2023
“Đức Mẹ an giấc” có nghĩa là gì?
2023
THẾ NÀO LÀ CA ĐOÀN PHỤNG VỤ?
2023
Thừa tác vụ Đọc sách
Thừa tác vụ Đọc sách
Người Công giáo thường không được xem là những con người của lời Chúa, nghĩa là con người của Kinh thánh. Nhận xét này được xem là một trong những ranh giới chia cách giữa người Công giáo và những Kitô hữu khác trong gần 500 năm. Tuy nhiên, khoảng 30 năm trở lại đây, chúng ta đã chứng kiến một sự thay đổi lớn nơi người Công giáo khi họ ngày càng hiểu biết hơn về Kinh thánh.
Đây là kết quả chủ yếu của việc các bản văn Kinh thánh bằng tiếng địa phương hiện đang được sử dụng một cách hết sức trân trọng trong các cử hành phụng tự của người Công giáo. Hầu hết chúng ta đều tiếp xúc với lời Chúa một cách đặc biệt qua các bài đọc Kinh thánh được công bố, được diễn giảng và được cảm nếm từ Chúa nhật này sang Chúa nhật khác nơi Phụng vụ lời Chúa trong Thánh lễ.
Hãy so sánh trải nghiệm về ngày Chúa nhật hiện nay với cách thức đã từng diễn ra. Trước đây, linh mục đọc Kinh thánh trước bằng tiếng La tinh tại bàn thờ, đứng quay lưng về phía giáo dân, sau đó bằng tiếng địa phương [chẳng hạn tiếng Anh] tại bục giảng. Các bài đọc là những phân đoạn từ các Thánh thư và Tin mừng được sắp xếp thành một bộ sách các bài đọc Kinh thánh được lặp lại hằng năm. Vào các ngày Chúa nhật, thường có một bài giảng sau đó, nhưng hiếm có bài giảng nào liên quan nhiều đến các đoạn Kinh thánh vừa được nghe.
Sách bài đọc Thánh lễ hiện nay phải được xem như là một trong những thành tựu có hiệu quả rõ rệt nhất của Giáo hội trong nhiều thế kỷ. Nhờ đó, ngày nay, toàn thể cộng đồng Công giáo có cơ hội trải nghiệm lời Kinh thánh trong các cử hành phụng tự mang tính cộng đoàn một cách sâu rộng như chưa từng biết đến trong hàng trăm năm qua. Qua chu kỳ ba năm với các bài đọc và thánh vịnh, giờ đây chúng ta đã công bố và diễn giảng hầu hết Tân ước và những trích đoạn được lựa chọn cẩn thận từ Cựu ước, bao gồm cả những bài thi ca trong các thánh vịnh. Quy luật cầu nguyện mang tính cộng đoàn này đang hình thành nên con người chúng ta theo những cách thức mà chúng ta chỉ có thể bắt đầu nghĩ đến.
Kinh nghiệm phụng tự này đã được minh chứng rất hiệu quả khi nhiều anh chị em Kitô hữu ở Bắc Mỹ và các nơi khác trên thế giới hiện đang sử dụng một ấn bản đại kết của Sách bài đọc này (được gọi là Sách bài đọc chung) được dùng trong cử hành phụng tự vào ngày Chúa nhật. Trong số các cộng đồng này có Giáo hội Luther, Giáo hội Giám lý liên hiệp, Giáo hội Anh giáo, Giáo hội Trưởng lão và Giáo hội Hợp nhất. Thật tuyệt vời là sau nhiều thế kỷ chia rẽ, chúng ta tìm lại được sự hợp nhất nơi bàn tiệc lời Chúa với các anh em cùng đức tin này. Ngay cả cách đây một vài năm, liệu ai dám nghĩ rằng điều này có thể xảy ra? Thế nhưng, thành quả trọn vẹn của sự tiến triển nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng này vẫn còn ở phía trước chúng ta.
Sự hiện diện cách bí tích
Sức mạnh và tầm quan trọng của lời Kinh thánh trong cử hành phụng tự có thể thoáng thấy trong kinh nghiệm ban đầu của Giáo hội. Trong thời gian bị bách hại, phận vụ chuẩn bị và công bố lời Chúa trong các cử hành phụng tự được giao cho các thừa tác viên đọc sách thuộc những người lãnh đạo Giáo hội địa phương vốn là những đối tượng đặc biệt. Nhà cầm quyền bách hại nhận ra việc công bố Kinh thánh mang lại một tác động mạnh mẽ và khích lệ sự hiện diện và hành động của những người Kitô hữu trên thế giới.
Sự canh tân hiểu biết về tầm quan trọng và sức mạnh của thừa tác vụ phụng vụ này đưa đến việc phục hồi nó trong thời đại chúng ta. Thật may, thừa tác vụ được phục hồi này có mục đích mở ra kho tàng rất phong phú của các bài đọc Kinh thánh cho việc phụng tự của người Công giáo, tương trưng qua Sách bài đọc. Trải qua nhiều thế kỷ, Sách bài đọc đã trở thành một phần của Sách các lời nguyện trong Thánh lễ dành cho linh mục chủ tế (Sự phát triển này trùng hợp với việc các thừa tác viên có chức thánh dần dần đảm nhận những phận vụ khác nhau trong phụng vụ). Một lần nữa, thừa tác vụ Đọc sách có một sách phụng vụ riêng, giống như sách cho thừa tác vụ của linh mục chủ tế.
Ý nghĩa sâu sắc của thừa tác vụ Đọc sách nằm ở mối liên hệ mật thiết của nó với sự canh tân đương thời của một hiểu biết đầy đủ hơn về tính bí tích của việc phụng tự Công giáo. Tất cả chúng ta cần phải am hiểu sâu sắc hơn sự canh tân liên tục của Giáo hội về việc hiểu biết lời Chúa trong các cử hành phụng tự đó. Chẳng hạn, hãy xem xét lời khẳng định sau của Công đồng Vatican II trong Hiến chế về Mạc khải, Dei Verbum:
Giáo hội vẫn luôn tôn kính Kinh thánh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để trao ban cho các tín hữu (DV 21).
Nói cách khác, trong Thánh lễ có hai bàn tiệc: bàn tiệc lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai cùng làm nên một hành vi phụng tự duy nhất trước nhan Thiên Chúa. Chính từ mỗi bàn tiệc này, chúng ta được dưỡng nuôi, được lãnh nhận bánh ban sự sống. Tiềm ẩn nơi giáo huấn này là một hiểu biết về sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô mà Giáo hội tuyên xưng:
Trong khi cử hành Thánh lễ là Hy lễ làm cho Hy tế Thập giá được tiếp tục hiện diện trong Giáo hội, Chúa Kitô thực sự hiện diện trong cộng đoàn quy tụ nhân danh Người; nơi con người của thừa tác viên, trong lời của Người, và hiện diện đích thực, theo bản thể, và cách vĩnh viễn dưới hình bánh hình rượu trong bí tích Thánh Thể. (Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 7)
Phần Dẫn nhập Sách bài đọc Thánh lễ cũng nêu bật mối liên hệ mật thiết và bất khả phân giữa sự hiện diện của Chúa trong hai bàn tiệc này, tức là trong Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể:
Để cử hành Hy lễ tưởng niệm Chúa với lòng sốt sắng, các tín hữu nên ý thức sâu xa về sự hiện diện duy nhất của Chúa Kitô cả trong lời Chúa, vì chính Người đang nói với chúng ta khi lời Kinh thánh được công bố trong nhà thờ, và trên hết, dưới hình bánh hình rượu trong bí tích Thánh Thể (Số 4).
Lời Chúa như là sự hiệp thông
Dưới ánh sáng này, chúng ta có thể nhận ra trong Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể một điểm tương đồng giữa hai nghi thức tương ứng, Công bố lời Chúa và Hiệp lễ. Trong cả hai nghi thức phụng vụ này, chúng ta đều thể hiện lòng tôn kính đối với sự hiện diện của Chúa. Những điều này có lẽ rõ ràng hơn đối với chúng ta trong Phụng vụ Thánh Thể, qua các cử điệu cúi đầu, bái gối, quỳ gối, nâng cao bánh và rượu khi đọc lời truyền phép, đưa tay rước Mình và Máu Chúa một cách ý thức và cung kính, cũng như nhiều dấu chỉ tôn kính khác tùy theo cách lựa chọn của mỗi người.
Hãy xem xét các dấu chỉ tôn kính tương tự trong Phụng vụ lời Chúa: việc công bố long trọng mỗi bài đọc; sự cung kính và chú tâm lắng nghe các bài đọc; những câu đáp đặc biệt sau các bài đọc, nhất là câu đáp sau phần công bố Tin mừng để bày tỏ niềm tin vào sự hiện diện của Chúa; và các dấu chỉ khác liên quan đến các bài đọc Tin mừng như tư thế đứng khi nghe đọc bài Tin mừng, việc rước sách Tin mừng với nến và hương, việc thừa tác viên ghi dấu thánh giá lên sách Tin mừng, việc cộng đoàn tham dự làm dấu Thánh giá trên mình khi nghe xướng Tin mừng Chúa Giêsu Kitô…, và cuối cùng là cử chỉ hôn sách Tin mừng của thừa tác viên.
Tiếp theo, hãy xem xét diễn tiến nghi thức tương tự giữa lời Chúa và Bàn tiệc. Phụng vụ Thánh Thể đạt đến tâm điểm và cao điểm trong phần Kinh nguyện Thánh Thể, vốn là lời công bố long trọng những hành động cứu độ của Thiên Chúa. Trong lời công bố này, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa; và trong quyền năng sự hiện diện của Chúa, cộng đoàn dâng các lời chuyển cầu cho Giáo hội, thế giới và những người đã qua đời, đồng thời cầu nguyện cho sự hợp nhất của Giáo hội. Sau lời công bố long trọng này [các lời nguyện của chủ tế sau Kinh Lạy Cha] là việc bẻ Mình Thánh và rót Máu Thánh vào những chén thánh cho cộng đoàn, và kết thúc với việc rước lễ. Khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa, chúng ta được kết hiệp nên một với Người và với anh chị em, như của ăn của uống cho một thế giới yêu mến và khao khát Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Trong Phụng vụ lời Chúa, các bài đọc đạt đến đỉnh cao khi long trọng công bố bài Tin mừng. Sau đó là bài giảng diễn giải lời vừa được công bố, để nuôi dưỡng đời sống cộng đoàn. Sự hiệp thông trong Chúa, hiện diện nơi lời Chúa, được kéo dài thêm trong một khoảng thời gian thinh lặng chung, để cộng đoàn suy niệm lời Chúa trong tâm hồn. Được củng cố nhờ sự nuôi dưỡng này, sau đó cộng đoàn dâng lên bàn thờ những lời nguyện của dân tư tế để chuyển cầu cho Giáo hội, thế giới và những người có nhu cầu đặc biệt.
Việc công bố lời Chúa
Dưới ánh sáng này, thừa tác vụ Đọc sách trong Thánh lễ rõ ràng đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ cử hành phụng tự. Kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong lời Chúa và Thánh Thể và giữa con người với nhau vẫn luôn là một thách đố.
Do đó, việc công bố hữu hiệu lời Chúa là một phần nội tại trong toàn bộ cử hành. Giao tiếp bằng lời nói trước hết là một điều thực tế trong đời sống con người, vốn đòi hỏi việc sử dụng các kỹ năng đơn giản của con người. Như Công đồng Trentô đã tuyên bố cách đây hơn 400 năm, các bí tích là dành cho con người, tức là tinh thần con người được tiền định cho sự sống phục sinh.
Trong các cử hành phụng tự, việc công bố lời Kinh thánh mà có rất ít hay không có hoặc quá nhiều nhấn mạnh cách diễn tả đều sai lầm. Năm ngoái, vào Chúa nhật III mùa Vọng, tôi nghe một người đọc bài thánh thư tuyệt vời của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philipphê mà không có chút biểu cảm gì. Tôi thật sự ngỡ ngàng khi nghe đọc: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4,4), với một cung giọng quá buồn tẻ. Sự diễn đạt không phải là một điều tùy chọn, nhưng không thể không có, và phải bắt đầu ngay khi người đọc sách tiến đến giảng đài. Thách đố được đặt ra là người đọc bài thánh thư cần biết kết hợp giữa việc chuẩn bị trình bày khéo léo, có tâm tình cầu nguyện, với tính cách và kỹ năng đặc thù nơi mỗi thừa tác viên đọc sách.
Trên hết, người đọc sách cần hiểu và tin rằng họ đang thi hành một thừa tác vụ hiện diện và hiệp thông đích thực. Họ phải tin nhận rằng Chúa đang hành động và hiện diện trong cộng đoàn qua việc họ công bố lời Chúa, rằng Chúa ước mong nói và được lắng nghe qua lời Kinh thánh mà họ công bố. Đó là lời Chúa đang nói với cộng đoàn này, ở đây và lúc này, và mỗi thành viên trong cộng đoàn được mời gọi lắng nghe và đáp lại lời Chúa trong hôm nay, tuần này, và những tuần tới.
Bằng những lời kết thúc bài đọc: “Đó là lời Chúa”, người đọc sách mời gọi cộng đoàn tin nhận sự hiện diện của Chúa, tương tự như khi thừa tác viên Thánh Thể nói: “Mình Thánh Chúa Kitô”. Tôi nhớ lại lần đầu tiên khi tôi chứng kiến một người đọc sách thật sự dừng lại ở cuối bài đọc, rồi sau đó, ngước nhìn toàn thể cộng đoàn, công bố lời Chúa với một sự chú tâm thật tinh tế, làm cho cộng đoàn cảm thấy như được mời gọi đáp lại lời Chúa với một sự hân hoan: “Tạ ơn Chúa!”
Hơn nữa, từ xưa, Giáo hội đã dạy rằng, khi hiệp lễ, chúng ta trở thành điều mà chúng ta nhận lãnh. Khi đón nhận và cử hành lời Chúa đang sống động ở giữa con người, chúng ta trở thành sự hiện diện của chính Chúa và sự khao khát của Người về một thế giới tốt đẹp hơn thế giới mà chúng ta đã cộng tác xây dựng. Trong Đức Kitô, chúng ta trở thành lời làm thay đổi thế giới, qua đó, thế giới được biến đổi thành những gì mà Thiên Chúa đã dự định từ ngàn đời.
Thừa tác viên đọc sách cần am hiểu tất cả những điều này và nhiều điều khác nữa. Khi tôi phụ trách việc huấn luyện những thừa tác viên đọc sách, tôi không bắt đầu bằng những bài học về kỹ năng nói trước công chúng. Phát triển kỹ năng là bước cuối cùng. Thay vào đó, trước hết tôi mời họ suy tư một cách sâu sắc và chân thật về hành trình của chính họ trong Đức Kitô và với Đức Kitô. Theo Kinh thánh, Đức Kitô đã trở thành hiện thân của sự tội để cứu chuộc chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa trong Đức Kitô đã đi vào chính sự đổ vỡ của thảm kịch đã bắt đầu nơi vườn địa đàng năm xưa, và sự đổ vỡ này vẫn còn tiếp tục xảy ra trong mỗi người chúng ta theo một cách thế đặc thù. Chúng ta cần mang tất cả những gì chúng ta có vào trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó là toàn bộ kinh nghiệm con người của chúng ta mà Thiên Chúa đã nói đến trong Kinh thánh. Không có gì phải bị loại bỏ. Và tất cả phải được biến đổi.
Vì vậy, tôi cố gắng giúp những thừa tác viên lời Chúa học cách để cho lời Chúa trước tiên tác động đến họ như thế nào. Nhưng trước khi chuyển sang việc tập luyện các kỹ năng nói trước công chúng, cần phải trải qua một bước đào tạo quan trọng khác. Tôi mời họ tưởng tượng ra những câu chuyện cá nhân của những người nghe họ công bố lời hằng sống này. Họ chỉ cần nhớ lại cuộc hành trình của chính những người này trong Đức Kitô: những thăng trầm, đau khổ, thất bại và những khao khát khôn tả, hầu có thể truyền thông đoạn Lời Chúa này cho những người đang đợi nghe công bố: Bài trích sách…
Có hàng trăm câu chuyện tương tự trong trái tim và tâm trí của những người đang nỗ lực lắng nghe tiếng Chúa qua đoạn lời Chúa này: trẻ em, cha mẹ, người độc thân, người dị tính, người đồng tính, người đạo gốc, người tân tòng đến tham dự Thánh lễ với một sự vui tươi, hào hứng, những người đã mất người thân yêu, những người làm tổn thương những người yêu thương họ. Đối với mỗi người và mọi người, giờ đây, Thiên Chúa đang nói một lời duy nhất, và người đọc sách là công cụ được Chúa chọn trong chính khoảnh khắc người ấy công bố: “Đó là lời Chúa”.
Chủng sinh Giuse Phạm Thanh Tú
chuyển ngữ từ America Magazine
Nguồn: giaophannhatrang.org (29.04.2023)
James M. Schellman là giám đốc điều hành Diễn đàn Bắc Mỹ về Chương trình cho người dự tòng, một mạng lưới bao gồm các thừa tác viên trong các giáo xứ và giáo phận, dấn thân phục vụ cho việc cử hành Nghi thức Khai tâm Kitô giáo dành cho người lớn.
2023
Nêu tên Đức giám mục trong Kinh nguyện Thánh thể như thế nào ?
Nêu tên Đức giám mục trong Kinh nguyện Thánh thể như thế nào ?
Việc xướng đích danh tên của Đức Giáo hoàng (lãnh đạo Hội Thánh phổ quát), Đức Giám mục giáo phận (lãnh đạo Hội Thánh địa phương) và có thể là tên của cả Đức Giám mục phó hay phụ tá trong mọi Kinh nguyện Thánh Thể nhằm 3 mục đích.
MỤC ĐÍCH – Ý NGHĨA [1]
Kinh nguyện Thánh Thể được xếp vào một trong số những lời nguyện cao trọng và thánh thiện nhất của Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh hết sức cẩn trọng trong từng từ ngữ và cấu trúc của kinh nguyện này. Trừ ra những trường hợp hết sức hoạ hiếm như quyết định thêm tên Thánh Giuse vào, bản văn và công thức được Giáo Hội soạn ra trong các Kinh nguyện Thánh Thể không nên có bất kỳ một sự thêm thắt tự tiện nào khác và không được bỏ sót nêu tên Đức Giáo hoàng và Giám mục giáo phận.[2]
Việc xướng đích danh tên của Đức Giáo hoàng (lãnh đạo Hội Thánh phổ quát), Đức Giám mục giáo phận (lãnh đạo Hội Thánh địa phương) và có thể là tên của cả Đức Giám mục phó hay phụ tá trong mọi Kinh nguyện Thánh Thể nhằm 3 mục đích. Thứ nhất, tôn trọng một truyền thống rất xa xưa trong Hội Thánh; Thứ hai, để các tín hữu đồng tâm nhất trí với các ngài và cầu nguyện cho các ngài;[3] Thứ ba, không những thế, những lời này còn ít nhiều diễn tả dạng thức trung thành của cộng đoàn tín hữu đối với các vị lãnh đạo của họ. Lời cầu được tiếp nối bằng việc cầu nguyện cách chung cho “tất cả các Gíam mục”[4] và cho “toàn thể hàng giáo sĩ khắp nơi”[5] (không nhắc tên đích danh) nhằm biểu hiện mối dây hiệp nhất của cộng đoàn tín hữu với các ngài là những vị mục tử trong Hội Thánh.[6]
Khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể, các tư tế không nhân danh bản thân mình, nhưng là đại diện Chúa Kitô và Giáo Hội. Trọn vẹn Kinh nguyện Thánh Thể mang âm hưởng hiệp thông, do đó, công thức này diễn tả một thực tại thần học sâu xa trong đó tư tế và cộng đồng bày tỏ họ thuộc về Hội Thánh hoàn vũ qua sự hiệp thông theo phẩm trật với Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục giáo phận là những vị đã được tín thác cho nhiệm vụ dưỡng nuôi và củng cố sự hiệp nhất thâm sâu của Nhiệm thể Chúa Kitô.[7] Đức Thánh Cha đại diện cho sự hiệp nhất này ở cấp độ hoàn vũ vì ngài là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu, là dấu chỉ và là người phục vụ sự hiệp thông giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu cả trên bình diện cơ cấu lẫn bình diện pháp lý và cai quản; còn Đức Giám mục giáo phận, ngài là nguyên lý và nền tảng hữu hình, là dấu hiệu và khí cụ cho sự hiệp nhất này ở cấp độ địa phương. Kinh nguyện Thánh Thể nhắc tới sự hiệp thông với Đức Giáo hoàng, với Đức Giám mục giáo phận, với Giám mục đoàn, với toàn thể hàng giáo sĩ là cần thiết để Thánh lễ cử hành mang tính Công giáo đích thực. Việc nêu đích danh tên của Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục giáo phận thực sự dựa trên khoa Giáo Hội học về hiệp thông, tức là sau Đức Giáo hoàng, sự hiệp thông Giáo Hội được thiết lập qua Đức Giám mục giáo phận xét như ngài là Đại diện Đức Kitô (vicarius Christi), là chủ chăn của một phần Dân Chúa ở đó.[8] Hơn nữa, sự hiệp thông với Giám mục giáo phận là điều kiện để mọi cử hành trong địa phận được hợp pháp.[9]
CÁCH THỨC NÊU TÊN ĐỨC GIÁM MỤC [10]
1.Phải nêu tên
Cách chung, tư tế trước hết nêu danh hiệu của Đức Giáo hoàng đương kim mà theo tập quán chỉ cần nêu tên ngài chứ không cần nêu con số. Tiếp đến, tư tế nêu danh tính của Đức Giám mục đang cai quản giáo phận (Bản quyền địa phương) hoặc Đức Giám mục gíam quản giáo phận hoặc vị cùng đẳng cấp với Giám mục giáo phận theo luật. Nếu có thể, tư tế nêu thêm tên của Đức Giám mục phó hay phụ tá. Tại Rôma, chỉ nêu tên Đức Giáo hoàng mà thôi vì ngài là Giám mục của giáo phận Rôma.
2.Không nêu tên
Cách chung, không nêu tên Đức Giám mục khi vị tư tế dâng lễ trên biển khơi hay những nơi không có Đức Giám mục cư trú. Cũng nên bỏ qua những tước hiệu danh dự như Hồng y. Trong Thánh lễ đồng tế có nhiều vị Giám mục tham gia cử hành, nguyên tắc là không nêu tên các Đức Giám mục ngoài giáo phận, dù một trong số các ngài làm chủ tế. Cũng không nêu tên Đức Giám mục về hưu (trừ khi ngài vẫn tiếp tục được chọn điều hành tạm thời giáo phận trong tư cách là giám quản giáo phận).[11] Tốt nhất, nên cầu nguyện cho các ngài trong phần Lời nguyện Tín hữu.
Cụ thể hơn, Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma số 149 dạy rằng:
- Vị tư tế tiếp tục Kinh nguyện Thánh Thể như chữ đỏ đã ghi trong mỗi kinh.
- Nếu chủ tế là Đức Giám mục cử hành trong giáo phận của mình và chính ngài đọc thì sau những lời “cùng với Ðức Giáo hoàng T” (Papa nostro N.), ngài thêm “và con là tôi tớ bất xứng của Chúa cùng toàn thể hàng giáo sĩ” (et me indigno famulo tuo… – Kinh nguyện Thánh Thể II). Cũng áp dụng tương tự như vậy cho các Kinh nguyện Thánh Thể khác, chẳng hạn, đối với Kinh nguyện Thánh Thể III, Giám mục chủ tế đọc: “cùng với tôi tới Chúa là Đức Giáo hoàng T . và con là tôi tớ bất xứng của Chúa, cùng toàn thể hàng Giám mục, giáo sĩ khắp nơi, và tất cả dân riêng Chúa”.
- Nếu Đức Giám mục cử hành ngoài giáo phận của mình, sau những lời: “cùng với Ðức Giáo hoàng T.”( Papa nostro N.), ngài thêm: “và con là tôi tớ bất xứng của Chúa và người anh em con là T., Giám mục giáo phận T. này” (et me indigno famulo tuo, et fratre meo N., Episcopo huius Ecclesiae N.).
- Đức Giám mục giáo phận, hoặc vị cùng đẳng cấp với Giám mục giáo phận theo luật (có thể là một vị linh mục), phải được xướng tên với công thức: “cùng với tôi tớ Chúa là Ðức Giáo hoàng T. và Ðức Giám mục T. (hoặc: đại diện, giám chức, phủ doãn, đan viện phụ)[12] chúng con” [una cum famulo tuo Papa nostro N. et Episcopo (Vicario, Prelato, Praefecto, Abbate)].[13]
- Trong Kinh nguyện Thánh Thể, có thể xướng tên các Đức Giám mục phó và phụ tá,[14] nhưng không cần xướng tên các Đức Giám mục khác có thể hiện diện trong buổi cử hành.[15] [Những lời kính trọng dành cho các ngài ở chỗ này là không phù hợp bởi vì cử hành Thánh lễ tại một Giáo Hội địa phương được cắm rễ sâu xa nơi chức tư tế của Giám mục giáo phận xét vì là ngài là tiêu điểm và nguyên lý của sự hiệp nhất; hơn nữa, những lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể cũng bao gồm việc cầu nguyện cho tất cả các Giám mục].[16]
- Khi phải xướng tên nhiều vị, nên đọc theo một công thức chung: “Ðức Giám mục T. giáo phận chúng con và các Đức Giám mục cộng tác với ngài” (et Episcopo nostro N. eiusque Episcopis adiutoribus).[17]
- Trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể, phải thích ứng những công thức trên sao cho hợp với cấu trúc văn phạm.
LƯU Ý MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP
1.Trống ngôi Giáo hoàng
Nếu Đức Giáo hoàng đương kim qua đời (sede vacante), cho dầu Đức Giáo hoàng về hưu vẫn còn sống, thì trong thời gian chờ đợi có Tân Giáo hoàng, vị tư tế không nêu tên Đức Giáo hoàng đã quá cố hay tên bất cứ Đức Giáo hoàng nào khác.
2.Tòa Giám mục trống ngôi
Khi tòa Giám mục trống ngôi (sede vacante) do Đức Giám mục đương chức qua đời, từ nhiệm hay chuyển đến một toà khác, giáo phận sẽ được điều hành bởi một linh mục hay Giám mục với vai trò làm giám quản giáo phận.[18]
Nếu vị này là một linh mục giám quản do hội đồng tư vấn giáo phận bầu lên hoặc do Đức Tổng Giám mục giáo tỉnh chỉ định [trong trường hợp qua 8 ngày mà vẫn chưa bầu xong] để điều hành tạm thời cho đến khi có một Đức Giám mục khác được bổ nhiệm cai quản giáo phận, thì không cần nêu tên ngài trong Kinh nguyện Thánh Thể vì chỉ nguyên danh hiệu giám quản không phải là danh hiệu phụng vụ và không thuộc về phạm trù nguyên lý hiệp thông như thánh chức Giám mục [cùng với Bí tích Thánh Thể] như sẽ nói tiếp dưới đây.[19]
Nếu giám quản là một vị Giám mục, tên của ngài phải được nêu trong Kinh nguyện Thánh Thể như thường cho đến khi một Đức Giám mục khác được bổ nhiệm về cai quản địa phận qua nghi lễ tựu chức theo đòi hỏi của Giáo luật số 382.[20] Điều này có nghĩa là dù Toà Thánh đã công bố danh tánh của vị tân Giám mục và đã có văn thư của Toà Thánh bổ nhiệm ngài làm Giám mục chính toà coi sóc giáo phận, nhưng tư tế trong giáo phận vẫn chỉ nêu tên Đức Giám mục giám quản chứ không nêu tên vị tân Giám mục này cho tới ngày ngài được phong chức Giám mục (nếu chưa chịu chức) và chính thức tựu chức. Tuy nhiên, không được đọc các danh hiệu khác biệt nếu có của vị Giám mục giám quản như Tổng Giám mục, Hồng y Tổng Giám mục hay Giám quản Tông toà. Lý do được nêu đích danh trong Kinh nguyện Thánh Thể không phải vì ngài làm giám quản nhưng vì ngài là Giám mục giám quản. Ở một mức độ nào đó, ngài cũng tương tự như vị Giám mục giáo phận, cho nên công thức trong Kinh nguyện Thánh Thể không cần thay đổi (vẫn đọc “Đức Giám mục T. chúng con…”). Với thánh chức Giám mục mà ngài đã lãnh nhận trong ngày phong chức, ngài lãnh nhận sự sung mãn của Bí tích Truyền chức (primatus sacerdotii), trở nên người kế vị các Tông đồ để chăn dắt Giáo Hội Chúa cũng như thuộc về phạm trù nguyên lý hiệp thông của Giáo Hội địa phương [bên cạnh Bí tích Thánh Thể] trong vai trò Giám mục giám quản. Tác giả Susan K. Wood nhắc lại rằng, theo Công đồng Vatican II, hai điều cần thiết cho một Giáo Hội đặc thù là Thánh Thể và Giám mục. Một Giáo Hội đặc thù cốt yếu là một cộng đoàn bàn thờ (thờ phượng, altar) quanh vị Giám mục của mình.[21]
3. Có nêu tên Đức Giám mục nghỉ hưu không?
Theo tác giả Edward McNamara, chỉ có Giám mục giáo phận đương nhiệm mới được nêu tên đích danh trong Kinh nguyện Thánh thể và việc nêu danh tánh Giám mục trong Kinh nguyện Thánh Thể không phải là một vấn đề lịch sự hoặc kính trọng, nhưng là một vấn đề hiệp thông Giáo Hội (una cum Papa et Episcopo).[22] Dựa vào văn thư của Bộ Phụng tự “De nomine Episcopi proferendo in Prece eucharistica” (09-10-1972), cha Đỗ Xuân Quế, OP cũng nhắc lại rằng: “Cầu nguyện cho Đức Cha trong Kinh nguyện Thánh Thế vừa là bổn phận vừa là điều phải lẽ, “không phải chỉ để tỏ lòng tôn kính mà chính là để biểu lộ mối hiệp thông và tình bác ái đối với ngài, hầu xin ơn trợ giúp cho bản thân và sứ vụ của ngài” [tiếng la-tinh là “Non tantum vel non praecipue honoris gratia, sed ob causam communionis et caritatis, sive ad divina auxilia pro ejus persona et ministerio impetranda”] (Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694).[23]
Ở cấp độ hoàn vũ, mỗi Giám mục giáo phận đại diện cho Giáo Hội tại địa phương của mình, và tất cả các Giám mục cùng với Giáo hoàng đại diện cho toàn thể Giáo Hội trong mối dây bình an, yêu thương và hiệp nhất.[24] Giám mục của hai giáo phận có thể thiết lập sự hiệp thông với nhau, nhưng để hoàn toàn thuộc về Giáo Hội Công giáo, họ hay Giám mục đoàn, cần phải hiệp thông hữu hiệu với Đức Thánh Cha, ngài làm Đầu cho Thân Thể hay Đoàn Thể các Giám mục, và đó chính là Giám mục Roma.[25] Ở cấp giáo phận, linh mục đại diện cho các Giám mục để thi hành thừa tác vụ rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa.[26] Theo Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), các linh mục là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám mục; Họ phụ thuộc vào các Giám mục trong việc thực thi quyền hành của họ” (số 28). Do đó, sự hiệp thông của họ với Bản quyền địa phương không kém phần quan trọng.
Phần trình bày trên giải thích lý do tại sao trong lời chuyển cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta chỉ nêu đích danh danh hiệu của Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục giáo phận đương nhiệm chứ không nêu danh tánh của Đức Giám mục về hưu [hay Đức Giáo hoàng về hưu]. Các ngài là Giám mục và đứng trong Hàng ngũ Giám mục, nhưng các ngài không còn thi hành sứ vụ cai quản giáo phận [hay Giáo Hội hoàn vũ] như khi đương chức. Lúc này, các ngài không còn là biểu tượng, là sự diễn tả của sự hiệp thông, hay chịu trách nhiệm cho mối dây hiệp thông của Giáo Hội địa phương hoặc của Giáo Hội hoàn vũ nữa. Vì vậy, như đã nói, các ngài được xếp nằm trong lời cầu nguyện cách chung (không nhắc tên đích danh) dành cho tất cả các Gíam mục và cho toàn thể hàng giáo sĩ nhằm biểu hiện mối dây hiệp nhất của cộng đoàn tín hữu với các ngài là những vị mục tử trong Hội Thánh.[27]
Tuy không đưa tên Đức Giám mục nghỉ hưu vào Kinh nguyện Thánh Thể, nhưng các cộng đoàn giáo xứ và dòng tu trong giáo phận nên cầu nguyện luôn cho ngài trong phần Lời nguyện Tín hữu của Thánh lễ hằng ngày hay trong Lời cầu của Giờ kinh Phụng vụ mỗi ngày. Nhiều người lầm tưởng rằng chỉ dâng Lời nguyện Tín hữu trong Thánh lễ Chúa nhật hay những dịp trọng thể. Thực ra, Hội Thánh khuyến khích dâng Lời nguyện Tín hữu mỗi ngày trong mọi Thánh lễ có giáo dân tham dự.[28]
Về vấn đề điều chỉnh thêm thắt những chi tiết khác vào trong các văn bản hoặc chữ đỏ của Thánh lễ nói chung và trong Kinh nguyện Thánh Thể nói riêng, các vị tư tế nên nhớ rằng, Thánh lễ thuộc về toàn thể Hội Thánh và là một phần quan trọng của “Kho tàng đức tin” (depositum fidei)[29] nên chỉ có Huấn quyền của Giáo Hội (Magisterium) mới có quyền thay đổi, ngay cả Giám mục giáo phận cũng không có thẩm quyền trừ ra phải tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt, như phải có những lý do mục vụ hết sức cần thiết, được Hội đồng Giám mục thông qua [với 2/3 số Giám mục đồng ý] và phải trình lên Toà Thánh để đươc phê chuẩn trước khi đem áp dụng. Vì thế, các linh mục càng phải tránh xa thói quen tự ý thêm thắt điều này điều kia vào trong Kinh nguyện Thánh Thể. [30]
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
Nguồn: gpcantho.com
—
[1] Xc. Edward McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” trong A Zenit Daily Dispatch (17 Feb. 2009) – Notitiae 45 (2009) 308-320.
[2] Xc. Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 22; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 24; Huấn thị Bí tích Cứu độ (Redemptionis sacramentum), số 51, 56, 59.
[3] Xc. Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 56; Edward McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers”; Notitiae 45 (2009) 308-320.
[4] Kinh nguyện Thánh Thể I; III; IV; Giao Hoà II; Cầu cho những nhu cầu khác nhau I, II, III, IV
[5] Kinh nguyện Thánh Thể II; III; IV; Cầu cho những nhu cầu khác nhau II, III, IV; Thánh lễ với trẻ em II, III.
[6] Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 79g.
[7] Xc. Barry Hudock, The Eucharistic Prayer – A User’s Guide (Collegeville, Minnesota: A Pueblo / The Liturgical Press, 2010), 82.
[8] Xc. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium = LG), số 22-23; Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của Giám mục (Christus Dominus), số 6; Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1369.
[9] Xc. ĐGH Bênêđíctô XVI, Tông Huấn Sacramentum Caritatis, số 39.
[10] Xc. Xc. Edward McNamara, “Inserts into Eucharistic Prayers” trong A Zenit Daily Dispatch (Rome – 19 May 2015).
[11] Xc. Giáo Luật số 418#2: Trong trường hợp này, tư tế vẫn nêu tên ngài như công thức thông thường “cùng với Đức Giáo hoàng T., Đức Giám mục T. chúng con…” (Kinh nguyện Thánh Thể II).
[12] Vị có quyền tài phán (jurisdiction) trên một lãnh thổ không gắn với bất cứ giáo phận nào.
[13] Xc. Giáo Luật số 370-371; The Decree Cum de nomine, on the mention of the bishop’s name in the Eucharistic Prayer (October 9, 1972), Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694 trong Documents on the Liturgy, 1963-1979, no. 1970).
[14] Có thể xướng tên nếu vị tư tế muốn (Notitiae 45 (2009) 308-320.
[15] Dù ngài đang chủ sự buổi cử hành phụng vụ.
[16] Xc. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, số 92; Edward Foley (ed), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Collegeville, Minnesota: A Pueblo / The Liturgical Press, 2007), 250-251.
[17] Nghĩa là không nêu từng tên riêng biệt vì có những giáo phận mà số Đức Giám mục phụ tá là 3,4,5 hay thậm chí lên tới 9 vị.
[18] Xc. Giáo Luật số 416.
[19] Xc. Giáo Luật số 419; 421#1; LG, số 20; 21; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông” (ngày 28 tháng 5 năm 1992), số 14.
[20] Xc. Bộ Phụng tự Thánh, Sắc lệnh Cum de nomine (AAS 64 [1972], 692-694.
[21] Xc. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium (=LG), số 20-23; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông”, số 14; Susan K. Wood, “The Church as Communion” trong Peter C. Phan (ed), The Gift of the Chuch (Collegeville, Minnesota: A Pueblo / The Liturgical Press, 2000), 159-176.
[22] Xc. Edward McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers”; Notitiae 45 (2009) 308-320.
[23] Đỗ Xuân Quế, “Đọc tên Đức Cha trong Kinh nguyện Thánh Thể” trong http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Phungvu/69KinhNguyenTT.htm
[24] Xc. LG, số 23.
[25] Ibid., số 22b; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông”, số 12.
[26] Xc. LG, số 28.
[27] Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 79g; 92; Edward Foley (ed), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, 250-251
[28] Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 69; Joseph DeGrocco, A Pastoral Commentaty on the General Instruction of the Roman Missal (Chicago: Liturgy Training Publication, 2011), 48.
[29] Xc. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 84.
[30] Xc. Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 22; Giáo luật 838, 846, 928; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 24; Paul VI, address of August 22, 1973: L’Osservatore Romano (August 23, 1973); Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 51 và 59; Tông Huấn Sacramentum Caritatis, số 37-40; Inaestimabile Donum, số 5; Edward McNamara, “Inserts into Eucharistic Prayers”.