguyện đó với sự chú ý đầy đủ và càng lúc càng sâu sắc hơn, maranatha – xin hãy đến – và thực hiện điều đó một cách đơn giản, khiêm hạ nhưng lại lớn lao hơn bao giờ hết.
Hãy lắng nghe lời Ngài trong chúng ta
Khi nói chuyện với mọi người về chiêm niệm, tôi thường thấy rằng những người đầu tiên hiểu nó là gì lại là những người ngoại đạo, hoặc thậm chí là những người không có tôn giáo. Trong con mắt của nhiều Kitô hữu đang giữ và sống đạo, của nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ, từ ngữ cầu nguyện đối với họ thoạt nhìn có vẻ như một kỹ thuật (cầu nguyện) có tính chất xa lạ đáng ngờ, hoặc một số mánh khóe kỳ lạ, hoặc thậm chí là một loại liệu pháp có thể giúp thư giãn, nhưng không thể mang danh nghĩa Kitô giáo! Đó là một tình trạng thái rất đáng buồn. Vì vậy, nhiều Kitô hữu đã mất mối tương quan với truyền thống cầu nguyện của riêng họ. Chúng ta không còn tận dụng được hết sự khôn ngoan và lời khuyên khôn ngoan của những bậc thầy vĩ đại về cầu nguyện.
Khám phá cội nguồn của tình yêu
Một trong những điểm yếu của chúng ta là luôn cố gắng ổn định cuộc sống. Một trong những thách thức của đời sống Kitô hữu chúng ta là học cách trở thành những người hành hương, luôn luôn di chuyển. Chúng ta luôn luôn ra sức tích lũy cả vật chất hoặc kiến thức, và tìm cách đếm các con số trên đường đời. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng con đường dẫn đến sự cứu rỗi rất hẹp; rất ít người khám phá ra nó. Lý do rất ít người tìm ra, đối với những người khác, nó là một con đường ít người đi.
Hai điều quan trọng được yêu cầu đối với người hành hương. Người ấy không được khuất phục trước sự cám dỗ nhằm ổn định cuộc sống: “Tôi đã đi đủ xa. Tôi đang bắt đâu mệt đây. Việc bước đi trở nên khó khăn quá.” Người hành hương phải gạt bỏ những cảm giác này.
Nhưng sự cám dỗ ngấm ngầm nhất là tự nói với chính mình: “Tôi đây, một vùng đất tốt, một nơi thật dễ chịu. Tôi chỉ cần nghỉ ngơi một chút ở đây.” Khi tiến về phía trước, chúng ta biết rằng cam kết của chúng ta sẽ trở thành một điều gì đó tuyệt đối. Lý do rất đơn giản: cuộc hành trình của chúng ta, cuộc hành hương của chúng ta đến từ sự cam kết của chúng ta với một con người vĩ đại hơn chúng ta vô hạn. Chúng ta thấy rằng chúng ta được yêu cầu đi trên con đường này không phải để chúng ta chỉ đến một nơi nào đó, không phải chỉ vì một số kinh nghiệm. Chúng ta được mời gọi hiệp nhất với Thiên Chúa, hiệp nhất trong Thiên Chúa.
Tập trung toàn bộ vào Thiên Chúa
Qua lời kêu gọi này, viễn cảnh mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị, Ngài định hướng chúng ta đến sự hiệp thông tuyệt đối, vì là những người hành hương, chúng ta không được đánh mất mục tiêu cuối cùng, định mệnh cuối cùng này được ghi khắc rõ ràng trong trái tim chúng ta. Không ai biết người hành hương sẽ phải gánh chịu những gì, hay những nguy hiểm mà người đó sẽ phải trải qua. Nhưng chúng ta biết, và ngày càng hiểu rõ hơn rằng sức mạnh để vượt qua những thử thách, những khó khăn đó, được ban cho chúng ta, sẽ được trao cho chúng ta bởi nguồn năng lượng mà mỗi chúng ta được mời gọi khám phá trong cõi lòng mình, mà nguồn cội của nó là Thiên Chúa, là tình yêu (1Gioan 4: 16).
Phêrô Phạm Văn Trung biên tập
theo meditationchretienne.ca
[1] Laurence Freeman (2013-04-23) Trích từ Chiêm niệm Kitô giáo, lời cầu nguyện hàng ngày của bạn.
[2] John Main, tu sĩ dòng Benedictine, là người sáng lập phong trào chiêm niệm Kitô giáo quốc tế. Sau khi học thiền từ một bậc thầy Ấn Độ giáo, ông phát hiện ra rằng trong thời cổ đại các tu sĩ Kitô giáo như Gioan Cassianô đã thực hành cầu nguyện theo cách tương tự.
2022
Làm thế nào ông Cain tìm được vợ?
Làm thế nào ông Cain tìm được vợ?
Sách Sáng Thế chỉ nói về anh em Cain, Aben và Sét là các con của đôi vợ chồng Ađam, Êva. Vậy làm thế nào mà ông Cain tìm được vợ? Thật ra Kinh Thánh có nhiều dữ kiện hơn thế.
Sau khi ông Cain ám sát em mình là Aben, “Cain trốn khỏi mặt Đức Chúa, đến vùng đất Nót, phía đông Êđen” (St 4,16). Ngay sau đó, Kinh Thánh cho biết “Cain ăn ở với vợ mình, bà thụ thai và sinh con đặt tên là Khanốc” (St 4,17).
Có điều gì đó kỳ lạ. Vậy là ông Cain đã có vợ trước đó? Thế thì bà ấy từ đâu ra?
Chúng ta nên nhớ rằng, con người thời Sáng Thế sống lâu hơn thời nay nhiều lần. Theo Kinh Thánh, “tổng tất cả thì Adam sống được chín trăm ba mươi tuổi, rồi ông qua đời” (St 5,5).
Trước đó, Sánh Thánh có nói rõ “ông có nhiều con trai con gái” (St 5,4). Theo lý luận của sách Sáng Thế, để có thể “sinh sản thật nhiều cho đầy mặt đất”, Ađam và Êva cần phải sinh thật nhiều con cái. Nếu không vậy thì loài người sẽ diệt vong ngay. Một số truyền thống truyền khẩu của Do Thái tin rằng “Ông Ađam có 33 con trai và 23 con gái.”
Kinh Thánh không cho ta biết ông Cain lấy vợ lúc nào, cũng không biết ông đã lấy một chị em gái, một người cháu, con của anh em ông, hay thậm chí là một người cháu nội hay cháu ngoại của anh em ông. Không có chi tiết nào mảy may tiết lộ điều này. Bối cảnh của Sáng Thế Ký cho thấy chắc chắn rằng Ađam và Êva là cặp vợ chồng đầu tiên của toàn thể nhân loại, do đó Cain bắt buộc phải lấy một người bà con.
Nhiều nhà Kinh Thánh học tin rằng, nói về di truyền học, Ađam và Êva hoàn toàn hoàn hảo (nếu không xét đến nguyên tội) vì là tác phẩm trực tiếp từ tay Thiên Chúa, do đó việc kết hôn cận huyết của hậu duệ ông bà sẽ không gây ra một khuyết tật nào cho con cái. Đó là kế hoạch khởi đầu của Thiên Chúa về việc sản sinh dân số cho trái đất.
Nói về văn hoá, thời đó, khi thế giới còn sơ khai, có thể xem như thời con người ăn lông ở lỗ, các loại luật pháp chưa tồn tại, cả luật Môsê cũng chưa ra đời, thì việc những người cận huyết ăn ở hay lấy nhau không những không có gì sai trái, mà còn là một phần thật sự cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đó cũng có thể là điều đúng với trường hợp của các con cái ông Nôê sau Đại Hồng Thuỷ.
Mặt khác, nhiều chuyên gia Kinh Thánh khác lại tin rằng Thiên Chúa đã tạo ra nhiều người khác bên cạnh Ađam và Êva, để rồi khi Cain rời khỏi Êđen, ông gặp nhiều người khác không có quan hệ máu mủ với mình và lấy một người con gái trong số đó làm vợ. Đây được gọi là thuyết đa tổ, cho rằng có nhiều tổ tông bên cạnh Ađam và Êva, và phát triển độc lập. Chẳng hạn học giả Mary Joan Winn Leith cho rằng Kinh Thánh được người Israen viết ra, do đó các vị tác giả Sách Thánh chỉ quan tâm các truyền thống về tổ tiên của riêng dân tộc mình mà không để ý gì các dân khác.
Sách Sáng Thế là một quyển Sách Thánh mang nặng tính biểu tượng về bản chất chứ không phải về khoa học, do đó có thể có nhiều quan niệm khác nhau được chấp nhận mà không đối lập với tinh thần nguyên thuỷ của văn bản. Việc gần đây Giáo Hội không nói nhiều về tính biểu tượng hay thực chất của các sự kiện trong sách Sáng Thế đã để lại một cánh cửa mở.
Huấn quyền Hội Thánh bác bỏ thuyết đa tổ. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã viết trong Tông thư “Humani Generis”:
“Các tín hữu không được cổ vũ một trong các ý niệm rằng sau Ađam thì có những con người không có nguồn gốc từ ông như là tổ tiên của tất cả, hay rằng Ađam chỉ là đại diện một số những con người được tạo dựng đầu tiên. Rõ ràng là không có cách nào một ý niệm như thế có thể dung hoà với các nguồn chân lý được mặc khải và các văn bản huấn quyền của Hội Thánh liên quan đến tội nguyên tổ, tội phát nguyên từ một tội lỗi thực sự đã phạm bởi Ađam, và là tội được truyền qua mọi thế hệ, tội mọi người đều mang như là tội lỗi của chính bản thân.”
Giáo Hội dạy rằng Kinh Thánh chủ yếu chứa đựng những gì là cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta, do đó không nhất thiết phải trùng khớp tuyệt đối với khoa học, thế nên có nhiều chi tiết mà các tác giả đã bỏ qua vì muốn tập trung vào trọng tâm của văn bản.
Theo Aleteia
Gioakim Nguyễn lược dịch
2022
Về việc gieo vần cho lời ca trong thánh ca
VỀ VIỆC GIEO VẦN CHO LỜI CA TRONG THÁNH CA
Nhạc sĩ Phanxicô
– Bài viết này mong được làm một bước song hành với các bạn trẻ hoạt động thánh nhạc trên đường tìm kiếm những tiếng nhạc lời ca xứng hợp với phụng vụ thánh. Việc tìm kiếm này là cần thiết, là hưởng ứng lời Thánh vịnh 47,8 “Hãy ngợi khen Người bằng bài ca tuyệt mỹ” mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trích dẫn khi bàn về thánh nhạc, sau đó ngài nhấn mạnh thêm: “Cần phải khám phá và sống liên lỉ với vẻ đẹp của cầu nguyện và phụng vụ. Chúng ta phải cầu nguyện cùng Thiên Chúa bằng kinh nguyện chứa đựng thần học chính xác và bằng thể thức vừa đẹp vừa long trọng” và khuyến cáo: “Cộng đoàn Kitô hữu phải tự vấn lương tâm để vẻ đẹp của âm nhạc và thánh nhạc trở lại với phụng vụ. Các Kitô hữu phải thanh lọc phụng vụ cho khỏi những phong cách sáng tác tầm thường, những hình thức biểu đạt vô vị, những lời ca nhạt loãng, không xứng đáng với việc phụng vụ được cử hành” (Diễn từ Buổi tiếp kiến chung ngày 26-2-2003; xin xem thêm Thư đề ngày 22-11-2003 nhân dịp mừng kỷ niệm bách chu niên Tự sắc Tra le sollecitudini).
Trong những năm gần đây, có nhiều tác giả trẻ đến với thánh ca phụng vụ và đóng góp nhiều bài hát mới với những giai điệu và lời ca mang hơi thở và tâm tư của thế hệ mới. Tuy nhiên, cũng thấy có những giá trị truyền thống bị lãng quên, trong đó có giá trị thi ca trong ca từ. Xin được cùng với các nhạc sĩ Công giáo trẻ tìm về một trong những yếu tố quan trọng của thi ca là việc gieo vần thơ. Đây là một việc khó hơn cả việc làm thơ, bởi lẽ nhạc sĩ phải làm thơ để ca từ thích hợp với giai điệu âm nhạc, nhưng chúng ta sẽ ôn lại quá khứ để học xem các nhạc sĩ tiền bối đã thực hiện tốt đẹp việc gieo vần cho lời ca trong thánh ca như thế nào.
1. Việc gieo vần làm cho lời ca đẹp hơn
Lời ca trong ca khúc thánh ca, giống như lời thơ ở các bài thơ, luôn được ngắt thành nhiều câu, nhiều chi câu, và thường được gieo vần ở cuối, có khi ở giữa, các câu hoặc các chi câu. Việc gieo vần:
– Làm cho lời ca hoặc lời thơ mang tính nghệ thuật văn chương;
– Làm cho các câu hát hoặc các câu thơ liên kết chặt chẽ với nhau;
– Làm cho bài thơ hoặc bài hát dễ nhớ, dễ thuộc hơn.
Trong âm nhạc nói chung, các yếu tố (giai điệu, tiết tấu, hòa âm) là các công cụ để vẽ ra bức tranh. Riêng trong ca khúc, có thêm một công cụ “làm đẹp” nữa, đó là lời ca. Câu hát, tức câu nhạc có lời ca, luôn được hình thành nhờ giai điệu, tiết tấu và hòa âm, nhưng người nghe vẫn chờ đợi cái kết của nó là vần thơ. Khi diễn tiến, câu hát tạo ra một sức căng (tension) chuyển dần đến cái kết giải tỏa. Và rồi, ta nghe thấy câu hát dừng lại ở một từ được gieo vần, và ta reo lên trong lòng: “A, nó đến rồi đó, ý tưởng đi đến âm thanh kết thúc như thế và vần thơ đem lại sự giải tỏa kết thúc như thế thật là đẹp”.
Một tình yêu bao la
Tháng năm lần bước qua
Khúc ca thân ái còn trầm hòa (Kim Long)
Thờ lạy tin yêu Chúa từ nhân
vì quá yêu con lưu lạc thế trần
đã hy sinh nên Bánh Trường Sinh
giúp con đủ sức về thiên đình (Thiện Cẩm)
Silent night, holy night
All is calm, all is bright
Roundyon Virgin, mother and child
Holy infant, so tender and mild (Franz Gruber – Lời: Bettina Klein)
Hiến chế về Phụng vụ, số 112, dạy về sự biểu cảm của thánh nhạc: “Thánh nhạc vừa phát triển lời cầu nguyện cách dịu dàng hơn, vừa cổ võ sự đồng thanh nhất trí, lại vừa làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng”. Vì thế, bài hát thánh ca không phải là bản văn khô khan được dệt nhạc, nhưng là bài hát diễn tả các chân lý đức tin trong thần khí (x. Ga 4,23) và bằng cảm xúc. Thánh Augustinô đã tâm sự: “Khi nghe thánh ca, tôi đã khóc vì tiếng hát ngọt ngào của Giáo Hội khiến lòng tôi xúc động thẳm sâu. Âm nhạc tràn vào tim tôi, chân lý thấm vào tim tôi, cảm xúc hòa cùng lòng sốt sắng trong tôi trào dâng, và nước mắt tôi tuôn rơi trong niềm hạnh phúc” (Tự thuật, Chương IX; x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, 1157).
Hiến chế về Phụng vụ cũng nhấn mạnh đến “sự đồng thanh nhất trí”, tức đề cao “việc tham dự trọn vẹn và tích cực của toàn thể dân Chúa” (số 14). Chăm chút đến tính thẩm mỹ của lời ca trong bài thánh ca, trong đó có việc gieo vần thơ, là một trong những nỗ lực dùng âm nhạc nâng cao tâm tình cầu nguyện và khuyến khích cộng đoàn tham dự trọn vẹn và tích cực vào phụng vụ.
2. Có khi, người viết lời ca cố ý không gieo vần
2.1. Chưa thấy ai nói đến việc cố ý không gieo vần cho lời ca để tạo hiệu quả đặc biệt, bởi lẽ sẽ không tạo ra được hiệu quả đặc biệt nào, có chăng là hiệu quả ngược, để lại ấn tượng là lời ca thiếu chất thơ hoặc tác giả thiếu chăm chút khi viết lời ca.
2.2. Thông thường, nhạc sĩ cố ý không gieo vần ở những chỗ trong bài hát mà việc gieo vần cản trở việc diễn đạt ý tưởng của lời ca (xin xem mục 7.1).
Nhạc sĩ cũng có thể chọn không gieo vần khi dệt nhạc cho những trích dẫn từ Kinh Thánh hoặc từ bản văn phụng vụ hay từ bản văn nổi tiếng, và muốn giữ nguyên văn những trích dẫn ấy để bảo đảm điều quan trọng là diễn đạt trung thành các ý tưởng được trích dẫn.
Ví dụ, câu Ga 13,34 được dệt nhạc nguyên văn, không gieo vần:
Chúa phán rằng: “Ta cho các con một điều răn mới
là yêu thương nhau, như chính Ta đã yêu các con. (Hoàng Kim)
Nhưng với câu Mt 11,28: “Tất cả những ai đang vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”, tác giả dệt nhạc muốn gieo vần, nên chỉ dựa theo ý của câu Kinh Thánh chứ không dùng nguyên văn bản văn.
Hãy đến với Ta, hỡi ai nặng gánh u sầu,
ai lần bước trong đêm thâu,
ai từng phút giây lo âu
tìm về đâu (Kim Long)
Thật vui nếu câu Kinh Thánh đã có sẵn vần thơ hoặc dễ gieo vần:
Chúa chăn nuôi tôi,
tôi chẳng thiếu thốn chi,
trên đồng cỏ xanh rì
Người thả tôi nằm nghỉ. (Tv 22, 1)
Bên bờ sông Ba-by-lon,
ta ngồi khóc nhớ Si-on (Tv 137,1)
Ai đi trong chính lộ,
ta chỉ cho biết ơn cứu độ của Chúa. (Tv 50,23)
Người ta cứ dấu này
mà nhận biết các con là môn đệ Thầy.
Là các con yêu thương nhau” (Ga 13, 35) – (Kim Long)
Nhưng lòng từ bi Chúa tồn tại đến muôn đời,
đối với những kẻ kính sợ Người; (Tv 102, 17) – (Mỹ Sơn)
2.3. Có ý kiến cho rằng nên viết lời ca tự do, không vần, để trí sáng tạo thơ không bị hạn chế vì việc tìm chữ gieo vần. Nhưng cũng có ý kiến khác rằng chính việc không tìm chữ gieo vần là một hạn chế lớn, ngăn trở đường đến với lời ca đẹp.
3. Có khi, việc gieo vần được thay thế bằng yếu tố liên kết khác
3.1. Như đã nói trên, việc gieo vần nhằm liên kết các câu thơ. Tuy nhiên, ngoài vần thơ ra, còn có những yếu tố khác có thể đảm nhiệm việc liên kết này thay cho vần thơ tuy hiệu quả không bằng vần thơ.
Xin chỉ cho con
đường đi của Chúa.
Xin dạy bảo con
nước bước của Ngài. (Hùng Lân)
Các câu thơ liên kết chặt chẽ với nhau nhờ sự liên kết có sẵn trong thành ngữ “đường đi, nước bước”.
Kìa Bà nào đang tiến lên như rạng đông,
đẹp như mặt trăng,
rực rỡ như mặt trời,
uy hùng như đạo binh sắp hàng vào trận. (Dc 6,10) – (Hoàng Diệp)
Yếu tố liên kết là sự lặp đi lặp lại các so sánh. Lại có thêm sức liên kết ở cặp tiểu đối “như mặt trăng, như mặt trời”.
Sự lặp đi lặp lại và tiểu đối cũng tạo được sự liên kết trong đoạn thơ này:
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,
đem chân lý vào chốn lỗi lầm (Kim Long)
3.2. Còn một cách thức khác để liên kết hai câu thơ không gieo vần, đó là sử dụng các liên từ kép như: tuy /mặc dù / dẫu… nhưng, hay nếu. thì, hoặc không những. mà còn, trong khi. thì.
Hồng ân Chúa bao la tuôn đổ xuống chan hòa.
Tuy tay con nhỏ bé
(nhưng) bao nhiêu cũng không vừa (Thiện Cẩm)
Nếu Chúa là mặt trời, (thì) con mong làm trái đất.
Nếu Chúa là trái đất, (thì) con muốn làm vầng trăng.
Làm vầng trăng xoay quanh trái đất,
Làm trái đất xoay quanh mặt trời (Kim Long)
4. Có khi, việc gieo vần rất cần thiết
4.1. Người nghe rất muốn nghe lời ca có gieo vần thơ khi phần nhạc dùng kỹ thuật lặp lại (tức ý nhạc sau lặp lại nguyên vẹn ý nhạc trước) và kỹ thuật phỏng tạo (tức ý nhạc sau sau mô phỏng ý nhạc trước).
4.2. Nếu chọn đặt lời ca theo thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, cần phải giữ đúng luật gieo vần của các thể thơ này.
Thương con thuở rất xa vời (là vời)
Từ khi chưa có (í a) mặt trời (mặt trời trăng) mặt trăng. (Hùng Lân)
Kìa ai dong duổi đường gió bụi.
Gánh sầu thương mệt mỏi hai vai.
Về đây nấp bóng Sao Mai.
Về đây quên lãng những ngày truân chuyên. (Vinh Hạnh)
Chỉ xin đọng giọt yêu thương
Chỉ xin tiếng hát làm đường Chúa đi (Viết Chung)
Chúa ôi, tình Chúa bao la
Cho con no thỏa hương hoa thiên đàng (Hải Triều – Hải Linh)
Trong bài hát sau đây, ở phần mở đầu phiên khúc 2 có lời thơ lục bát rất đúng luật thơ:
Đời con ước nguyện từ đây
Đem lòng bác ái dựng xây tình người (Lan Thanh)
Rất tiếc là đầu phiên khúc 1 có lạc vận (“con” không vần với “sao”):
Giờ đây Chúa ngự trong con
Ôi niềm vui sướng làm sao giãi bày
5. Lời thơ và lời ca có những khác biệt, trong đó có khác biệt về việc gieo vần
Chỉ xin nói đến những khác biệt về việc gieo vần.
5.1. Lời thơ để đọc, còn lời ca để hát lên. Lời thơ bày ra trước mắt như một bức tranh, và ánh mắt có thể nhìn toàn thể bài thơ (ngoại trừ những bài thơ quá dài). Lời ca thì vang lên cho tai nghe lần lượt từng câu theo chuyển động của thời gian, vì thế hai câu lời ca có vần với nhau nhưng cách xa nhau sẽ không đem lại hiệu quả.
Chúa là hạnh phúc, Chúa là mùa xuân
Chúa cho con nụ cười tươi thắm
Chúa cho con muôn hoa thơm ngát
Con biết lấy gì đền đáp hồng ân
Xin xem thêm về cấu trúc ABBA ở mục 9.5.
5.2. Lời thơ để đọc, thường để đọc thầm, còn lời ca vang lên có sự hỗ trợ của phần nhạc (giai điệu), và nhiều khi có thêm phần nhạc đệm (nhạc cụ). Vì thế, vần trong lời ca có tính biểu cảm nhiều hơn vần trong lời thơ.
Dù qua thung lũng mù sương
Tôi luôn vui sướng tựa nương bên Người. (Kim Long)
Hình ảnh “mù sương” được giai điệu hỗ trợ khắc họa hiệu quả bằng những quãng nhạc nửa cung mềm mại mà thi ca thuần túy không có được:
5.3. Vần thơ để đọc, nên không có khó khăn gì khi đọc, dù đọc vần mở hay vần đóng. Nhưng vần của lời ca thường được hát ngân dài, vì thế, khi có thể, nhạc sĩ chọn ưu tiên cho vần mở (không có phụ âm cuối), tránh vần đóng (tức có phụ âm cuối), để dễ hát hơn.
Trong ánh sáng của Chúa yêu thương
Con an tâm vững bước trên đường
Có thể đảo lại như sau để dễ hát hơn:
Trong ánh sáng của Chúa thương yêu
Con an tâm vững bước sớm chiều
Ca đoàn khéo hoặc ca sĩ giỏi có thể ca diễn mọi âm, mọi tiếng, nhưng sẽ tốt đẹp hơn nếu lời ca tạo cho họ sự dễ dàng bằng vần mở.
6. Việc tìm chữ gieo vần có thể giúp gợi ra ý tưởng cho lời ca
6.1. Đôi khi, một chữ tìm được để gieo vần cũng giúp nhạc sĩ có ý tưởng mới để viết lời ca hoặc để thay đổi phần giai điệu cho tốt đẹp hơn.
Trong sách “Mấy kinh nghiệm để viết thánh ca”, Cha Kim Long chia sẻ: “Theo kinh nghiệm, nhiều khi việc tìm một chữ để gieo vần giúp ý tưởng nảy sinh dễ dàng… Khi viết câu: Nhìn hương trầm bay trong ánh nến, tôi nghĩ tới hai chữ “sốt mến” và viết tiếp: Lòng nghe rộn lên bao sốt mến”.
6.2. Khi gặp chỗ có khó khăn về gieo vần, nhạc sĩ có thể thay đổi vài nốt nhạc hoặc thay đổi ít nhiều về lời ca đã viết; phần nhạc và lời mới có thể sẽ giúp gợi ý tìm vần dễ dàng hơn.
7. Ngược lại, việc cố sức gieo vần có thể gây hại cho lời ca
7.1. Đôi khi, vì tìm được cặp vần ưng ý nào đó, người viết thay đổi ý tưởng ban đầu bằng ý tưởng mới, kém hơn. Trong khi đó, còn hai hướng chọn lựa khác: một là, đi tìm cặp vần khác để giữ được ý tưởng hay đã có; hai là, không gieo vần để giữ lại ý tưởng ấy (xin xem mục 2.2). Thà rằng không gieo vần cho hai câu nào đó để trình bày rõ ý tưởng hơn là cố gieo vần để rồi có lời ca mơ hồ hoặc khập khiễng.
7.2. Trong khi người làm thơ được tự do với ngòi bút thì người viết lời ca phải cho lời ca song hành và phù hợp với phần nhạc, và sự phù hợp này nằm ở nhiều phương diện: chuyển động về cao độ, tiết tấu, hợp âm, hòa âm… Riêng với thánh ca, còn có thêm các phương diện: tín lý, phụng vụ, mục vụ. Các dấu giọng của tiếng Việt cũng là một yếu tố quan trọng chi phối lời ca. Vì thế, lắm khi, vì phải phụ thuộc vào giai điệu nên nhạc sĩ gieo vần khiên cưỡng, còn gọi là ép vần, khiến lời ca trở nên bất hợp lý, có khi đến nỗi sai tín lý.
Mỗi ngày Chúa cho con nhiều thêm
Mỗi ngày tháng năm thêm đềm êm
Việc ép vần tạo ra từ “đềm êm”, không có trong tiếng Việt.
Thánh Giuse phụng sự Thiên Chúa trọn tình
Giữ gìn và nuôi dưỡng Chúa Con hết mình
Việc ép vần dẫn đến từ “hết mình” vốn là khẩu ngữ, không thích hợp với lời thơ và lời ca.
Thánh Gioan là người đầu tiên
bên bờ sông giới thiệu Chúa Chiên
Việc ép vần dẫn đến sự nhầm lẫn giữa Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei) và Chúa Chiên (Dominus Pastor).
Xin dẫn đưa tới thiên đàng
là nơi chúng con mơ màng
Việc ép vần dẫn đến sự nhầm lẫn giữa “mơ màng” và “ước mơ” / “ước mong” / “ngóng trông” và, vì thế, mô tả sai tín lý về thiên đàng.
7.3. Vần trùng (còn gọi là điệp vận, tức hai chữ để gieo vần lại giống hệt nhau cả về âm và về nghĩa) cũng có thể là một dạng ép vần, nghe không hay lắm.
Ôi Cha yêu con, yêu con thật hết tình
Này Mình Máu Thánh nuôi hồn con thêm thắm tình (Thu Lâm)
Nhưng lặp lại một chữ nào đó với ý nhấn mạnh lại có hiệu quả tốt đẹp.
Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa,
đến muôn đời con ngợi khen Danh Chúa,
muôn muôn đời con ca vang tình thương Chúa,
và mãi mãi con nhớ công ơn Người. (Đàm Ninh Hoa)
Hãy trông lại chỉ một giây thôi,
hãy ban lời chỉ một câu thôi (Hùng Lân)
8. Các loại vần trong lời ca
8.1. Về thanh điệu
- Vần bằng
Là vần giữa các tiếng (chữ / âm tiết) không dấu hoặc có dấu huyền, như ba với la, mơ với chờ, nhìn với tin, hà với nhà, thềm với êm.
Năm xưa trên cây sồi,
làng Fatima xa xôi (Lê Huy)
Lạy Mẹ, xin yên ủi chúng con luôn luôn,
Mẹ từ bi, xin phá những nỗi u buồn (Nguyễn Khắc Xuyên)
- Vần trắc
Là vần giữa các tiếng mang dấu sắc, hỏi, ngã, nặng, như lá với lạ, lá với má, lá với mạ, tội với vội, tội với lơi, biết với biệt, biết với thiết, ngã với đã, ngã với trả.
Chúa ngự trong Phép Thánh,
yêu quý nhân loại hiến thân trong hình bánh (Hoài Chiên)
Bà là ai, như hào quang Thiên Chúa,
như mùa xuân không úa (Hoàng Diệp)
Trần gian là nơi khổ hải,
Hồn con tựa thuyền không lái (Thăng Ca)
Mẹ ơi, thế trần là nơi gian khổ,
Biển đời con gặp bao cơn giông tố (Triệu Hà)
Xin hướng dẫn con trong chân lý
xin dạy bảo con những điều cao quý (Hùng Lân)
- Vần bằng – trắc
Là vần giữa tiếng bằng với tiếng trắc hoặc tiếng trắc nới tiếng bằng, như kinh với kính, kinh với chính, thánh với thành, thánh với nhành.
Ngày xưa trên đồi Gôn-gô-ta
Mẹ đứng gần bên Thánh Giá (Huyền Linh)
Xin dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la
Xin dâng lời cảm mến hòa theo tiếng hát dâng lên (Vũ Đình Trác, Hải Linh)
Như vì sao mai rạng
như chính cửa thiên đàng (Hoàng Diệp)
Con dâng về Mẹ, một niềm tin yêu bao la,
một lòng cậy trông vàng đá (Kim Long)
Thương con tự ngàn xưa
một tình yêu chan chứa (Oanh Sông Lam)
8.2. Về âm
- Vần chính
Là vần giữa những tiếng cùng một khuôn âm như la với ca, vơi với ngời, vững với những, khát với mát, ngã với trả, sợ với đỡ, xiết với biệt, riêng với nghiêng.
Cất tiếng hòa ca
Kính mừng Ma-ri-a (Ngô Duy Linh)
Ngày xưa Thánh Giá là đền hy sinh,
Máu Chúa chan hòa ghi dấu ân tình (Hải Ánh)
Xin tiến dâng Cha trọn vẹn xác hồn,
nên như của lễ thay cho trần thế,
ca tụng yêu mến Người. (Kim Long)
Xin xem thêm các ví dụ ở mục 8.1 a) và b).
- Vần thông
Là vần giữa những tiếng có khuôn âm mang máng giống nhau, như -inh với -anh, -ăm với -âm, -ai với -ươi, -ươi với -oi, -ôi với -ươi, -ao với -au trong các ví dụ dưới đây.
Hôm qua tát nước đầu đình
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen (Ca dao)
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. (Nguyễn Du)
Dâng ngành Mân côi,
muôn màu hoa thắm tươi (Hải Linh)
Bà là ai, tay bồng Vua thơ bé,
tay tràn ơn cứu thế. (Hoàng Diệp)
Hôm nay là ngày Thiên Chúa dựng nên,
Chúng tôi vui mừng sung sướng triền miên. (Hùng Lân)
Trong đêm u tối, chúng con mong ngày mau tới
như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối (Duy Tân)
Xin cho con quên đi bao nhiêu gian truân ngày buồn đưa tới.
Xin cho con luôn luôn yêu thương bao dung người đời gian dối. (Thành Tâm)
Đêm nay Noel về
Hồn ơi, lắng tai nghe (Xuân Ly Băng)
Chiều hôm nao, tiếng hát bay cao
quỳ bên nhau trước Đấng Tối Cao (Thành Tâm)
Xin dâng lên của lễ đầu mùa
hoa thơm trái chín mong chờ bấy nay (Viết Chung)
8.3. Về vị trí
- Vần chân
Là vần (thông dụng nhất), được gieo giữa tiếng cuối của câu này với tiếng cuối của câu kia.
Đôi môi như hoa cười
Mẹ Ma-ri-a vui tươi (Lê Huy)
Lạy Chúa Giê-su vô cùng lân tuất,
vì công Chúa xưa đã lập trên đất (Hùng Lân)
- Vần lưng
Là vần (rất độc đáo trong thi ca Việt Nam) giữa tiếng ở cuối câu trước với tiếng ở giữa câu sau; thường cả hai tiếng đều là vần bằng hoặc đều là vần trắc.
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây (Đồng dao)
Trên trời mây trắng như bông
Ở giữa cánh đồng bông trắng như mây (Ca dao)
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quyện nhau đi (Ca dao)
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra (Ca dao)
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu (Đoàn Thị Điểm)
Đa tình là nợ
Đã mắc vào đố gỡ cho ra (Nguyễn Công Trứ)
Tình thổi gió, mầu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa (Xuân Diệu)
Kìa ai thiếu vỗ về người mẹ
Tháng ngày trôi lặng lẽ cô liêu (Vinh Hạnh)
Qua bao nhiêu dòng đời dưới thế
Qua bao nhiêu thế hệ dương gian (Nguyễn Khắc Tuần)
Mẹ nỉ non bao lần
Tôi gian trần để phiền cho trái tim Mẹ (Nguyễn Khắc Tuần)
Thánh Tâm Chúa Giêsu tràn lan niềm thương xót
Xin thương những người đã trót vô tình vấp phạm đến Chúa nhân từ (Huyền Linh)
Ôi lạy cha nuôi Chúa Cứu Thế,
Lạy quan thầy thần thế trên trời (Thăng Ca)
Từ bình minh con kêu lên Chúa
Và ban đêm con hướng đến Ngài
Khi hồn con u hoài thất vọng
Chúa nên nguồn an vui tuyệt đối (Nguyên Kha)
Cũng có khi vần được gieo cho tiếng ở giữa câu trước với tiếng ở giữa câu sau.
Dạt dào trên sóng con luôn vững tâm cậy trông
Đời con đang sổng xin cho hồn con trắng trong (Minh Đệ)
Bàn thạch Phê-rô trường tồn thay
Đồng trụ Phao-lô trường tồn thay (Hùng Lân, Hùng Thái Hoan)
Khi mưa nắng gian lao miệt mài
Khi thức trắng qua bao đêm dài
Hai câu này có thể không liền nhau:
Quỳ bên cung thánh, đoàn con thiết tha kêu cầu Chúa
Lời kinh thắm lệ nguyện xin Chúa thứ tha tội nhơ
Vượt qua năm tháng, tình yêu Chúa kiên trung bền vững
Ngàn muôn thế hệ cùng chung tiếng hát ca tôn thờ (Kim Long)
Vần lưng rất hữu ích vì có thể thay thế vần chân và làm cho hai câu thơ kết rất chặt với nhau. Trong ví dụ dưới đây, tác giả đã chọn để chữ “trời” vần với chữ thứ hai (“đời”) thay vì với chữ cuối của câu sau:
Đây bài ca vang hòa đất trời
ngàn đời tiến dâng (Kim Long)
- Vần trong
Là vần bằng hoặc vần trắc trong nội bộ một câu.
Người hỡi hãy kíp bước tới,
đến xem nơi hang Be-lem (Hải Linh – Minh Châu)
Thánh Giu-se, (nguyện xin) đoái thương nghe (Trần Hùng Dũng)
Để những lúc chiến đấu trời xa dãi dầu,
lòng Mẹ luôn dâng cao, sưởi ấm nỗi thương đau (Huyền Linh)
Trong bóng đêm thanh, tinh tú long lanh, mây gió đưa nhanh muôn khúc tân ca mau vang hòa (Kim Long)
Từ bây giờ cho đến ngàn thu, con hát ca và tán dương
tình Chúa thương như đại dương bao la (Oanh Sông Lam)
Vần trong rất hữu ích vì có thể thay thế vần chân. Trong ví dụ dưới đây, tác giả muốn chữ cuối của câu đi sau bắt vần với chữ cuối của câu đi trước (“bình”), nhưng nếu không tìm được chữ thích hợp thì có thể gieo vần trong nội bộ câu đi sau:
Muôn dân muôn nơi mong được nhịp sống thanh bình,
nguyện khắp gần xa đời mãi nở hoa an vui
9. Một số cấu trúc vần cho lời ca
Trong âm nhạc, sự sáng tạo đi tới thiên hình vạn trạng không có mẫu số chung hay khuôn khổ chung cho các câu nhạc. Vậy, chỉ xin giới thiệu một số cấu trúc vần thông dụng cho các câu có gieo vần được sắp đặt cân phương trong lời ca của những bài thánh ca Việt Nam quen thuộc.
9.1. AAAA (bốn câu, tất cả gieo một vần):
A: Muôn dân xum họp đây
A: nơi thánh điện hương ngát bay
A: Vạn lòng cùng vui say
A: ơn Chúa tràn ứ trong chốn này (Kim Long)
9.2. AABA (bốn câu, có ba câu gieo một vần như thể thơ tứ tuyệt):
A: Trước khi chịu khổ hình
A: Chúa lập lễ hy sinh
B: Cầm tay bánh và rượu
A: Âu yếm nhủ nhân sinh (Đỗ Xuân Quế – Tiến Dũng)
A: Giờ đây hạnh phúc độc nhất đời con
A: Êm đềm Chúa nhìn hạnh phúc nào hơn
B: Lòng con ngây ngất tin Chúa yêu Chúa
A: Trong tình Chúa yêu, con phó dâng tâm hồn (Tâm Bảo)
9.3. AABB (bốn câu, từng cặp lần lượt gieo vần):
A: Lạy Mẹ xin yên ủi chúng con luôn luôn
A: Mẹ từ bi xin phá những nỗi u buồn
B: vì đời con gieo rắc những nỗi đau thương
B: và tràn lan gai góc vướng trên con đường (Nguyễn Khắc Xuyên)
9.4. ABAB (bốn câu, từng cặp xen kẽ gieo vần):
A: Như cây trồng bên bờ suối
B: đúng mùa sinh trái đơm hoa
A: lo chi mùa đi mùa tới
B: suốt năm cành lá la đà (Hùng Lân)
A: Kìa trông huy hoàng vì sao
B: Chiếu soi gần xa khắp miền
A: Nào hỡi mục đồng dậy mau
B: Chớ lo chi, hãy bằng yên (Hoài Đức – Vĩnh Phước)
9.5. ABBA (bốn câu, từng cặp gieo vần, cặp AA ở đầu và cuối, ôm lấy cặp BB ở giữa):
A: Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình.
B: Con đớn đau nhìn vũ trụ tự hối.
B: Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối.
A: Quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình (Hoài Đức)
A: Nhưng lòng Chúa quá bao la,
B: dù cho bao phen con yếu đuối,
B: thành tâm xin ăn năn thống hối
A: là Ngài lại thứ tha (Kim Long)
Thi pháp Tây phương gọi đây là “vần bao” (enclosed rhyme / envelope rhyme), hoặc gọi vui là “vần bánh mì kẹp thịt” (“sandwich” rhyme).
A: There is a young cowboy, he lives on the range
B: His horse and his cattle are his only companions
B: He works in the saddle and he sleeps in the canyons
A: Waiting for summer his pastures to change (James Taylor)
9.6. ABAC (bốn câu, câu thứ nhất vần với câu thứ ba):
A: Lạy Mẹ Maria. Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đồng trinh
B: Đoàn con chung tiếng hát chung tấm lòng dâng đời sống.
A: Lạy Mẹ Maria, Mẹ nhân ái, Mẹ hiển vinh,
C: Mẹ chính là Nữ Vương là trạng sư, là Mẹ con (Hoài Đức)
9.7. BACA (bốn câu, câu thứ hai vần với câu thứ tư):
B: Theo tiếng thiên thần xưa kính chào
A: Chúng con tha thiết mừng khen
C: Âu yếm trông Mẹ nhân ái
A: Mẹ hỡi, lắng nghe lời con hèn (Hoàng Diệp)
9.8. BCAA (bốn câu, câu thứ ba vần với câu thứ tư):
B: Dâng lên Chúa bánh miến và rượu nho khiết tinh
C: góp về từ muôn cánh đồng dân Chúa
A: Dâng lên Chúa lễ thánh là Con Cha chí nhân
A: như khi xưa Người dâng hiến cho nhân trần (Duy Thiên)
9.9. AAAB (bốn câu, câu cuối không gieo vần):
A: Ớ linh hồn xấu xa phạm tội nhiều
A: Chúa khoan dung chờ đợi mến yêu
A: Hãy thật lòng ăn năn chừa chớ liều
B: Gục đầu yên tựa bên lòng Chúa (Tâm Bảo)
9.10. ABAA (bốn câu, câu thứ hai không gieo vần):
A: Có Chúa là Đấng chăn dắt tôi,
B: tôi sẽ không còn sợ thiếu thốn chi
A: Có Chúa, Người dẫn tôi nghỉ ngơi
A: êm ái trong nơi đồng cỏ xanh tươi (Hoài Chiên)
Bên ngoài lãnh vực thánh ca có bài thơ nổi tiếng đã dùng cấu trúc vần ABAA hiếm gặp:
A: Lên xe tiễn em đi
B: Chưa bao giờ buồn thế
A: Trời mùa đông Paris
A: Suốt đời làm chia ly (Cung Trầm Tưởng)
9.11. AAA (3 câu vần với nhau):
A: Đây đời con buồn vui luôn nhớ ơn,
A: Vì thương, giờ đây Ngài ban cho chúng con,
A: Người Con Ngài yêu, bánh nuôi hồn (Thành Tâm)
9.12. AAB (3 câu, câu thứ nhất vần với câu thứ hai):
A: Mẹ đứng dưới chân thánh giá ngắm Con,
A: xác thân quý yêu nay đã hao mòn,
B: đang còn treo ở trên Thập Tự (Nguyên Hữu)
9.13. BAA (3 câu, câu thứ hai vần với câu thứ ba):
B: Nếm thử mà xem,
A: mà xem Chúa ngọt ngào,
A: ngọt ngào xiết bao (Cát Minh)
9.14. AA (2 câu, có gieo vần):
A: Ngàn lời ca vang mừng Chúa uy linh
A: Ngàn lời ca vang một khúc ca thanh bình (Nguyễn Văn Hòa – Tiến Dũng)
A: Dâng lên trước thiên tòa này bánh thơm với rượu ngon
A: Dâng lên trót tâm hồn và trót thân xác của con (Phạm Liên Hùng)
A: Hỡi triều thần từ trời cao xanh
A: Xin hòa ca theo lời chư thánh (Kim Long)
A: Đàn hát lên hỡi các dân ơi
A: Hát ca mừng Chúa ta một bài ca mới (Thiện Cẩm)
9.15. Với điệp khúc hoặc phiên khúc chỉ có hai câu:
- Nếu không thể gieo vần hoặc không muốn gieo vần, nên để hai câu có tiếng cuối khác nhau về bằng – trắc.
+ bằng trước, trắc sau:
Ai sẽ cho con đôi cánh chim bằng
Để con bay thẳng lên cùng Thiên Chúa (Kim Long)
+ trắc trước, bằng sau:
Tình yêu Chúa ôi cao vời vĩ đại
Con lấy gì báo đáp lại cho cân (Phạm Liên Hùng)
- Có thể gieo vần bằng một trong những cách sau:
+ bằng – bằng:
Con dâng lên Ngài niềm cảm mến vô biên
Con dâng lên Ngài ôi trái tim dịu hiền (Dao Kim – Trầm Hương)
+ trắc – trắc:
Với tâm tình kính tin, yêu mến
Con xin thưa: này con xin đến
+ bằng – trắc hoặc trắc – bằng:
Hỡi vạn vật từ ngàn sơn khê,
xin hòa ca theo lời nhân thế (Kim Long)
Xin xem mục 8.1.c.
- Có thể câu sau nhắc lại nguyên vẹn câu trước:
Ôi cao siêu, Chúa là lễ vật toàn thiêu
Ôi cao siêu, Chúa là lễ vật toàn thiêu (Gioan Minh)
Dân ta ơi tiến về Nhà Chúa
Dân ta ơi tiến về Nhà Chúa (Gioan Minh)
Lạy Chúa, con tìm Nhan Thánh Chúa
Lạy Chúa, con tìm Nhan Thánh Chúa (Cát Minh)
9.16. Ngoài cấu trúc gồm những câu đều nhau và cân phương, các nhạc sĩ còn tìm kiếm nhiều cách phong phú để thể hiện sự cân đối, có thể có gieo vần hoặc không gieo vần.
+ Câu giữa chia đôi, cân đối và có gieo vần. Hai câu hai bên đối xứng:
Chúa ở với tôi,
triều ánh sáng hy vọng /gieo sổng vui trong lòng
Chúa ở với tôi (Thiện Cẩm)
Chúa là tình yêu
cao vời trên ngàn mây xanh / ấm lòng cho người lữ hành, Chúa là tình yêu (Oanh Sông Lam)
+ Câu giữa biệt lập, làm nhịp cầu cho hai câu hai bên đối xứng:
Từ hừng sáng tôi đã khẩn cầu,
lạy Chúa Trời tôi, Thiên Chúa tôi,
này thần trí tôi những khao khát Người (Kim Long)
Chúa là hạnh phúc của con,
Chúa ơi,
Chúa là hoan lạc đời con (Thiện Cẩm)
+ Câu thứ nhất để khởi. Hai câu giữa cân đối với nhau. Câu cuối để kết:
Mẹ ơi,
đời con dõi bước theo Mẹ,
lòng con quyết noi gương Mẹ,
xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng (Mi Trầm)
10. Vần thơ trong lời ca của bài hát mang âm hưởng dân ca
10.1. Vần thơ luôn có mặt trong các bài dân ca Việt Nam.
Trèo lên quán Dốc,
ngồi gốc (ôi a) cây đa (Trèo lên quán Dốc)
Một mảnh trăng treo suốt canh thâu
Em ơi trăng đã ngả ngang đầu
Thương nhớ ai chim ơi cho nhắn một đôi lời
Người đi xa có nhớ là nhớ ai ngồi
Trông cánh chim trời sao chẳng thấy đâu (Bèo dạt mây trôi)
Vì thế, không thể không gieo vần trong lời ca của bài thánh ca mang âm hưởng dân ca.
Cánh tay con này vươn cao.
Như đất mong mưa rào,
hồn con mong Chúa dường bao. (Dao Kim)
Tình yêu Chúa cao vời biết bao,
nào con biết đáp đền thế nào (Duy Thiên)
Máng lừa chiên mãi đồng xa,
cũng đành dừng chân trú qua đêm không nhà (Hải Triều – Cát Minh)
10.2. Một yêu cầu nữa là lời ca nói chung và vần thơ nói riêng nên có màu sắc của văn chương Việt Nam. Đậm dân tộc tính nhất vẫn là vần thơ của thể thơ lục bát hay song thất lục bát.
Xin dâng lên của lễ đầu mùa
Hoa thơm trái chín mong chờ bấy nay (Viết Chung)
Giá băng đông tuyết đã tàn,
Mưa đà ráo hạt, xuân sang thắm ngời.
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chim câu đã gáy bên trời say sưa (Xuân Ly Băng – Kim Long)
* * *
Vẫn trong Diễn từ Buổi tiếp kiến chung ngày 26-2-2003, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói rằng khi cầu nguyện, chúng ta vươn lên và cảm nghiệm được Thiên Chúa đang ghé thấp xuống để lắng nghe, gặp gỡ và cứu độ chúng ta; vì thế tác giả Thánh Vịnh khuyên chúng ta cố gắng làm cho lời ca ngợi nên xứng đáng hơn bằng cả sự hỗ trợ của tiếng kèn, nhịp trống, điệu sáo, thanh la, não bạt.
Mong sao tiếng nhạc lời ca cầu nguyện của chúng ta ngày nay có được trọn tấm lòng với hết mức nỗ lực như Đức Thánh Cha đã nhắc nhở bằng lời của Thánh Phaolô: “Hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Eph 5,19).
2022
Tại sao ngày 29 tháng 6 là ngày lễ buộc đối với một số người Công giáo?
Tại sao ngày 29 tháng 6 là ngày lễ buộc đối với một số người Công giáo?
Ở Anh, Scotland và xứ Wales, Lễ trọng mừng kính hai thánh Phêrô và Phaolô là một ngày lễ buộc, trong khi đây không phải là một ngày lễ buộc ở Hoa Kỳ.
Trong Giáo Hội Công Giáo Rôma, ngày 29 tháng 6 được cử hành như một ngày Lễ trọng mừng kính hai thánh Phêrô và Phaolô và đã là một phần của niên lịch phụng vụ từ thế kỷ III hoặc IV. Ngày này được xem như một ngày lễ nền tảng của Giáo Hội, vì ngày này làm nổi bật hai trong số những trụ cột của Giáo Hội sơ khai, là Thánh Phêrô Tông đồ và Thánh Phaolô Tông đồ.
Trong nhiều thế kỷ, ngày lễ này được coi là một ngày lễ buộc và cho nay vẫn còn là như thế ở nhiều nơi trên thế giới, chẳng hạn như ở Anh, Scotland và xứ Wales.
Bộ Giáo Luật 1983 liệt kê ngày này là ngày lễ buộc.
Theo truyền thống tông đồ, mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong ngày Chúa Nhật, ngày đó phải được giữ như là ngày lễ buộc chính yếu trong Giáo Hội toàn cầu. Và cũng phải giữ như là ngày lễ buộc chính yếu những ngày lễ Sinh Nhật Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, lễ Hiển Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Mình và Máu Rất Thánh Đức Kitô, lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, lễ Thánh Giuse, lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và sau cùng là lễ các thánh.
(Điều 1246 §1)
Thế nhưng, Điều 1246 §2 còn thêm rằng , “Tuy nhiên, với sự phê chuẩn trước của Tòa Thánh, Hội đồng Giám mục có thể hủy bỏ hoặc chuyển một số lễ buộc sang ngày Chúa Nhật.”
Đây là điều mà nhiều giám mục trên thế giới đã làm trong vài thế kỷ qua, kể cả Hoa Kỳ.
Một trong những lý do cho sự huỷ bỏ này là vì ngày 29 tháng 6 vốn không được chú trọng như là ngày nghỉ lễ ở Hoa Kỳ, và có thể tạo ra nhiều vấn đề với việc tham dự Thánh lễ vào ngày đó.
Hơn nữa, cũng không tồn tại một lòng sùng kính phổ biến mạnh mẽ đối với những vị thánh này ở Hoa Kỳ khi so sánh với những nơi khác như ở Rôma, Ý (nơi ngày 29 tháng 6 là ngày nghỉ lễ của thành phố), hay thậm chí như ở Anh.
Với sự khôn ngoan của mình, Giáo Hội đã ủy thác lại việc quyết định các ngày lễ buộc cho các giám mục địa phương, vì tin tưởng rằng các ngài vốn am hiểu các tín hữu của mình hơn và có thể đưa ra những quyết định thích hợp trong niên lịch địa phương.
Tác giả: Philip Kosloski – Nguồn: Aleteia (29/6/2022)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên