2023
THÁNH KINH VÀ THÁNH NHẠC
THÁNH KINH VÀ THÁNH NHẠC
Trong Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, Công đồng Vatican II đã viết: “Giáo hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để trao ban cho các tín hữu. Thánh Kinh truyền đạt Lời của chính Thiên Chúa cách bất di bất dịch. Vì vậy, toàn thể việc rao giảng trong Giáo hội cũng như chính nếp sống đạo của người Kitô hữu phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Quả thật, trong các Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp gỡ và trò chuyện với con cái của Ngài, vì trong Lời Thiên Chúa có uy lực và quyền năng lớn lao để mang lại sự nâng đỡ và sức sống cho Giáo Hội, đồng thời đem đến cho đoàn con của Giáo Hội sức mạnh của đức tin, lương thực của linh hồn, nguồn mạch tinh tuyền và trường tồn của đời sống thiêng liêng.”[1]
- TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÁNH KINH
- Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa
Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh nên những gì được ghi chép trong Thánh Kinh đều là Lời Thiên Chúa. Qua Thánh Kinh, Thiên Chúa mạc khải về chính mình để con người nhận ra, hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa hơn. Nếu Thiên Chúa không mở lời để nói cho con người về chính Ngài, thì con người sẽ không bao giờ có diễm phúc được biết Thiên Chúa và yêu mến Ngài. “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1,9); nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Qua việc mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), trong tình yêu thương chan hòa, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và đến sống với họ (x. Br 3,38) để mời gọi và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài.”[2]
Tất cả mọi lời trong Thánh Kinh đều nhằm mục đích diễn tả về Thiên Chúa, để con người không chỉ nhận ra sự hiện diện của Ngài, mà còn khám phá thấy những nét tuyệt đẹp của Thiên Chúa trong các thuộc tính của Ngài, nhất là tình yêu. Con người sẽ không thể hiểu được tình yêu là gì nếu không nhận biết mình được yêu thương bởi một Thiên Chúa Tình Yêu.
Lời Thiên Chúa được chính Chúa Thánh Thần linh hứng và dùng một số người viết lại Lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của con người nên Thánh Kinh không sai lầm. Từng lời trong Thánh Kinh đều khởi đi và thể hiện ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Những nhân vật, những câu chuyện, những biến cố… mà Thánh Kinh ghi lại đều truyền tải một sứ điệp nào đó mà Thiên Chúa muốn nói với con người. Do đó, những lời trong Thánh Kinh không có câu nào là dư thừa, vô ích nhưng từng câu Thánh Kinh là lời nói tình yêu mà Thiên Chúa ngỏ với con người.
- Thánh Kinh là Lời Hằng Sống
Thánh Kinh tuy chứa đựng những cuốn sách đã được viết ra cách đây nhiều trăm năm nhưng không bao giờ cũ hay lỗi thời. Bởi vì tác giả của Thánh Kinh là Thiên Chúa Hằng Sống. “Ngài đã dùng lời nói và hành động để mạc khải cho dân riêng của Ngài biết rằng chính Ngài là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và hằng sống. Vì vậy, các sách đã được Thiên Chúa linh hứng vẫn giữ một giá trị trường cửu.”[3] Cho nên Lời Chúa bao giờ cũng hợp thời và thích hợp cho mọi người của mỗi thời đại khác nhau. Cũng một câu Lời Chúa đó nhưng mỗi người trong hoàn cảnh cụ thể của mình sẽ được Thiên Chúa đánh động khác nhau. Do đó, dù ở độ tuổi nào, hay đang sống trong hoàn cảnh nào, Lời Chúa vẫn sống động. Những ai tiếp cận với Lời Chúa đều cảm nhận như chính Thiên Chúa đang trực tiếp nói với mình trong giây phút hiện tại.
Vì thế, trong Thánh Kinh không có sách cũ hay mới. Sự phân biệt các sách Cựu ước hay Tân ước chỉ nhằm nói đến giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Người và Đức Giêsu Kitô. Giao ước cũ đã thất bại vì dân Chúa đã không trung thành, còn giao ước mới đã hoàn thành viên mãn khi Đức Giêsu Kitô vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá theo thánh ý của Chúa Cha. “Thiên Chúa, Đấng linh hứng và là tác giả của cả hai bộ sách Giao ước, đã khôn ngoan xếp đặt cho Tân ước được tiềm tàng trong Cựu ước, và Cựu ước được tỏ hiện trong Tân ước.”[4] Do đó, toàn bộ Thánh Kinh là một sự thống nhất xuyên suốt. Từ dòng đầu tiên của sách Sáng Thế đến dòng cuối cùng của sách Khải Huyền đều chứa đựng Lời Hằng Sống. “Kinh Thánh là sách chứa đựng những lời ban sự sống đời đời; vậy Kinh Thánh được viết ra không chỉ để chúng ta tin, nhưng còn để chúng ta có sự sống đời đời.”[5]
- Thánh Kinh là Lời Cứu Độ
Trên trần gian này không có cuốn sách nào, dù là best seller cũng không dám khẳng định nó có khả năng đem ơn cứu độ. Chỉ duy nhất Thánh Kinh là cuốn sách chứa đựng Lời Cứu Độ. Từng trang Thánh Kinh đều trình bày một ý định xuyên suốt của Thiên Chúa về chương trình cứu độ dành cho con người. Chúa Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. “Thật vậy, Chúa Cha đã sai Con của Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ biết những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa.”[6] Sự hiện diện của Chúa Giêsu đã làm cho Lời Thiên Chúa trở nên sống động, hiện thực và đem lại ơn cứu độ. Chính Chúa Giêsu đã nói Lời Thiên Chúa và rao giảng Lời Chúa để những ai nghe và thực hành sẽ được hưởng ơn cứu độ. “Ngôi Lời đã mạc khải chính Thiên Chúa cho chúng ta trong tương quan trao đổi tình yêu giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta dự phần vào tương quan tình yêu đó. Vì vậy, một khi được tạo dựng nên theo hình ảnh giống với Thiên Chúa tình yêu, chúng ta chỉ có thể hiểu được chính mình khi biết đón nhận Ngôi Lời và tác động của Chúa Thánh Thần. Chính nhờ ánh sáng của Mạc Khải do Ngôi Lời Thiên Chúa thực hiện mà bí ẩn trong thân phận con người được sáng tỏ trọn vẹn.”[7] Do đó, Thánh Kinh không phải là một cuốn sách tiểu thuyết, hay lịch sử nhưng từng trang sách của Thánh Kinh đều có sức mạnh đem đến ơn cứu độ. Những ai đón nhận, lắng nghe và thực hành sẽ được chính Lời Thiên Chúa giải thoát. “Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải thần linh để biểu lộ và thông ban chính mình cũng như ý định muôn đời của Ngài liên quan đến việc cứu rỗi nhân loại.”[8]
- THÁNH KINH LÀ NGUỒN SÁNG TÁC VÔ TẬN CHO THÁNH NHẠC
- Để Thánh Kinh là nguồn sáng tác cần tìm hiểu Lời Chúa
Khi muốn sáng tác một bài thánh ca, chúng ta thường đi tìm một ý tưởng hay được đánh động bởi một biến cố nào đó. Như thế, việc sáng tác sẽ dễ bị lệ thuộc và giới hạn. Vậy tại sao chúng ta không đến với Thánh Kinh để tìm hiểu Lời Chúa mà sáng tác? “Lời Thiên Chúa là ánh sáng thật mà con người cần đến.”[9] Một người viết thánh ca mà không hiểu biết về Lời Chúa thì dễ bị nghèo nàn trong ý tưởng. Do đó, muốn có nhiều tác phẩm thánh ca ra đời, người viết cần dành thời gian để tìm hiểu, học hỏi Thánh Kinh. Chính Chúa không chỉ là nguồn sáng tác vô tận mà còn là Đấng gợi lên cho chúng ta điều mà Ngài muốn chúng ta viết. Nếu chúng ta bị bí đề tài khi viết thánh ca thì chúng ta cần xem lại việc chúng ta dành bao nhiêu thời gian để tìm hiểu và học hỏi Lời Chúa. Bản thân mỗi người chúng ta tự hỏi xem tôi đã biết về Thánh Kinh bao nhiêu.
Qua việc tìm hiểu Lời Chúa, “chúng ta hiểu được chính mình và tìm được câu trả lời cho các vấn nạn sâu xa nhất vẫn ở trong trái tim chúng ta. Bởi vì Lời Chúa không hề đối nghịch với chúng ta, không bóp nghẹt các khát vọng chân chính của chúng ta, trái lại, soi sáng, thanh tẩy và đưa các khát vọng đó đến chỗ được hoàn tất. Đối với thời đại ta, thật quan trọng việc khám phá ra rằng duy một mình Thiên Chúa mới đáp ứng được cơn khát đang ở trong tim mỗi người!”[10]
- Để Thánh Kinh là nguồn sáng tác cần yêu mến Lời Chúa
Chúng ta sẽ không thể đọc, học và ghi nhớ Lời Chúa nếu chúng ta không yêu mến. Thật ra, việc đọc hay tìm hiểu Thánh Kinh không phải là tìm hiểu những lời viết trong đó, nhưng là tìm hiểu về Đấng mà những lời đó miêu tả. Để rồi từ đó, chúng ta hiểu và yêu mến Đấng đó mỗi ngày một hơn. “Lời Chúa đưa mỗi người chúng ta đi vào một cuộc đối thoại với Đức Chúa: Vị Thiên Chúa đang nói dạy chúng ta biết cách thưa chuyện với Ngài. toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe, đang mời gọi và hướng dẫn đời ta.”[11] Như thế, khi chúng ta nói yêu mến Lời Chúa không phải là yêu lời mà là yêu Chúa qua lời của Ngài. Cho nên chúng ta chỉ có thể đến với Thánh Kinh khi chúng ta có lòng yêu mến Chúa. Người viết thánh ca không thể đem đến một tác phẩm đi vào lòng người nếu không được lòng yêu mến Chúa thúc đẩy. Một bài thánh ca sẽ khó lòng chạm vào trái tim người nghe nếu nó không truyền tải một cảm nghiệm của người viết về lòng yêu mến Chúa.
- Để Thánh Kinh là nguồn sáng tác cần thực hành Lời Chúa
Lời Chúa không chỉ được đọc, hiểu mà còn phải sống. “Ai đặt nền tảng trên Lời của Ngài thì thực sự xây dựng đời mình một cách chắc chắn và bền vững.”[12] Chính khi chúng ta thực hành Lời Chúa, chúng ta sẽ có cảm nghiệm sâu hơn về Chúa. Từ đó, bài thánh ca chúng ta viết ra không dựa trên lý thuyết nhưng nó được viết ra từ kinh nghiệm sống thiêng liêng mà chúng ta có. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta về Ngài và dạy chúng ta biết bao nhiêu điều. Mỗi một câu truyện trong Thánh Kinh đều là những bài học mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta. Cho nên một bài thánh ca sẽ được viết sâu sắc hơn khi nó được người viết sống điều họ viết trước. “Lời Thiên Chúa có khả năng đáp lại các vấn đề mà con người phải đương đầu trong đời sống hằng ngày. Do đó, chúng ta cần hết sức cố gắng để Lời Thiên Chúa xuất hiện ra như một sự mở ra với các vấn đề của mình, một đáp trả cho các câu hỏi của mình, một sự nới rộng các giá trị và đồng thời một sự thoả mãn mang lại cho các khát vọng của mình.”[13]
III. THÁNH NHẠC LÀM SỐNG ĐỘNG THÁNH KINH
Trong Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Trong khung cảnh đề cao Lời Thiên Chúa trong cử hành phụng vụ, cũng phải quan tâm đến bài ca dành cho những lúc được tiên liệu theo từng nghi thức, dành ưu tiên cho các bài ca rõ ràng rút cảm hứng từ Kinh Thánh và diễn tả vẻ đẹp của Lời Chúa, bằng sự hoà hợp giữa nhạc và lời. Theo chiều hướng này, nên đề cao các bài ca mà Truyền thống Giáo Hội đã để lại và là những bài tôn trọng tiêu chuẩn này.”[14]
- Thánh Kinh đi vào lòng người nhờ Thánh Nhạc
Một bộ Thánh Kinh gồm 73 cuốn sẽ làm cho người đọc cảm thấy ngao ngán. Trong Thánh Kinh chứa đựng biết bao nhiêu câu truyện, biến cố, lời dạy dễ làm cho người đọc khó nhớ. Nhưng nếu các câu truyện và những lời Chúa nói trong Thánh Kinh được sáng tác thành những bài thánh ca thì sẽ làm cho người nghe dễ đón nhận Lời Chúa hơn. Chính giai điệu của bài hát sẽ làm cho người nghe nhớ được nội dung Lời Chúa mà bài hát muốn diễn tả.
- Thánh Kinh trở nên gần gũi nhờ Thánh Nhạc
Khi nghe nói về Thánh Kinh, chúng ta thường nghĩ nó là một cuốn sách khô khan, khó hiểu và dành riêng cho một thành phần nào mà thôi. “Lối vào Thánh Kinh cần phải được mở rộng cho các Kitô hữu.”[15] Quả thật, Thánh Kinh là môn học khó và những điều viết trong đó cũng khó hiểu vì nó là Lời của Thiên Chúa. Qua tìm hiểu Thánh Kinh, chúng ta chỉ có thể hiểu một phần nào về Thiên Chúa thôi. Do đó, khi nói về Thánh Kinh lập tức làm cho chúng ta cảm thấy xa cách, khó tiếp cận. Tuy nhiên, nếu các lời Thánh Kinh hay những nội dung của Thánh Kinh được Thánh Nhạc chuyển tải thì nó sẽ trở nên gần gũi và người nghe dễ tiếp thu. Điều này đòi hỏi người viết thánh ca hiểu được điều mà Thánh Kinh muốn nói rồi chuyển những ý tưởng đó bằng những nốt nhạc.
- Thánh Kinh được lan tỏa nhờ Thánh Nhạc
Thánh nhạc trở nên phương thế để loan báo Lời Chúa. Qua các bài hát thánh ca, Lời Chúa đi đến với từng người, từng nhà và khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta có thể ngại khi cầm cả một cuốn Thánh Kinh lên đọc, nhưng người ta sẽ dễ dàng mở một bài hát thánh ca lên nghe trong mọi lúc. Cho nên người viết thánh ca sẽ thi hành sứ vụ ngôn sứ qua tác phẩm của mình. Qua từng bài thánh ca, chúng ta giới thiệu Chúa cho mọi người. Chúng ta đem Chúa đến cho từng nhà. Như thế, một tác phẩm thánh ca không nhằm làm vinh danh tác giả nhưng làm vinh danh Thiên Chúa. Làm sao để mỗi lần người ta nghe hay hát bài thánh ca, người ta biết Chúa hơn và yêu mến Ngài hơn. Đó là sứ mạng của một bài thánh ca.
Tóm lại, “Thánh Kinh là bản văn được Thiên Chúa (tác giả chính) linh ứng cho các tác giả nhân loại (x. 2 Tm 3,16), ghi lại trung thực những mạc khải về Thiên Chúa và ý định của Ngài cho con người (x. Ep 1,9).”[16] Thánh Kinh là nền tảng của Thánh Nhạc. Nếu Thánh Kinh là nguồn mạch để làm cho Thánh Nhạc sống, thì Thánh Nhạc cũng góp phần làm cho Thánh Kinh trở nên sống động. Nếu Thánh Kinh trình bày về Thiên Chúa bằng chữ viết, thì “Thánh Nhạc làm vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu”[17] bằng giai điệu và lời ca. Cả Thánh Kinh và Thánh Nhạc đều có chung một mục đích là giới thiệu Chúa cho muôn người và đem mọi người về với Thiên Chúa.
Lm. Laurensô Hoàng Bá Quốc Huy
[1] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, 18.11.1965, bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin – HĐGMVN (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2016), số 21.
[2] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 2.
[3] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 14.
[4] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 16.
[5] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, 30.9.2010, bản dịch của Ủy Ban Kinh Thánh – HĐGMVN (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2011), số 23.
[6] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 4.
[7] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 7.
[8] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 6.
[9] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 12.
[10] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 23.
[11] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 24.
[12] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 10.
[13] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 23.
[14] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 71.
[15] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 22.
[16] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – Ủy ban Giáo lý Đức tin – Ban từ vựng Công giáo, Từ điển Công Giáo (Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2019), 799.
[17] Ban từ vựng Công giáo, Từ điển Công Giáo, 802.
2023
Tại sao Giám Mục thay đổi mũ trong suốt thánh lễ?
Trong Phụng vụ, Đức Giám mục đội mũ lễ (mitre) trên đầu và cầm gậy trong tay. Để hiểu được sự thay đổi này, hãy trở lại với ý nghĩa của các biểu tượng này vốn biểu hiện tư cách thành viên của Tông đồ đoàn.
Trong thánh lễ do mình chủ tế, Đức Giám mục liên tục đội và cởi mũ lễ trên đầu, rước vào với gậy, trao lại và lấy lại gậy trước khi rời đi, kết thúc thánh lễ. Rõ ràng, những chuyển động này không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên hay ngẫu hứng.
Những ai dự lễ tấn phong giám mục sẽ không quên được khoảnh khắc hai phó tế mang Sách Tin Mừng trên đầu của tân Giám mục đang quỳ gối trước vị Giám mục chủ phong. Trở thành người kế vị các Tông đồ, Đức Giám mục được mời gọi rao giảng Lời Chúa, giảng dạy. Để biểu thị chức năng này trong Phụng vụ, các Giám mục đội mũ lễ có hình dạng gợi nhớ đến cuốn sách Thánh Kinh được mở ra, và hai mặt là Cựu Ước và Tân Ước.
Mũ lễ, trung gian giữa Thiên Chúa và con người
Từ lúc đó, Giám mục đội mũ lễ khi ngài hành động với tư cách là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Khi mang mũ sọ màu tím, thì theo hướng ngược lại, ngài nối kết con người với Thiên Chúa. Trong thánh lễ, ngài đội mũ lễ khi đoàn rước vào và ra, chúc lành cho cộng đoàn, cũng như khi giảng lễ, giải thích Tin Mừng cứu độ sau khi lắng nghe các bài đọc. Trong khi cử hành các bí tích khác, lôgíc cũng giống như vậy. Chẳng hạn, trong lễ truyền chức : ngài khẩn cầu các thánh mà không đội mũ lễ, nhưng đội nó khi ngài đặt tay cho tiến chức, bởi vì qua cử chỉ này, chính ân sủng mà ngài truyền.
Đức Giám mục cũng có thể được nhận ra trong Phụng vụ nhờ gậy trên tay của ngài. Nguồn gốc của nó có tính mục tử, theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ. Gậy chăn cừu được người chăn cừu dùng để đưa chiên về lại chuồng. Theo hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, Giám mục có trách nhiệm đối với các linh hồn trên lãnh thổ mà ngài được ủy thác.
Gậy mục tử là dấu hiệu của quyền tài phán này vốn trước hết là một thừa tác vụ : gìn giữ đức tin của các Tông đồ và dẫn dắt dân Thiên Chúa. Trong thánh lễ, gậy được mạng khi rước vào và rước ra, rồi vị chủ chăn đi ngang qua nhà thờ trong đoàn rước như vị chủ chăn giữa đoàn chiên của mình. Ngài dựa vào nó khi công bố Tin Mừng và để ban phép lành cho cộng đoàn lúc kết thúc Phụng vụ. Trái lại, nếu cử hành lễ trong một giáo phận mà ngài không có quyền tài phán, thì Giám mục mang gậy với gậy quyền quay lại phía sau.
2023
Thánh lễ và bốn bài học quan trọng nhất thời thơ ấu
Michael P. Foley
Bốn mục đích chính của Thánh lễ cũng là bốn điều quan trọng nhất để dạy cho con cái chúng ta và cho cả chính chúng ta.
Một trong những câu hỏi của Sách Giáo lý Baltimore cũ là, “Thánh lễ được dâng lên vì những mục đích gì?” Câu trả lời được đưa ra gồm bốn ý:
– Thứ nhất, để tôn thờ Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Chúa của chúng ta.
– Thứ hai, để tạ ơn Thiên Chúa vì muôn hồng ân của Người.
– Thứ ba, để cầu xin Thiên Chúa ban xuống ơn lành cho mọi người.
– Thứ tư, để đền tạ cho sự công bình của Thiên Chúa vì những tội lỗi đã phạm đến Người[1].
Tôn thờ, tạ ơn, cầu xin và đền tạ – việc đề cập đến bốn mục đích này đã xuất hiện trong nhiều sách lễ cổ xưa và vẫn là một nét đặc trưng quen thuộc của bất kỳ bài giáo lý truyền thống nào về Thánh lễ. Tuy nhiên, điều thường bị bỏ qua là mối quan hệ của các mục đích này với cuộc sống cụ thể của chính chúng ta với tư cách là con người. Chính xác thì bốn điều này liên quan đến lợi ích về mặt tâm lý, cảm xúc và tinh thần của chúng ta như thế nào?
Một cách để tiếp cận câu hỏi này là xem xét bốn điều quan trọng nhất mà chúng ta đã học cách để nói lên khi còn nhỏ: “Tôi yêu bạn”, “Cảm ơn”, “Làm ơn” và “Tôi xin lỗi”. Bốn câu nói đơn sơ này không chỉ có khả năng hướng dẫn cả người trẻ lẫn người già trên con đường hướng tới hạnh phúc của con người; chúng cũng cung cấp một phép loại suy hữu ích cho những gì xảy ra trong mọi Hy tế của Thánh lễ.
Những bài học cho cuộc sống
Ngôn ngữ ở phía đông vườn địa đàng ban đầu vốn là phương tiện được định ra dành để gọi tên chính xác cho các tạo vật (như chúng ta thấy với Ađam và các con thú), nhưng nó đã trở thành một tấn bi kịch khi thường xuyên trở thành phương tiện để thao túng hoặc che khuất thực tại. Việc nói “Tôi yêu bạn”, “Cảm ơn”, “Làm ơn” và “Tôi xin lỗi” đều có thể trở thành những hành động vô cùng thiếu thành thật và thậm chí là lợi dụng, nhưng tôi cho rằng thực tế hiển nhiên là khi mọi bậc cha mẹ tử tế đều truyền đạt những điều này đối với con mình, thì đó không phải là trang bị cho chúng những công cụ để thao túng.
Mặc dù chúng ta nói về tầm quan trọng của việc dạy con cái mình “nói” làm ơn và cảm ơn, nhưng mục tiêu cuối cùng của chúng ta thực sự là để con cái mình tự nói lên những lời đó và nắm bắt được ý nghĩa của chúng. Khi một người mẹ bắt con trai mình xin lỗi cô em gái vì đã giật tóc cô bé ấy, người mẹ đó thường không bằng lòng với một câu “xin lỗi” lạnh lùng và một cái lườm đầy thách thức mà không hề tỏ ra hối hận. Rõ ràng mục tiêu của người mẹ đó là làm cho cậu bé hiểu rằng cậu đã làm sai để cậu có thể cảm thấy thực sự hối hận về hành động của mình và tìm cách sửa chữa sự bất công, chứ không chỉ đơn giản là thốt ra một chuỗi âm thanh nào đó. Và điều này cũng đúng với ba điều khác mà người mẹ đó đã hướng dẫn con mình “nói”.
Do đó, tiềm ẩn trong mục tiêu nuôi dạy những đứa trẻ biết nói “Tôi yêu bạn”, “Cảm ơn”, “Làm ơn” và “Tôi xin lỗi” là một điều gì đó hơn là một thói quen lịch sự tầm thường, hơn là một sự tuân thủ hoặc đồng thuận vô nghĩa theo quy ước xã hội. Bằng cách nào đó, mục đích là để định hình một tâm hồn trẻ thơ thành kiểu người biết yêu thương, biết ơn, tôn trọng và khi cần thiết, quyết tâm sửa đổi một cách đầy hối lỗi. Điều này có lẽ là vì những đức tính như vậy không chỉ tự chúng là sự lựa chọn thích đáng, mà chúng còn dẫn đến việc gặt hái được những nhân đức khác.
Ví dụ, một người biết tầm quan trọng của sự hối lỗi, thì cũng biết tầm quan trọng của việc trao ban sự tha thứ (điều vốn không phải là chuyện đơn giản); và một người thực sự biết ơn sẽ dễ có khuynh hướng bao dung với người khác hơn. Chắc chắn, một trong những lý do tại sao cả người có đức tin và không có đức tin đều nhận thấy rằng, trong dụ ngôn về người đầy tớ mắc nợ không biết thương xót, anh ta thật đáng trách là vì đã vi phạm trắng trợn cả hai nguyên tắc thông thường này[2].
Vì vậy, đằng sau những cách diễn đạt đơn giản như thế là một nền nhân học luân lý đúng đắn, một bản phác thảo bao quát về việc thế nào là sống đẹp. Nói một cách lý tưởng, một người có khả năng nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là người đó có khả năng cam kết, tận tụy và hy sinh bản thân. Một người có khả năng nói “cảm ơn” có nghĩa là người đó nhận ra, như chúng ta sẽ thấy, món quà vô giá về sự hiện hữu của anh ta và món nợ của anh ta đối với một thế giới rộng lớn hơn mà anh ta không tạo ra.
Một người có khả năng nói “làm ơn” có nghĩa là người đó nhìn nhận sự lệ thuộc của anh ta vào một thực tại bên ngoài anh ta và từ chối nguyên tắc cho rằng mình luôn là kẻ mạnh hơn, là vượt thắng chủ nghĩa vị kỷ thấp hèn vốn đang bỏ mặc anh ta, một chủ nghĩa mà theo cách diễn giải của Sr. Walter Scott là một tến khốn nạn hèn hạ chỉ biết quy tất cả về chính mình. Và cuối cùng, một người có khả năng nói “Tôi xin lỗi” (hoặc trong những tầm mức nhỏ hơn là “Xin bỏ qua cho tôi”) có nghĩa là tạo ra bước đột phá khó khăn nhưng quan trọng để đạt đến sự hiểu biết về bản thân một cách vừa không tâng bốc vừa không khoa trương, là lấy hết can đảm để thừa nhận lỗi lầm của mình và quyết tâm khắc phục chúng.
Ngược lại, một người không được giáo dục về bốn câu nói cơ bản này và những khuynh hướng đằng sau chúng sẽ bị coi là một sự bất công nghiêm trọng, vì anh ta sẽ ngã lòng trong việc vượt thắng sự ích kỷ của mình, hoặc dẫn đến hậu quả tương tự như thế vì anh ta đã không nhận thức được sự thật về thân phận con người.
Bốn mục đích của Thánh lễ
Điều thú vị là bốn hướng đi dẫn đến sự phát triển đích thực của con người như trên có một điểm tương đồng đáng chú ý với thần học truyền thống về Thánh lễ. Cụ thể, nói “Tôi yêu bạn” ở nhà cũng tương tự như hành động thờ phượng diễn ra trong Thánh lễ, nói “Cám ơn” cũng giống như việc tạ ơn, nói “làm ơn” cũng tương tự như việc cầu xin và nói “Tôi xin lỗi” cũng giống như việc đền tạ.
Khi Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như một của lễ sống động, thì của lễ đó bao gồm một hành động thờ phượng vô tận đối với Chúa Cha, một hành động thờ phượng vô tận của việc tạ ơn Người, của việc cầu xin hoặc khẩn cầu thay cho chúng ta, và của việc đền tạ (hay còn được gọi là việc làm nguôi lòng hay chuộc tội) cho tội lỗi nhân loại. Về phần mình, bốn thành phần của hành vi thờ phượng trọn hảo này lại được Chúa Kitô tái hiện diện qua trung gian là linh mục của Người trong mỗi Thánh lễ. Và chúng ta, những tín hữu, tham dự Thánh lễ để được dự phần và được nuôi dưỡng nhờ những mục đích này. Chắc chắn là những hành động sùng kính của chúng ta không giống với những hành động của Chúa chúng ta. Ví dụ, sự chuộc tội của Chúa Kitô không bao gồm việc “Tôi xin lỗi” theo cách mà chúng ta phải làm, vì Người không có gì để phải tỏ lòng hối tiếc. Nhưng nỗ lực ít ỏi của chúng ta để bù đắp cho những lỗi tội của mình nơi một hành động chuộc tội đã trở nên có hiệu quả nhờ lòng bao dung vô bờ của Đấng đã chịu đóng đinh và phục sinh vì chúng ta, và từ đó sự gắn kết giữa Chúa Giêsu và chúng ta trở nên vô cùng sâu đậm.
Bốn sự khuấy động
Vì vậy, một lý do tại sao phép loại suy này lại có ý nghĩa là vì nó chỉ ra rằng Hy tế Thập giá – và mở rộng ra là Hy tế trên Bàn thờ – góp phần mạnh mẽ vào sự hoàn thiện siêu nhiên đối với tiềm năng tự nhiên hướng về điều thiện nơi chúng ta, cũng như phục hồi bản chất của chúng sau khi nó rời bỏ tình trạng hoàn hảo ban đầu.
Để minh chứng thêm cho điều này, chúng ta chỉ cần xem xét phạm vi cảm xúc cơ bản của con người dưới ánh sáng từ bốn “sự khuấy động” (perturbationes) của linh hồn: niềm vui, ước muốn, sợ hãi và đau buồn. Cách phân loại hữu ích này đã được Cicero sử dụng[3], chính ông đã mượn nó từ các nhà Khắc kỷ, và sau đó được các nhà tư tưởng Kitô giáo như Thánh Augustinô tiếp thu[4]. Bốn cảm xúc mà Cicero nói đến có mối quan hệ đáng chú ý với bốn câu nói mà chúng ta đã thảo luận cùng với bốn mục đích của Thánh lễ – chúng vốn không được sắp xếp ngay ngắn với nhau theo cùng một cách thức, nhưng các hành động thờ lạy, tạ ơn, cầu xin và đền tạ sẽ hoàn thiện những bản năng cơ bản nhất của chúng ta về niềm vui, ước muốn, sợ hãi và đau buồn.
Ước muốn
Ví dụ, ở cấp độ tự nhiên, khát vọng cá nhân thô sơ được nhân bản hóa và thăng hoa bằng hành động nói lời “Làm ơn” cách đơn giản và chân thành. Thay vì giành lấy những gì chúng ta muốn, chúng ta nhận ra được ranh giới của quyền sở hữu và khiêm tốn yêu cầu vẽ lại ranh giới đó; và khi làm như vậy, chúng ta từ bỏ tính bạo tàn của thói áp bức để đổi lấy sự nhã nhặn của phép lịch sự. Vì vậy, cầu xin ở mức tốt nhất là sự thăng hoa của ước muốn, không phải theo nghĩa kìm nén ham muốn tình dục của S. Freud mà theo nghĩa nguyên thủy là làm cho ước muốn trở nên cao thượng hoặc đáng quý.
Chính cảm giác thăng hoa này được thể hiện ở mức độ cao nhất trong Thánh lễ, nơi ước muốn cá nhân được hoàn thiện một cách siêu nhiên qua lời cầu xin đầy lòng vị tha đến mức tột cùng mà chúng ta thực hiện không chỉ cho chính mình mà còn cho tất cả mọi người, như Sách Giáo lý Baltimore nhắc nhở chúng ta. Điều này khác xa rất nhiều so với chủ nghĩa duy vật bịa đặt theo kiểu “Lời cầu nguyện của Jabez”, một tác phẩm của Bruce Wilkinson, trong đó các Kitô hữu được khuyến khích cầu nguyện cho những thứ rẻ tiền của cuộc sống này như thể họ chẳng có khao khát vĩnh cửu nào cả. Ngược lại, Thánh lễ hướng đến việc vừa mở rộng vừa sắp xếp lại các ước muốn của chúng ta để một mặt, những điều tốt đẹp hơn được ưu tiên hơn những điều thấp kém, và sau đó vượt trên cả những điều tốt đẹp đó về phương diện khác.
Điều này đặc biệt rõ ràng trong các Lời Tổng nguyện của Sách lễ Triđentinô dành cho các Chúa nhật sau Lễ Hiện xuống, một mùa trong năm phụng vụ tương ứng với kỷ nguyên của Giáo Hội. Các Lời Tổng nguyện này gợi lại một điểm cốt yếu mang tính định kỳ về việc tái định hình và nâng cao ước muốn của các tín hữu. Chẳng hạn, ngoài việc xin bạn cho những điều ta ước nguyện, các lời Tổng nguyện này còn cầu xin biến đổi điều chúng ta ước muốn: “làm cho chúng con yêu mến điều Chúa truyền dạy” (Chúa nhật XIII), “gắn chặt vào trái tim chúng con lòng yêu mến Danh Chúa” (Chúa nhật VI), “xin chúng con biết cầu xin những điều đẹp lòng Ngài” (Chúa nhật IX),… Và một khi ước muốn của chúng ta đã được biến đổi hoặc chuyển sang những điều tốt đẹp hơn muôn phần như thế, Giáo Hội tiếp tục quả quyết rằng Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên hết mọi sự sẽ ban cho chúng ta, như đã được nhắc đến trong Lời Tổng nguyện của Chúa nhật XI, những điều mà “lời chúng con cầu xin chẳng dám kêu lên”. Toàn bộ nền thần học về ước muốn, lời cầu xin và tính siêu việt như thế có lẽ không còn được diễn đạt một cách đẹp đẽ và cô đọng hơn ở nơi đâu khác ngoài Lời Tổng nguyện của Chúa nhật V sau Lễ Hiện Xuống:
Lạy Chúa, Đấng đã chuẩn bị cho kẻ yêu mến Chúa những điều tốt đẹp vượt quá trí hiểu: xin đổ vào lòng chúng con tình yêu của Chúa, để chúng con biết yêu mến Chúa trong mọi sự và trên hết mọi sự, từ đó có thể đạt được những lời hứa của Chúa là những gì vượt trên hết điều chúng con có thể ước mong.
Điều này còn cần đến một nổ lực hơn nữa để mở ra các giả định đầy sắc thái của Lời Tổng nguyện liên quan đến mục đích sau cùng này nơi lòng trí con người và mối liên hệ của nó với trật tự được tạo ra cũng như với Đấng đã tạo ra trật tự đó; bấy nhiêu cũng đủ để nói rằng lời “làm ơn” trong khao khát của con người ở đây đang được chuyển sang một cấp độ hoàn toàn mới.
Sợ hãi và đau buồn
Mặt khác, nỗi sợ hãi và đau buồn đều được đề cập đến trong hành động xin lỗi và sửa đổi, cho dù chỉ khi những hành động đó là chân chính. Một lời xin lỗi không hoàn hảo chỉ bắt nguồn từ động cơ sợ hãi: Tôi xin lỗi bạn không phải vì tôi thực sự xin lỗi mà vì tôi sợ những gì bạn sẽ làm với tôi nếu tôi không xin lỗi. Ngược lại, lời xin lỗi hoàn hảo đi kèm với cảm xúc đau buồn: Tôi thấy rằng tôi đã làm tổn thương bạn theo một cách nào đó và phần tôi, tôi thực sự đau buồn vì sự việc này.
Nhưng một lời xin lỗi hoàn hảo cũng bao hàm nỗi sợ hãi, không phải sợ bị trả thù như trường hợp trước mà là sợ bị người thân xa lánh. Thánh Tôma phân biệt hai loại sợ hãi: một sự sợ hãi kiểu nô lệ, giống như một nô lệ sợ bị chủ trừng phạt; và một sự sợ hãi đáng quý hay khiêm cung[5], như nỗi sợ của một người chồng sợ làm điều gì đó với vợ mình vì sợ rằng cô ấy sẽ không tôn trọng anh ta, chứ không phải vì sợ rằng cô ấy sẽ đánh anh ta vì những gì anh ta đã làm. Trong khi nỗi sợ hãi kiểu nô lệ có vị trí của nó trong cuộc sống này (thậm chí nó đủ để thực hiện một hành động ăn năn sám hối, mặc dù đây là một hành động không hoàn hảo), nhưng rõ ràng nó thấp kém hơn nỗi sợ hãi với lòng khiêm cung vốn được thúc đẩy bởi một tình yêu to lớn hơn là sự tự vệ đơn thuần.
Và với sự thờ phượng Thiên Chúa cũng vậy, điều này giả định trước một sự đau buồn vì những bất công mà chúng ta đã phạm phải và một nỗi sợ hãi rằng chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta yêu mến và là Đấng đã làm rất nhiều điều cho chúng ta. Đúng vậy, nỗi sợ hãi đó có khi cũng bao hàm nỗi sợ hãi đơn thuần là phải sa hỏa ngục, linh cảm cho biết nếu tôi ngủ nướng vào ngày Chúa nhật thay vì tham dự Thánh lễ thì tôi đang phạm tội trọng; và nỗi sợ hãi đó, mặc dù có thể là cơ bản, cũng có thể thành công trong việc đưa tôi đến Thánh lễ và thậm chí mở ra cho tôi những ân sủng mà tôi có thể lãnh nhận được ở đó. Nhưng như Thánh Augustinô đã từng nhận xét một cách dí dỏm, “những người sợ phạm tội chỉ vì hỏa ngục, thì không phải là sợ phạm tội, mà là sợ bị thiêu đốt.” Giống như một người trưởng thành về mặt cảm xúc được thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi cao quý hơn là nỗi sợ hãi kiểu nô lệ, thì một người trưởng thành về mặt thiêng liêng cũng sợ sức tàn phá nội tại của tội lỗi và ảnh hưởng của nó đối với tình bạn thân thiết giữa anh ta với Đấng Tạo Hóa, hơn là sự phán xét bên ngoài đang chờ đợi anh ta vào cuối cuộc đời mình.
Niềm vui
Cuối cùng, sự khuấy động của niềm vui đi kèm với những hành động chân thành như nói “Tôi yêu bạn” và “Cảm ơn”. Thật vậy, tình yêu không phải lúc nào cũng đi kèm với niềm hân hoan phấn khởi, vì những cam kết của tình yêu thường mang theo nỗi buồn và khó khăn. Tuy nhiên, theo một cách kỳ lạ, ngay cả nỗi đau của tình yêu cũng tốt hơn là sự vắng mặt của tình yêu (giả sử rằng chúng ta đang nói về tình yêu có trật tự và không phù phiếm), và chỉ nhờ tình yêu mà niềm vui đích thực mới được trải nghiệm.
Điều này cũng đúng đối với lòng biết ơn, mặc dù điều này không dễ để chúng ta nhận ra như trước đây. Đối với những nhà tư tưởng như Immanuel Kant, việc phải nói lời cảm ơn là một dịp đáng buồn hơn là đáng vui, vì theo tính toán của ông, lòng biết ơn nghĩa là mắc nợ, và mắc nợ là mối đe dọa đối với quyền tự chủ cá nhân, đối với nền triết học Kant và nền dân chủ tự do hiện đại.
Tuy nhiên, như Cha Paul McNellis S.J. đã chỉ ra rằng, một lối tư duy theo chủ nghĩa pháp chế như vậy đã bỏ qua tác động giải phóng mà các mối quan hệ rộng rãi của con người tạo nên đối với cá nhân[6]. Đối với người xưa, phản ứng thích hợp đối với sự phụ thuộc lẫn nhau của con người là kiền thành (pietas), đó là lòng tận tụy cao quý đối với gia đình, đất nước của một người và cuối cùng là đối với Thiên Chúa của người đó. Đây là một “món nợ” mà người ta rất vui mừng khi có được, vì nó dựa trên sự dư dật của cải mà người ta đã nhận được một cách không cân xứng. Hơn nữa, hành động ghi nhớ những lợi ích như thế chính là nguồn gốc của lòng biết ơn cách vui vẻ. Theo lời của Seneca:
Người vô ơn nhất là người đã quên đi điều thiện ích… không có khả năng trở nên một người biết ơn nếu người đó mất hết trí nhớ[7].
Do đó, lòng biết ơn không chỉ là một thành phần quan trọng trong phẩm chất đạo đức của một người, nó còn là biểu hiệu của khả năng lưu giữ thực tế nơi một người, nghĩa là khả năng ghi nhớ chính xác những lợi ích thực sự mà người đó đã nhận được từ người khác và đáp lại một cách phù hợp.
Và không cần phải nói, tất cả những điều này đều có ý nghĩa sâu sắc đối với việc tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh lễ, một hành động tưởng niệm (anamnesis) và ghi nhớ sơ đẳng nhất dành cho Người; và do đó tái hiện lại điều tốt đẹp nhất từng được ban tặng trong lịch sử loài người. Không có gì ngạc nhiên khi Thánh Tôma Aquinô lại xem lòng biết ơn là một nhân đức bắt nguồn từ tình yêu, một nhân đức hoàn toàn hợp lý mà không có giới hạn[8]. Và thật thích hợp và tốt đẹp biết bao khi những lời cuối của Thánh lễ, trong cả nghi thức cũ và mới, đều đơn giản là “Tạ ơn Chúa”.
Kết luận
Sự so sánh của chúng ta giữa mục đích của Thánh lễ và bốn điều tuyệt vời mà chúng ta học được khi còn nhỏ cũng mang lại một sự hiểu biết sâu sắc sau cùng về tầm quan trọng của Hy tế Thánh Thể. Việc nghĩ rằng “tham dự” Thánh lễ là một gánh nặng pháp lý do Giáo Hội áp đặt lên chúng ta là lối suy nghĩ cũng nghèo nàn như việc nghĩ rằng cung cách cư xử chỉ là sự mở rộng quyền lực và sự thất thường của bậc cha mẹ. Dù không mang đầy đủ ý nghĩa, nhưng cách cư xử này lại là công cụ định hướng cho chúng ta theo trật tự đã được định sẵn, và khi được sử dụng đúng cách, chúng sẽ giúp phát huy hết tiềm năng của chúng ta trong tư cách là con người. Cũng vậy, sự tôn thờ, tạ ơn, cầu xin và đền tạ mà chúng ta thực hiện trong Thánh lễ hướng chúng ta đến Đấng tạo dựng nên con người chúng ta, tất cả không chỉ thúc đẩy tiềm năng bẩm sinh của chúng ta mà còn khơi dậy khả năng kết hiệp với chính Thiên Chúa của chúng ta.
Để có thể nói những câu “Tôi xin lỗi,” “Tôi yêu bạn,” “Làm ơn,” và “Cảm ơn” với Thiên Chúa là Cha qua trung gian của Người Con và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì không chỉ là đặc ân duy nhất dành cho một tạo vật thấp hèn; đó còn là một hành động biến đổi đều đặn. Và với điều đó, chúng ta chỉ có thể nói, Deo gratias (Tạ ơn Chúa).
Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
(theo: CatholicEducation Resource Center)
[1] The New Saint Joseph Baltimore Catechism no. 2, explained by Rev. Bennet Kelly, C.P. (NY: Catholic Book Publishing Co., 1969) no. 361, p. 173.
[2] Mt. 18:23–34.
[3] De finibus 3.10.35; Disputationes Tusculanae 4.6.11.
[4] Confessions 10.13.22.
[5] Cf. Summa Theologiae II-II.19.4f, also I-II.67.4.ad 2; II-II.7.1.
[6] “Rights, Duties, and the Problem of Humility,” in Gladly to Learn and Gladly to Teach: Essays on Religion and Political Philosophy in Honor of Ernest L. Fortin, A.A., eds. Michael P. Foley and Douglas Kries (Lanham, MD: Lexington Books, 2002), pp. 125–143. The following paragraphs on gratitude are deeply indebted to Fr. McNellis’ article.
[7] De beneficiis 3.1, trans. John W. Basore, Loeb Classical Library (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1935), pp. 128–9.
[8] Summa Theologiae II-II.106.6.ad 2.
2023
7 điều ít biết về bức tượng Pietà – Ðức Mẹ Sầu Bi
7 điều ít biết về bức tượng Pietà – Ðức Mẹ Sầu Bi
Trong các tác phẩm điêu khắc của Michelangelo, có lẽ Pietà – Ðức Mẹ Sầu Bi là tuyệt tác được người Công giáo yêu thích nhất.
Hình ảnh Chúa Giêsu trong vòng tay của Ðức Mẹ Maria sau khi Người chịu khổ hình trên thập giá đã được điêu khắc gia – danh họa Michelangelo thể hiện một cách hoàn hảo. Tuy rất nổi tiếng, nhưng có một số điều về bức tượng mà không nhiều người biết:
1. Ðức Hồng y người Pháp Jean de Billheres (1434-1499) tìm kiếm một tác phẩm nghệ thuật bằng đá cẩm thạch tại Rome để trang hoàng cho ngôi mộ của mình. Ngài đã tìm đến Michelangelo, lúc đó 24 tuổi, để đặt làm tượng. Ðức Hồng y Jean de Billheres đã đưa ra một chủ đề rất phổ biến ở miền bắc châu Âu, đó là hình ảnh Ðức Mẹ Maria rơi nước mắt vào thời khắc Ðức Giêsu được đưa xuống khỏi thánh giá. Có lẽ đây là tác phẩm điêu khắc đầu tiên của Michelangelo mà xúc cảm của con người đóng vai trò trung tâm, khác với các tác phẩm khác của ông. Kết quả, bức tượng đã trở thành một trong những tuyệt tác đẹp nhất bằng cẩm thạch ở Rome.
2. Pietà không chỉ là bức tượng nổi tiếng nhất của Michelangelo, mà còn là tượng duy nhất có chữ ký của ông. Tên tác giả được khắc lên áo Ðức Mẹ. Theo nhà sử học nghệ thuật Giorgio Vasari, Michelangelo khắc tên mình sau khi nghe một du khách nói rằng tác phẩm này là của một nhà điêu khắc khác.
3. Tượng Ðức Mẹ Sầu Bi có kích thước 1,7m x 1,9m, được chạm khắc từ khối cẩm thạch trắng và xanh lấy từ các hang động nổi tiếng ở Carrara, Tuscany (bắc Ý).
4. Ban đầu tác phẩm Pietà được đặt ở nhà nguyện Santa Petronilla, nơi Ðức Hồng y Jean de Billheres chọn làm nơi an nghỉ của mình. 200 năm sau, vào năm 1699, tác phẩm Pietà được dời đến Vương Cung Thánh Ðường Thánh Phêrô ở Vatican cho đến nay.
5. Năm 1964, Ðức Hồng y người Mỹ, Francis Joseph Spellman đã xin phép Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII được trưng bày Pietà tại cuộc triển lãm Hoàn vũ New York từ năm 1964 đến năm 1965 và đã được chấp thuận. Hàng ngàn người Mỹ và các khách tham quan triển lãm đã được tận mắt nhìn thấy tác phẩm nổi tiếng này. Bức tượng được bảo vệ sau một hàng rào nặng hơn 2 tấn.
6. Khi tượng Ðức Mẹ Sầu Bi được ra mắt công chúng vào năm 1499, các nhà phê bình nói rằng mặc dù khuôn mặt của Ðức Mẹ rất đẹp nhưng khá trẻ so với một người phụ nữ là mẹ của một người 33 tuổi. Nhà điêu khắc Michelangelo đã phản biện rằng một người phụ nữ thanh khiết sẽ giữ mãi nét thanh xuân và sẽ trẻ trung hơn những người khác.
7. Chúa nhật, lễ Hiện xuống năm 1972, Laszlo Toth, một người đàn ông Hungary có vấn đề về tâm thần đã nhảy qua hàng rào của Vương Cung Thánh Ðường thánh Phêrô để phá hoại Pietà, gây một số hư hại. Bức tượng sau đó được phục chế hoàn toàn.