2023
Hiểu đúng về Đấng Kitô
9.6 Thứ Sáu trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 11:5-15; Tv 146:2,7,8-9,9-10; Mc 12:35-37
Hiểu đúng về Đấng Kitô
Trong các bài Tin Mừng trước, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn bị chất vấn bởi các người Pharisêu, Kinh Sư, phe Hêrôđê, nhóm Sa Đốc… Nhưng hôm nay, thánh sử Máccô lại cho thấy một tình thế ngược lại. Chính Chúa Giêsu là người đứng lên chất vấn họ.
Khởi đi từ chỗ Ngài đặt vấn nạn về thân thế, nguồn gốc của mình: các Kinh Sư bảo Đấng Kitô là con vua Đavít, thế thì tại sao vua Đavít lại gọi Đấng ấy là Chúa Thượng tôi? (Tv 110,1). Không ai trả lời được, vì thế đám đông dân chúng lấy làm thích thú!
Qua câu hỏi đó của Chúa Giêsu, Ngài không phủ nhận thân thế, vai trò của mình. Ngài cũng không từ trối tước hiệu con Vua Đavít. Nhưng dần dần, Ngài muốn cho mọi người hiểu về một Đấng Kitô chịu đau khổ, là tôi tớ của Giavê chứ không phải là một Đấng Kitô với mũ mão cân đai và đứng lên để làm chính trị như họ vẫn lầm tưởng!
Chính sự hiểu nhầm và mong ước phiến diện về Đấng Kitô, nên họ không thể chấp nhận Đấng ấy nằm ngoài khuôn mẫu của sự uy nghi, lộng lẫy, đánh đông dẹp bắc, quyền lực phi thường… Vì thế, khi Chúa Giêsu đến, Ngài sống nghèo khó, không nhà không cửa, dạy con người ta hướng thiện, bác ái, bao dung, tha thứ thì họ đã không thể chấp nhận, và lẽ đương nhiên, họ tìm cách loại bỏ vì coi đó như là cái gai trong mắt và hòn đá cản lối đi.
Trong cuộc sống hôm nay nơi con cái của Giáo Hội, vẫn không thiếu những con người đủ mọi tầng lớp, luôn thích một Giáo Hội quyền lực, giàu có, oai phong; thích một Giáo Hội được củng cố bằng quyền lực… Không những thế, mà nhiều người đã áp dụng quan điểm đó ngay trong suy tư, nơi hành vi và lối sống của mình.
Những lúc như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa, mà là đường lối của những Pharisêu giả hình, của Luật Sĩ vụ luật, những Sa Đốc không niềm tin và phe Hêrôđê ham quyền…
“Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”, thông lệ này xem ra cũng rất bình thường trong cách suy nghĩ của người Do Thái thời Chúa Giêsu. Đấng Kitô Cứu Thế họ mong đợi phải là một vị vua, mà đã là vua thì đương nhiên phải xuất thân từ dòng dõi đế vương. Nên khi được gọi là “Con Vua Đavít” Chúa Giêsu đã không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó không diễn tả đủ mầu nhiệm về chính Ngài. Vì thế, để cho những người Do Thái hiểu hơn về bản tính Thiên Chúa nơi Ngài và để kiện toàn những lời đã hứa với Đavít, Chúa Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavít, là Chúa của Đavít.
Thế nhưng, cái khó là những người Do Thái, lúc bấy giờ không nhìn nhận được điều ấy, họ chỉ biết Ngài là con người thuộc dòng dõi Đavít, còn không nhận ra Ngài là Thiên Chúa, Chúa của David. Vì theo kinh thánh, Đấng Kitô phải xuất thân từ dòng tộc vua Đavít trong vùng đất Giuđa, thuộc miền nam đất Paléttin. Mà Chúa Giêsu thì lại xuất thân từ làng Nagiarét, thuộc vùng đất Galilê. Thế nên họ đã lầm to trong sự hiểu biết về Kinh Thánh, và do đó cũng lầm về nguồn gốc của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không chối mình là con vua Đavít, vì theo bản tính nhân loại, Người xuất hiện từ dòng dõi Đavít. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu cho thấy, Người vượt xa hơn tước hiệu ấy, vì Người còn là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, nên vua Đavít lại phải gọi Người là Chúa. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu từ địa vị Thiên Chúa, Chúa các chúa, Người đã tự hạ, để chia sẻ kiếp người nhỏ bé thấp hèn, để cảm thông thực sự với những khốn khó và yếu đuối của chúng ta.
Sau những câu hỏi mà các đối thủ đưa ra để cài bẫy, thì giờ đây, Chúa Giêsu kết thúc cuộc tranh luận bằng cách tự đặt câu hỏi ngược lại về nguồn gốc của mình, cho các người luật sĩ và biệt phái.
Chúa Giêsu đặt vấn đề với các luật sĩ về thần tính của Người: “Chính vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?” Khi nói thế, Chúa Giêsu muốn gợi mở cho họ biết rằng: Người chỉ là con vua Đavít về phần xác, còn về phần thiêng liêng thì người là Con Thiên Chúa và là Chúa Thượng của vua Đavít.
Đức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Đó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh đến thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: “Từ khởi thuỷ đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại, để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: “Thiên Chúa đã làm con người để con người được trở thành con Chúa”. Thật là vinh dự cho con người.
Với tước hiệu là con vua Đavít như dân chúng đã xưng hô Người trong ngày lễ Lá khi Người vào đền thờ, hay người mù thành Giêricô cũng đã kêu lên: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót con”. Chúa Giêsu không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó chưa diễn tả đủ về Người. Vì thế, để kiện toàn những lời đã hứa với Đavít, Chúa Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavít, Người là Chúa của Đavít. Đavít chỉ là một chủ chiên của dân Chúa, còn Chúa Giêsu mới chính là chủ chiên thật, hiền lành, thí mạng sống cho cả Đavít. Rồi đây người ta sẽ thấy Đấng là con Đavít sẽ trở lại ngày phán xét.
Nhìn về cuộc sống, nhiều khi chúng ta cứ nghĩ là… mình biết, biết nhiều thứ. Thế nhưng khổ nỗi là lại biết sai, biết nửa vời, biết tí chút. Đôi khi, ta dám xác quyết chắc nịch là mình biết rất rõ về người này người kia, cũng như về các việc họ đã làm, để rồi phê bình, chỉ trích, lên án, chê bai… Như thế phải chăng là ta nóng vội không? Chắc hẳn ít là một lần ta đã từng là nạn nhân vì người ta nghĩ sai về mình, ta cảm thấy đau đớn biết bao. Ước gì qua lời Chúa hôm nay, thanh tẩy những sai lầm của ta về người khác để ta không ngừng tiến lên trên đường nhân bản, nhân đạo và nhân đức.
2023
Mối quan tâm hàng đầu
8.6 Thứ Năm trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 6:11; Tv 128:1-2,3,4-5; Mc 12:28-34
Mối quan tâm hàng đầu
Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học… Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
Ðó cũng là vấn nạn mà một luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?” Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.
Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời đó có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác và tự lừa dối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.
Các câu hỏi của người luật sĩ trong bài Tin mừng là một vấn đề nan giải của người Do thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho họ câu trả lời thật xác đáng và đồng thời chứng tỏ Người là Chúa của Lề luật. Người cho biết tất cả các giới luật đều quy về giới răn duy nhất: mến Chúa – yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.
Con người là sinh vật có xã hội tính, tức là có nhu cầu sống chung với nhau. Tuy nhiên, vì con người còn có tự do, nên để sống chung hoà thuận, mỗi quốc gia hay tập thể cần có luật quy định các bổn phận và trách nhiệm của mỗi người, để không ai đụng chạm và làm mất lòng người khác.
Thời Chúa Giêsu, nước Do thái cũng có bộ luật gồm hàng trăm khoản luật khác nhau, và họ không biết điều nào là quan trọng nhất. Vì thế hôm nay, một luật sĩ hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi hóc búa: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đã trả lời rằng: hai giới luật quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Như vậy, cốt lõi của mọi điều luật là lòng yêu mến. Mến Chúa yêu người tuy là hai giới răn khác nhau, nhưng lại không thể tách biệt nhau.
Như vậy, cốt cách của đạo chúng ta là “Mến Chúa – yêu người”. Nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa qua Kinh thánh, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”, đó là yêu Chúa và yêu người. Tuy nhiên yêu Chúa, có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm, ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người? Khó hơn, nên chúng ta cần nói nhiều hơn về yêu người.
Nói về yêu người, chúng ta cũng đã nghe nói nhiều rồi, nhưng cũng chẳng bao giờ nói đủ, nghe đủ. Vì thế, chỉ xin nhắc lại một vài điều: Thứ nhất, yêu người là một trắc nghiệm không thể chối cãi được của tình yêu đối với Thiên Chúa, nghĩa là nếu chúng ta nói: chúng ta yêu Chúa lắm mà lại đối xử tệ với người khác, bất kể người đó là ai, chúng ta vẫn là người nói dối, và Chúa sẽ không nhận lòng yêu mến của chúng ta. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”.
Thứ hai, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, bởi vì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương mình, quý mến mình, là chuyện bình thường, không cần gì phải nói.
Thứ ba, yêu người là sẵn sàng giúp đỡ họ bằng lời nói, thái độ, việc làm, tinh thần hay vật chất. Sau hết chúng ta ta hãy nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu cụ thể này, tức tình yêu người, tình yêu thương anh em.
Tình yêu là nền tảng cho đời sống đạo. Không thấy bóng dáng của tình yêu thì cuộc sống sẽ trở thành gánh nặng. Sống đạo là đi vào trong tương quan giao ước tình yêu, để sống với cả con tim, cả khối óc, cả cuộc đời. Tình yêu con người lấy tình yêu Thiên Chúa làm mẫu mực, vì thế, Chúa Giêsu đã nối kết điều răn yêu người thân cận với điều răn thứ nhất. Và ai là người thân cận với ta nhất nếu không phải là những người trong gia đình?
Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu của cuộc sống, kể cả mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, chứ không dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc sống đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.
2023
Mối quan tâm hàng đầu
8.6 Thứ Năm trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 6:11; Tv 128:1-2,3,4-5; Mc 12:28-34
Mối quan tâm hàng đầu
Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học… Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
Ðó cũng là vấn nạn mà một luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?” Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.
Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời đó có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác và tự lừa dối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.
Các câu hỏi của người luật sĩ trong bài Tin mừng là một vấn đề nan giải của người Do thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho họ câu trả lời thật xác đáng và đồng thời chứng tỏ Người là Chúa của Lề luật. Người cho biết tất cả các giới luật đều quy về giới răn duy nhất: mến Chúa – yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.
Con người là sinh vật có xã hội tính, tức là có nhu cầu sống chung với nhau. Tuy nhiên, vì con người còn có tự do, nên để sống chung hoà thuận, mỗi quốc gia hay tập thể cần có luật quy định các bổn phận và trách nhiệm của mỗi người, để không ai đụng chạm và làm mất lòng người khác.
Thời Chúa Giêsu, nước Do thái cũng có bộ luật gồm hàng trăm khoản luật khác nhau, và họ không biết điều nào là quan trọng nhất. Vì thế hôm nay, một luật sĩ hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi hóc búa: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đã trả lời rằng: hai giới luật quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Như vậy, cốt lõi của mọi điều luật là lòng yêu mến. Mến Chúa yêu người tuy là hai giới răn khác nhau, nhưng lại không thể tách biệt nhau.
Như vậy, cốt cách của đạo chúng ta là “Mến Chúa – yêu người”. Nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa qua Kinh thánh, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”, đó là yêu Chúa và yêu người. Tuy nhiên yêu Chúa, có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm, ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người? Khó hơn, nên chúng ta cần nói nhiều hơn về yêu người.
Nói về yêu người, chúng ta cũng đã nghe nói nhiều rồi, nhưng cũng chẳng bao giờ nói đủ, nghe đủ. Vì thế, chỉ xin nhắc lại một vài điều: Thứ nhất, yêu người là một trắc nghiệm không thể chối cãi được của tình yêu đối với Thiên Chúa, nghĩa là nếu chúng ta nói: chúng ta yêu Chúa lắm mà lại đối xử tệ với người khác, bất kể người đó là ai, chúng ta vẫn là người nói dối, và Chúa sẽ không nhận lòng yêu mến của chúng ta. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”.
Thứ hai, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, bởi vì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương mình, quý mến mình, là chuyện bình thường, không cần gì phải nói.
Thứ ba, yêu người là sẵn sàng giúp đỡ họ bằng lời nói, thái độ, việc làm, tinh thần hay vật chất. Sau hết chúng ta ta hãy nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu cụ thể này, tức tình yêu người, tình yêu thương anh em.
Tình yêu là nền tảng cho đời sống đạo. Không thấy bóng dáng của tình yêu thì cuộc sống sẽ trở thành gánh nặng. Sống đạo là đi vào trong tương quan giao ước tình yêu, để sống với cả con tim, cả khối óc, cả cuộc đời. Tình yêu con người lấy tình yêu Thiên Chúa làm mẫu mực, vì thế, Chúa Giêsu đã nối kết điều răn yêu người thân cận với điều răn thứ nhất. Và ai là người thân cận với ta nhất nếu không phải là những người trong gia đình?
Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu của cuộc sống, kể cả mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, chứ không dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc sống đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.
2023
Kẻ chết sống lại
7.6
Thứ Tư trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 3:1-11,16; Tv 25:2-4,4-5,6-7,8-9; Mc 12:18-27
Kẻ chết sống lại
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: “Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob”, Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống.
Hơn thế nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.
Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.
Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.
Những đối thủ mà hôm nay Chúa Giêsu phải gặp là những người Sa-đốc thuộc giới tư tế. Vì họ không tin có việc kẻ chết sống lại nên họ đặt ra một câu chuyện (một phụ nữ lấy 7 anh em trai theo tục lệ “thế huynh”) để cho thấy sống lại là một sự lố bịch. Trả lời họ, Chúa Giêsu không những chứng minh có việc sống lại, mà còn cho biết cuộc sống sau khi sống lại sẽ như thế nào. Trước hết, cuộc sống đời sau không giống cuộc sống hiện tại, cho nên không cần lưu truyền nòi giống và bởi thế không cần có vợ có chồng. Tiếp theo, cuộc sống ấy “giống như các thiên thần” : nghĩa là không quan tâm đến gì khác ngoài việc yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa. Chúng ta thấy những người phái Sa-đốc tuy là tư tế nhưng không quan tâm tới những việc đạo đức cho bằng tới những đặc quyền đặc lợi của họ.
Để bảo vệ những quyền lợi ấy, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ chế độ nào đang cầm quyền, cho dù đó là chính quyền đế quốc Rôma đang xâm lược đất nước họ. Chính vì thế, họ không tin sự sống lại và không tin đời sau là phải, bởi vì ai càng coi trọng đời này và những giá trị đời này thì càng coi nhẹ đời sau và các giá trị đời sau. Càng thiên về xác thịt thì càng yếu về tinh thần. Đức tin dạy chúng ta rằng cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “như các thiên thần” nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa không để cho con người sống mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khoẻ và mọi thứ của cải trên thế gian.
Chúa Giêsu cũng đã dùng Kinh Thánh để minh chứng cho giáo lý của Người: “Các ông đã không đọc trong sách Môsê sao: Ta là Chúa của Abraham. Chúa của Isaac và Chúa của Giacóp. Người không phải là Chúa của kẻ chết. Nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to” (Mc 12,26-27). Họ đề cập đến Kinh Thánh, Chúa Giêsu lật ngược lý chứng của họ, bằng cách trích dẫn một đoạn trong Ngũ Kinh (Xh 3,6), là sách Thánh duy nhất được Nhóm Xa-đốc thừa nhận. Một lần nữa, chúng ta khám phá ra một Chúa Giêsu hiểu biết Kinh Thánh rất tinh tường và Người có thể trích dẫn theo trí nhớ từng câu một để chống lại mọi cuộc tranh luận.
Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.