2022
Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả nhắc nhở chúng ta về cuộc tử đạo hàng ngày của mình như thế nào?
Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả nhắc nhở chúng ta về cuộc tử đạo hàng ngày của mình như thế nào?
Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả là một cái chết can trường, vì ngài đã đứng lên cho chân lývà quyết không lùi bước. Đó là một sự thánh thiện đầy khí chất anh hùng mà Giáo Hội muốn tôn vinh trong ngày lễ Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết (ngày 29 tháng 8).
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã suy tư về thực tế này trong một buổi tiếp kiến chung vào năm 2012.
Anh chị em thân mến, việc mừng kính cuộc tử đạo của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng nhắc nhở chúng ta, những Kitô hữu thời nay, rằng nhờ tình yêu đối với Chúa Kitô, đối với lời nói của Người và đối với Chân lý, chúng ta không thể cúi đầu thỏa hiệp. Chân lý là Chân lý; chẳngcó thỏa hiệp nào cả. Nói cách khác, đời sống Kitô hữu đòi hỏi “cuộc tử đạo” hàng ngày của lòng tín trung đối với Tin Mừng; đời sống Kitô hữu cũng đòi hỏi lòng can đảm, nghĩa là để Chúa Kitô lớn lên trong chúng ta và để Người là Đấng hướng dẫn tư tưởng và hành động của chúng ta.
“Cuộc tử đạo” hàng ngày này không hề là chuyện dễ dàng, và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI giải thích rằng chỉ có thể đạt đến “cuộc tử đạo” này nhờ một đời sống cầu nguyện sâu sắc.
Tuy nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra trong cuộc sống của chúng ta khi chúng ta có mối tương quan bền chặt với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải là việc làm lãng phí thời gian, cầu nguyện không lấy đi mất thời gian cho các hoạt động của chúng ta, ngay cả các hoạt động tông đồ, nhưng hoàn toàn ngược lại: chỉ khi chúng ta có một đời sống cầu nguyện trung tín, kiên trì và đầy lòng tin cậy thì chính Thiên Chúa mới ban cho chúng ta khả năng và sức mạnhđể sống hạnh phúc và thanh nhàn, để khắc phục những khó khăn và can đảm làm chứng cho Người.
Trong cuộc sống hàng ngày, ước mong sao chúng ta có thể ghi nhớ tấm gương của Thánh Gioan Tẩy Giả và luôn ở gần bên Chúa Kitô, Đấng là sức mạnh của chúng ta.
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2022
Kinh Ngợi khen Magnificat
Kinh Ngợi khen Magnificat
Một linh mục minh triết người Úc đã chia sẻ câu chuyện này trong một lớp học. Trong đời tôi, có những ngày mà mọi thứ, từ áp lực công việc, mệt mỏi, chán nản, lơ đãng, đờ đẫn làm cho tôi khó cầu nguyện. Nhưng dù thế nào đi nữa, mỗi ngày, tôi luôn cố tập trung, sốt sắng đọc ít nhất một kinh Lạy Cha.
Trong các sách Phúc âm, Chúa Giêsu để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha. Đây là lời cầu nguyện quý báu nhất của người tín hữu kitô. Tuy nhiên, các Phúc âm còn để lại cho chúng ta một kinh cũng quý báu, một kinh ít được biết đến hay ít được đọc nhiều như kinh Lạy Cha. Đó là lời cầu nguyện của Đức Mẹ, mẹ Chúa Giêsu, kinh Magnificat. Theo tôi, sau kinh Lạy Cha, đây là kinh quý báu chúng ta có.
Phúc âm thánh Luca ghi lại: Đang mang thai Chúa Giêsu, Đức Mẹ đi thăm người chị họ là bà Elizabeth cũng đang mang thai Gioan Tẩy giả. Theo truyền thống kitô giáo, đây là câu chuyện “đi viếng”, và những gì toát ra từ hai phụ nữ này vượt quá những gì bề ngoài. Đây không chỉ là vui mừng bình thường của những phụ nữ mang thai. Được viết ra 80 năm sau khi sự kiện này xảy ra, kể chuyến đi viếng như một phản ảnh hậu phục sinh về tầm quan trọng biến đổi thế giới của hai người con mà hai phụ nữ này đang mang trong dạ. Cũng thế, những lời họ nói với nhau nói lên hiện thực hậu phục sinh. Và trong bối cảnh này, các Phúc âm đã để Đức Mẹ xướng lên lời kinh Magnificat. Và lời kinh đó là gì?
Là lời tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa vì đã ở bên người nghèo, người khiêm hạ, người thiếu đói, người bị áp bức trên đời, đã nâng họ lên và cho họ chiến thắng, còn những người quyền thế thì bị truất xuống và bị hạ nhục. Tuy nhiên, lời kinh của Đức Mẹ đều dùng thì quá khứ, như thể đó là một việc đã làm rồi, một hiện thực đã có trên thế gian này.
Như nhân vật hoạt hình Ziggy từng nhắc đến Chúa trong lời cầu nguyện, “Người nghèo vẫn đang bị hành hạ ở đây!” Và nhìn chung là như thế. Nhìn vào thế giới ngày nay, chúng ta thấy khoảng cách giữa giàu nghèo đang lớn rộng, hàng trăm triệu người đi ngủ bụng đói mỗi đêm, tham nhũng và tội ác diễn ra khắp nơi, người quyền thế dường như muốn gì được đó, chẳng hề bị gì. Chúng ta có gần trăm triệu người tị nạn chờ chực ở các biên giới, những phụ nữ và trẻ em vẫn đang là nạn nhân của bạo lực đủ loại khắp nơi. Tệ hơn nữa, mọi chuyện dường như ngày càng đi xuống chứ không đi lên. Vậy thì chuyện Chúa hạ những ai quyền thế và nâng cao người yếu thế, ban của cải đầy dư cho người nghèo và đuổi người giàu có về tay không, những chuyện đó chúng ta thấy ở đâu?
Chúng ta thấy nó trong sự phục sinh của Chúa Giêsu và viễn cảnh hy vọng chúng ta có được từ thực tế đó. Điều mà Đức Mẹ khẳng định trong kinh Magnificat là một sự thật thâm sâu, rằng chỉ có đức tin và đức cậy chúng ta mới có thể hiểu được rằng, dù hiện tại bất công, tham nhũng và bóc lột người nghèo dường như đang thống trị, nhưng sẽ có một ngày tận thế khi khối đá áp bức đó lăn khỏi mồ và người quyền thế sẽ bị lật đổ. Kinh Magnificat là lời kinh tối cùng của đức cậy, và là lời kinh tối cùng cho người nghèo.
Có lẽ do tuổi tác của tôi, có lẽ do tôi nản lòng khi mỗi đêm xem tin tức, hoặc có thể là do cả hai, nhưng khi thêm tuổi, (ngoài phép Thánh Thể), tôi càng thấy quý trọng hai lời kinh này, kinh Lạy Cha và kinh Magnificat. Như cha giáo dòng Thánh Âugutinô của tôi, bây giờ tôi đảm bảo, không một ngày nào tôi để áp lực, mệt mỏi, xao lãng hay lười biếng ngăn tôi chú tâm đọc hai kinh này, kinh Lạy Cha và kinh Magnificat.
Nhưng không phải khi nào cũng được như vậy. Trong nhiều năm, tôi thấy trong kinh Magnificat lòng tôn kính Đức Mẹ, mọi lời khẩn cầu và chúc tụng Đức Mẹ gom lại trong đó. Chuyện này không có gì sai vì Đức Mẹ là người mà hàng triệu triệu người, không phải chỉ người nghèo, hướng về khi cùng quẫn để được dẫn dắt, an ủi và cảm thông của một người mẹ. Không mấy người phê bình sự tốt đẹp của điều này, vì nó tạo nên một thuyết thần nghiệm về người nghèo và sự nghèo khó trong lòng.
Tuy nhiên, kinh Magnificat không hẳn là để tôn vinh cá nhân Đức Mẹ cho bằng để tôn vinh người nghèo. Trong kinh này, Đức Mẹ nói lên lời đáp trả tối hậu của Thiên Chúa trước sự bất lực và đàn áp người nghèo. Linh mục Henri Nouwen từng viết, xem tin tức buổi tối và thấy đau khổ trên thế giới có thể làm chúng ta cảm thấy nản lòng và bất lực. Nản lòng vì sự bất công chúng ta thấy, bất lực vì gần như chúng ta chẳng làm được gì.
Chúng ta có thể làm được gì đây? Chúng ta có thể đọc kinh Magnificat mỗi ngày để nói lên lời đáp trả tối hậu của Thiên Chúa trước sự bất lực của người nghèo.
J.B. Thái Hòa dịch
2022
Hai loại cây mang tên các nhân vật trong Kinh Thánh
Hai loại cây mang tên các nhân vật trong Kinh Thánh
Cây Joshua và Judas là hai loại cây có nguồn gốc tên gọi từ trong Kinh Thánh.
Cây Joshua
Nhiều người vốn quen thuộc với yucca brevifolia, cây Joshua nổi tiếng, mọc ở vùng tây nam khô cằn của Hoa Kỳ và ở tây bắc Mêxicô. Truyền thuyết kể rằng khi những người nhập cư Mormon băng qua sông Colorado vào giữa thế kỷ XIX, họ đã đặt tên cho cây này theo tên của nhân vật trong Kinh Thánh là Joshua (Giôsuê). Cành cây gợi cho họ nhớ đến cánh tay của Giôsuê đang dang ra trong tư thế khẩn cầu, nhằm xin mặt trời đứng yên để ông có thể hoàn thành nhiệm vụ quân sự của mình:
“Bấy giờ, trong ngày Chúa trao người E-mô-ri cho dân Ít-ra-en, ông Giôsuê thưa chuyện với Chúa; trước mặt Ít-ra-en, ông nói: ‘Này mặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp-ôn, và mặt trăng, trên thung lũng Ai-gia-lôn!’ Mặt trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã báo thù quân địch.” (Gs 10,12-13)
Những người khác cho rằng các cành cây không giống như những cánh tay đang dang rộngnhư thể đang cầu nguyện. Những chiếc lá sắc nhọn của cây gợi cho những người nhập cư này nhớ đến thanh gươm của Giôsuê:
“Khi ấy, Chúa phán cùng ông Giôsuê rằng: ‘Hãy giơ thanh gươm cầm trong tay ra về phía thành Ai; vì ta sẽ giao nó vào tay ngươi.’ Và Ông Giôsuê giơ thanh gươm lao đang cầm trong tay về phía thành. Ông vừa giơ tay lên thì quân mai phục đã nhanh chóng rời khỏi chỗ của mình và lao về phía trước. Họ chạy vào và chiếm thành rồi vội vàng phóng hoả đốt thành.” (Gs 8, 18-19)
Cây Judas
Cercis siliquastrum, thường được gọi là cây Judas (Giuđa), lại có một câu chuyện khác. Mặc dù được đặt theo tên một nhân vật trong Kinh Thánh là Judas Iscariot (Giuđa Iscariốt), nhưng nguồn gốc tên gọi của cây Judas có phần ít chặt chẽ hơn trong Kinh Thánh – và mang tính chất tưởng tượng nhiều hơn.
Cây Judas khá nhỏ tương đối phổ biến ở Nam Âu, Trung Đông và Tây Á, và loại cây này được chú ý vì có nhiều hoa màu hồng đậm vào mùa xuân. Trên thực tế, đây là loại cây đầu tiên nở hoa sau khi mùa đông kết thúc ở Andalucía, Tây Ban Nha. Bản thân hoa này có thể ăn được, có vị chua ngọt. Chúng thậm chí còn được sử dụng để thêm hương vị và màu sắc cho món salad và nước xốt cay.
Một số truyền thống Kitô giáo cho rằng Giuđa đã treo cổ tự tử từ một trong những cái cây này, khiến những bông hoa (được cho là) màu trắng ban đầu của nó đã chuyển sang màu đỏ. Người ta thường tin rằng bản thân những truyền thống này là sản phẩm của một nguồn gốc có phần sai lạc từ tên gọi tiếng Pháp thông thường được đặt cho cây này là “Arbre de Judée”, dịch theo nghĩa đen là “cây của vùng Judea (Giuđêa)” – chứ không phải “của Judas”.
Cây Judas – Shutterstock
Các truyền thống khác cho rằng vì một số hoa và vỏ hạt của cây treo lủng lẳng trực tiếp trên thân cây, chúng gợi nhớ đến vụ tự tử của Giuđa.
Một lời giải thích khác dựa trên ý tưởng sai lầm rằng cái cây đã giết chết những con ong bị loại cây này thu hút, như thể nó đã “phản bội” chúng. Màu sắc sáng và đậm tư những bông hoa của cây sẽ làm mồi nhử những con ong, để rồi chúng sẽ bị đầu độc – được cho là – bởi một loại thuốc phiện ngay khi chúng cố gắng thu thập phấn hoa. Niềm tin này dường như được sinh ra từ thực tế là hoa và vỏ cây đã được truyền thống của người Palestine sử dụng trong y học để chữa bệnh đau đầu và cảm cúm.
Tác giả Daniel Esparza
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2022
Ai trong Kinh Thánh đã được lên trời?
Ai trong Kinh Thánh đã được lên trời?
Kinh Thánh cho thấy rằng các ông Khanốc (Enoch), Êlia (Elijha) và có thể là Môsê (Moses) đã được Thiên Chúa đưa lên trời sau khi cuộc sống trần gian của các ngài kết thúc.
Mặc dù truyền thống nói rằng Đức Mẹ Maria đã được lên trời cả hồn lẫn xác, nhưng Kinh Thánh lại đề cập đến ba nhân vật khác có thể đã được Thiên Chúa đưa lên trời khi cuộc sống của các ngài đã hoàn thành nơi trần gian này.
Khanốc
Sách Sáng Thế thuật lại rằng ông Khanốc đã được Thiên Chúa “đem đi”.
“Khanốc đã đi với Thiên Chúa, và ông đã không còn nữa, vì Thiên Chúa đã đem ông đi.” (St 5,24)
Điều này có vẻ ngụ ý rằng ông Khanốc vốn không chết, mà bằng cách nào đó, ông đã được Thiên Chúa đem đi về mặt thể lý. Điều quan trọng cần lưu ý là cửa thiên đàng vào thời điểm đó vẫn chưa được mở ra, vì điều này cần đến hy tế của Chúa Giêsu Kitô trên thập giá.
Các học giả Kinh Thánh tranh luận về nơi chốn mà ông Khanốc đã được đem đi, nhưng điều được đề cập đến chỉ là cuộc đời trần thế của ông đã kết thúc và toàn bộ con người ông đã được Thiên Chúa đem đi.
Môsê
Ông Môsê rõ ràng đã chết theo sách Đệ Nhị Luật, nhưng thân xác của ông lại biến mất.
“Vì vậy, ông Môsê, tôi tớ của Chúa, đã qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, như lời Chúa phán; ông được chôn cất trong một thung lũng thuộc vùng đất Mô-áp, đối diện với Bết Pơ-o; cho đến ngày nay không ai biết nơi đã chôn cất ông.” (Đnl 34,5-6)
Một số học giả dựa vào biến cố Chúa Giêsu biến hình để làm bằng chứng cho thấy ông Môsêđã được Thiên Chúa đem đi cả hồn lẫn xác.
Êlia
Rõ ràng hơn hết là trường hợp ngôn sứ Êlia đã được Thiên Chúa đem đi theo một cách hết sức ấn tượng.
“Khi các ông còn tiếp tục chuyện trò, thì một cỗ xe rực lửa và những con ngựa rực lửa chạy đến giữa hai người, và ông Êlia lên trời trong một cơn gió lốc.” (2V 2,11)
Tương tự như vậy, ông Êlia cũng xuất hiện lúc Chúa Giêsu biến hình và thêm vào bằng chứng ủng hộ rằng ông đã được Thiên Chúa đem đi vào lúc cuộc đời trần thế của mình kết thúc.
Mặc dù việc Đức Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác không được ghi nhận trong Kinh Thánh, nhưng việc người mẹ trần thế của Chúa Giêsu đã được kết hợp với Người trong mọi sự, được đưa lên trời để ở với Con của mình, là điều hợp lý.
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên