2023
Sống công chính
15.6 Thứ Năm trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
2 Cr 3:15; 2 Cr 4:1,3-6; Tv 85:9-10,11-12,12-13; Mt 5:20-26
Sống công chính
Công chính là đức tính rất cần thiết của con người nói chung. Nhưng đối với người tín hữu thì sự công chính này còn cần hơn gấp bội, và đức công chính phải trọn hảo hơn nữa, vì nó được xây trên nần tảng tình yêu và phát xuất từ chính tình yêu. Trang Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ một lý tưởng sống mới, đó là phải công chính hơn những người biệt phái: “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5, 20).
Sự công chính mà Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ của Người, đó là sự công chính phát xuất từ chính tình yêu chân thật không pha vụ lợi, qua đó Người kiện toàn lại lề luật và đề ra một lý tưởng sống mới cho người môn đệ đó là Luật yêu Thương. Vì quả thực, Người đến trần gian là để kiện toàn lề luật:”Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17). Vì vậy, người môn đệ được Chúa mời gọi phải sống công chính hơn những người biệt phái. Người biệt phái giữ luật rất chu đáo và tỉ mỉ và không bỏ sót một điều luật nào trong các khoản luật đã được đề ra, nhưng đáng tiếc là họ giữ luật một cách máy móc và hình thức, giữ luật chỉ vì luật mà không đi vào chiều kích nội tâm. Chúa Giêsu biết rõ cách sống và giữ luật của họ.
Chính vì vậy, Ngài căn dặn các môn đệ của Ngài giữ các lề luật với tâm tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người khác như chính mình. Luật yêu thương mà Chúa Giêsu truyền dạy cần thực hiện cách cụ thể là sống hòa thuận và biết tha thứ: “Vậy, nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh em, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23 – 24). Lễ vật cao quý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất, đó là cuộc sống đong đầy tình yêu, vì thế để có của lễ đẹp lòng Thiên Chúa thì chúng ta phải sống chan hòa tình yêu thương với anh em mình, yêu thương phải phát xuất từ chính trong tâm của mình, không hời hợt bên ngoài, hay ở đầu môi chót lưỡi.
Trong cuộc sống của mỗi người, không thiếu những lúc người khác làm cho chúng ta khó chịu, bực mình, không thiếu những lúc chúng ta sống khó hòa hợp với người khác, nhưng Chúa dạy chúng ta phải đi bước trước đến với tha nhân, đi bước trước đến với người nói hành nói xấu ta, đi bước trước đến với người làm ta đau khổ, với tính xác thịt con người thật là một điều quá khó, nhưng với tình yêu mến Chúa và trong tình mến, người môn đệ sống đức công chính Chúa dạy chúng ta hãy noi gương Chúa, khi ta chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, khi chung quanh Thánh Gía đông vô kể những người bất bình, những người sỉ nhục Chúa, cả những người đóng đinh và coi thường Chúa : “Ông có phải là Thiên Chúa thì hãy tự xuống khỏi thập giá đi”, họ đang vui vẻ và hả hê cười nói, vì đã giết được Chúa, thì chính lúc đó Chúa dạy một bài học yêu thương và tha thứ cao tột đỉnh, Chúa ngước mắt lên trời và thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Chính bài học này đã dạy chúng ta tha thứ không phải là nhát đảm mà là anh hùng, tha thứ không phải là thua thiệt mà được gấp ngàn lần.
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người, ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5, 21). “Chớ giết người” đó là một điều luật đã có từ thời Cựu ước và đến thời Tân ước Chúa Giêsu đã kiện toàn luật này một cách trọn hảo hơn, không phải chúng ta chỉ lo tránh giết người, mà còn phải sống với mọi người trong bầu khí chan hòa tình yêu thương, và phải tránh không phẫn nộ, không chửi mắng người anh em, và trong tư tưởng không có ác ý hại người, không có ý dèm pha chỉ trích, không loại trừ người anh em khi người anh em có tội. Chúa Giêsu cấm ngay từ trong trứng nước, ngay từ trong tư tưởng của người môn đệ Chúa, phải giữ trọn lề luật với tâm tình yêu thương, thương người như chính bản thân mình.
Tin Mừng theo thánh Mátthêu: đừng giận ghét, đừng gian dâm, đừng nóng giận, đừng thề thốt… Về vấn đề giận dữ, thánh Gioan còn nói rõ: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Hơn nữa, Ngài còn nói rõ điều kiện để được Chúa nhận lời là phải tha thứ: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Lời Chúa hôm nay thúc giục chúng ta nhìn lại chính mình, đúng hơn, nhìn lại cách chúng ta sống với những người chung quanh, xem ta có giận ghét ai không, có loại trừ ai không ? Đó có thể là mẹ chồng hay con dâu, một người trong gia đình, một người hàng xóm. . . Có người thắc mắc, không được ghét người, nhưng người ta ghét mình thì sao ? Chúa Giêsu đã trả lời: anh em hãy thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét anh em. . . nhưng yêu thương kẻ ghét mình đã khó mà yêu thương kẻ mình ghét lại càng khó hơn. Tại sao Chúa Giêsu đã dậy như vậy ? Là bởi vì chính người đã sống như vậy; hơn nữa chỉ có tình yêu mới cải tạo được con người; bạo lực oán thù chỉ đem lại bạo lực oán thù mà thôi.
Nhìn ra thế giới hôm nay, hận thù chiến tranh đang diễn ra hàng ngày. Ba phần tư dân số thế giới sống trong cảnh đói nghèo, nhưng hình như hầu hết đang đói tình thương hơn là đói cái ăn. Hôm nay Kinh Hòa bình của Thánh Phanxicô đang cần được mọi người hát vang lên khắp nơi: lạy Chúa xin làm cho con nên dụng cụ hòa bình của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù… đem hòa bình vào nơi tranh chấp. . . Hát nhưng nhất là hãy sống hòa bình, trở nên khí cụ hòa bình trong cuộc sống với những người chung quanh; hãy đem hòa bình vào trong gia đình, trong xóm giềng bạn; hãy sống khoan dung tha thứ. Thế giới hôm nay chưa có hoà bình, một phần có lẽ tại tôi cũng tại bạn, chúng ta chưa trở nên khí cụ hòa bình của Chúa.
2023
Kiện toàn lề luật
14.6
Thứ Tư trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
2 Cr 3:4-11; Tv 99:5,6,7,8,9; Mt 5:17-19
Kiện toàn lề luật
Bất cứ tổ chức con người nào sống trên mặt đất này đều có những quy định chung, đó là những lề luật buộc mọi người phải tuân giữ vì hạnh phúc của mình và mọi người. Dân Chúa, một dân tộc đăc biệt sống nơi trần thế này cũng được Thiên Chúa ban cho lề luật đăc biệt để sống hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc muôn đời nữa.
Thiên Chúa đã ban lề luật cho dân Do Thái dân riêng Người tuyển chọn trước Chúa xuống thế khoảng 18 thế kỷ. Đó là 10 điều răn Đức Chúa Trời. Khi xuống thế, Chúa Giêsu thấy họ lầm lỗi trong việc giữ luật, thiếu điều cốt lõi là kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chúa Giêsu đã sửa dạy mà họ không hiểu lại còn trách Chúa và các tông đồ “phá lề luật”. Do vậy Chúa đã khẳng định hôm nay: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật Môse và các Ngôn Sứ…Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn”. Mười điều răn Đức Chúa Trời đã truyền cho ông Môsê trên núi Xinai, còn gọi là luật cựu ước là giới luật cơ bản, cốt lõi, tối thiểu để cho những ai muốn làm con người thôi đều phải tuân giữ chứ chưa nói đến dân riêng, hay “dòng dõi được tuyển chọn”.
Người Do Thái sống và tuân thủ lề luật Thiên Chúa như cha ông họ đã từng. Đó là bộ luật của Dân Thiên Chúa từ thời Cựu ước mà Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, các tiên tri. Nếu Dân Thiên Chúa trong thời cựu ước là đoàn dân mong đợi Đấng Cứu Thế, thì Dân Thiên Chúa trong thời Tân Ước là đoàn dân đón nhận Đấng Cứu Thế, đón nhận Ơn Cứu Độ. Chúa Giê-su đến, Người không phủ nhận hình ảnh mơ hồ của Đấng Cứu Thế đã được mong đợi, nhưng Người giới thiệu một chân dung đích thực của Đấng Cứu Thế là chính Người. Và vì thế, Người tuyên bố rằng Người không hủy bỏ lề luật, nhưng Người kiện toàn, người làm mới cách sống, cách thờ phượng, cách yêu thương để con người được ơn cứu độ. Bởi luật pháp trần gian nào cũng muốn củng cố quyền lực cai trị, nên người dân giữ luật luôn nặng tính đối phó, cầu an hơn là vì yêu mến chế độ, yêu mến đất nước.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Chúa Giê-su muốn xóa đi cái khái niệm giữ luật, vị luật, và Người muốn con người tuân giữ lề luật Chúa vì yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, vì yêu mến Nước Thiên Chúa của đoàn dân được cứu độ, vì nghĩa vụ xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian. Không phải giữ luật ngày Sabat vì luật buộc, nhưng vì để thờ phượng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và trao ban lòng xót thương của Thiên Chúa cho mọi người. Không phải giữ luật cấm giết người, mà còn phải giữ luật yêu thương hết mọi người, cả người thương người ghét, cả người bạn lẫn kẻ thù… Cách sống mới là sống yêu Chúa, yêu người thật chân tình tự trong đáy lòng chúng ta. Bao lâu còn câu nệ hình thức, còn vị luật, bấy lâu chưa yêu, và chưa được cứu độ.
Thực thi luật Chúa thì lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. Người yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức mình là đi trên đường đá vững chắc có rào chắn vững vàng mà yên tâm tới đích. Như người xây nhà trên đá tảng sẽ không sợ sụp đổ khi bão táp mưa sa.
Thực thi giới răn “yêu thương tha nhân như chính mình” thì đâu còn lừa dối, cướp bóc, chém giết, hận thù… và nước thiên đàng bắt đầu hiện diện từ dưới thế này, yêu thương là kiện toàn mọi lề luật.
2023
Bài ca Bát Phúc
12.6 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
2 Cr 1:1-7; Tv 34:2-3,4-5,6-7,8-9; Mt 5:1-12
Bài ca Bát Phúc
Hạnh phúc! Một điều mơ ước muôn thuở của con người. Tuy người ta chưa đồng ý với nhau về một định nghĩa của hạnh phúc, nhưng mọi người đều nỗ lực tìm đến hạnh phúc bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ giá nào. Giấc mơ lớn nhất của con người là hạnh phúc. Từ xa xưa, triết gia Aristote đã cảm nghiệm được điều này khi ông nói: “Hạnh phúc là một cái mà tất cả mọi người đều tìm kiếm”. Còn triết gia Blaise Pascal bảo rằng: “Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người thắt cổ tự tử”.
Hạnh phúc là một trong những khát vọng lớn nhất của con người. Người ta đã phải vất vả ngược xuôi để kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc là gì? Có phải hạnh phúc là khi ta có nhiều tiền bạc, có danh vọng quyền cao chức trọng. Dẫu sao những thành công ở đời cũng đem đến cho ta chút vinh dự và niềm vui, nhưng đó chỉ là thứ hạnh phúc ngắn ngủi qua mau.
Thiên Chúa dựng nên con người và mời gọi họ đến để hưởng hạnh phúc viên mãn. Nhưng hạnh phúc của Thiên Chúa thì khác xa với hạnh phúc của trần gian. Hạnh phúc đó thuộc về những ai có tâm hồn trong sạch và nghèo khó, người sống hiền lành và khiêm nhường. Hạnh phúc chỉ đến với những ai chịu bách hại vì danh Đức Kitô, những ai bị bỏ vạ cáo gian nhưng vẫn trung tín làm chứng cho Tin Mừng. Khi khởi sự sứ vụ loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã rao giảng rằng: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành,vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp…”(c. 3-4)
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là một bài ca Hạnh Phúc được Chúa Giêsu nhấn mạnh như một lẽ sống của những ai mong muốn được hưởng hạnh phúc đích thực. Cụm từ “Phúc cho ai…” được lặp lại tám lần như một điệp ca vang vọng mãi ở trên núi. Tám mối phúc Chúa Giêsu đề cập đến như đi ngược lại với quan niệm về hạnh phúc của đám đông dân chúng. Với Chúa Giêsu, hạnh phúc không thuộc về những trọc phú, những người có chức tước, có quyền lực trong xã hội mà là người có tinh thần nghèo khó, người hiền lành, người có tâm hồn trong sạch, người bị bách hại vì sống công chính…Họ là những “người nghèo của Giavê Thiên Chúa”.
Một niềm hạnh phúc đích thực được mở ra cho những người cô thế cô thân, những bà góa và những trẻ em mồ côi. Nơi Chúa Giêsu, hạnh phúc vượt lên các giá trị trần gian, vượt qua những bãi bờ ghềnh thác của quyền lực và danh vọng. Hạnh phúc đó được ấp ủ và dưỡng nuôi trong hạnh phúc lớn lao của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Hạnh phúc ấy được kết tinh trong Người Con duy nhất, nơi chất chứa những điều diệu kỳ nhất mà không một thế lực nào dù mạnh mẽ, ngoạn mục đến đâu cũng không thể phá hủy được.
Giam mình vào ánh vinh quang của vật chất, người ta chìm trong những mong manh vụn vỡ để rồi đánh mất cả thân xác và hồn phách. Những cái lịch sự bóng bẩy của thế gian thường dẫn đến những ảo giác lệch lạc. Có hay chăng một hạnh phúc đong đầy những mất mát, những bắt bớ, những hiểu lầm và nghi kỵ. Người môn đệ của Chúa Giêsu là người hạnh phúc trong chân lý sự thật dù phải trải qua những mất mát đớn đau để rồi xác tín như thánh Phaolô“cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).
Bài ca Bát Phúc luôn là một lời thách đố hay một tin vui, đón nhận hay không là tự do của mỗi con người. Một khi con người đã xác định cho mình hướng đi, luôn khát khao vươn tới thì dù ở đâu trong hành trình vạn dặm cũng tìm thấy Hạnh phúc.Với con mắt đức tin, chúng ta biết rằng Thiên Chúa hằng tuôn đổ ân phúc của Người ngay cả lúc chúng ta gặp đau khổ thất bại và mang đầy những lầm lỗi. Vì thế hạnh phúc cũng có thể là nhận ra những giới hạn của thân phận con người trước tình thương vô biên của Thiên Chúa. Như bản tình ca được kết dệt bởi những nốt trầm bổng, hạnh phúc không chỉ là lúc chúng ta nhận được nhiều điều may lành nhưng cũng là lúc chúng ta dám cho đi, dám trao tặng, dám hao mòn vì tình yêu; không chỉ là lúc chúng ta bình an sum họp mà cả những lúc chia xa đổ vỡ.
Tất cả là hồng ân, không có gì của con người nằm ngoài bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta sống xa Chúa đó là chúng ta đang gánh chịu nỗi bất hạnh. Chỉ phút giây nào chúng ta còn sống theo lời dạy của Thiên Chúa đó là chúng ta đang có hạnh phúc thật, ngoài Thiên Chúa ra chúng ta không tìm đâu được hạnh phúc. Nói như thánh Augustinô “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên trái tim con cho Chúa, linh hồn con còn mãi khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa”.
Chúa Giêsu đã vạch ra cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài những con đường để đưa đến hạnh phúc. Con đường đó là: tinh thần nghèo khó, hiền lành, chịu đau buồn vì Chúa, khao khát điều công chính và sẵn sàng nhận bị bách hại vì điều công chính đó, hãy thương xót người, có lòng trong sạch, ăn ở thuận hoà. Trung thành với các “mối phúc thật” và gắn vào trong đó lòng mến thì hẳn sẽ đạt được hạnh phúc đích thực là Nước trời.
2023
Tấm Lòng Người Nghèo
10.6 Thứ Bảy trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
Tb 12:1,5-15,20; Tb 13:2,6; Mc 12:38-44
Tấm Lòng Người Nghèo
Trong bài Tin mừng hôm có hai hình ảnh đối chọi nhau:
Hình ảnh của các luật sĩ: rất cao trọng, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.
Hình ảnh một bà goá nghèo: nghèo tiền nhưng rất giàu lòng. Bà đã dâng số tiền nhỏ mọn với thái độ âm thầm và quảng đại. Như thế, giá trị của việc dâng cúng hay bất cứ việc gì khác không tuỳ thuộc số lượng, hay kết quả bên ngoài, nhưng hệ tại ở lòng thành và cách sống của mỗi người.
Hôm ấy Chúa Giêsu cùng với các môn đệ vào đền thờ Giêrusalem, và ngồi nghỉ chân ở khu vực dành cho phụ nữ. Tại đây Chúa gặp một tấm lòng tốt của một góa phụ dâng cúng hai đồng Lenta vào hòm tiền đền thờ. Đồng Lenta là đồng tiền nhỏ nhất của những người nghèo thời ấy thường có. Bà ta bỏ vào hòm tiền với cả tấm lòng, vì bà đã hy sinh cả phần cuối cùng để sinh sống.
Chúa Giêsu ca tụng lòng tốt của bà, vì bà đã cho trong yêu thương. Càng cho nhiều thì là dấu càng thương yêu nhiều. Cho tất cả là dấu tình yêu thương không bờ bến. Người đàn bà goá không phải chỉ cho phần dư thừa đã dành dụm được, mà cho chính nguồn sống ít ỏi của bà. Như vậy, người đàn bà này vừa cho một cách quảng đại vừa một cách vui vẻ tận đáy lòng nữa.
Một tác giả nào đó đã nói: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng”. Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.
Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mồng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cần lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng tiền của, mà ở quả tim được gói ghém trong món quà. Chúa Giêsu hôm nay đã nhìn thấy quả tim mà bà goá đã gói ghém trong món quà ấy.
Người Kitô hữu được tham dự chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn liên kết với tình yêu Thiên Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, như số tiền dư thừa mà những người giàu có bỏ ra; có khi ít mà là nhiều, như một phần tư xu của bà goá nghèo. Nhiều không phải ở của bỏ ra mà là ở tấm lòng và hy sinh.
Câu chuyện bà góa gợi cho chúng ta vài suy niệm sau đây:
Một là các việc tầm thường có một giá trị phi thường, nếu chúng ta biết làm vì yêu mến Chúa. Ðời chúng ta phần lớn gồm những việc nhỏ mọn, chúng ta phải biết thánh hóa, biết làm cách khác thường, làm vì yêu mến. Bà Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu ở Lisieux là một gương mẫu. Bà đã tìm ra một con đường nên thánh mà Ðức Gioan Phaolô II gọi là “Con đường dựa trên thực tại Phúc Âm”; “Con đường nên thánh của thời đại” (Piô XI). Con đường thơ ấu ấy gồm trong hai yếu tố căn bản: Nhìn nhận sự yếu đuối của mình và hoàn toàn trông cậy phó thác; làm mọi việc bé nhỏ, chịu đau khổ vì yêu mến Chúa.
Hai là việc bà góa bỏ tiền vào đền thờ, chúng ta đi lễ cũng bỏ ít nhiều giúp vào công việc nhà Chúa. Trong Cựu ước, Chúa dạy các chi họ Israel phải để ra thập phân để lo việc phụng tự (Lv 27,30-32). Trong Tân ước, Thánh Phaolô nói: Người lo việc Chúa có quyền sống nhờ bàn thờ. Tuy Giáo hội từ đầu đã bãi bỏ tục lệ thập phân, nhưng giáo dân đi dự lễ thường mang theo của lễ vật chất: có Thầy Phó Tế để lo việc phân phát chia sẻ. Khi số người quá đông, tục lệ biến thành dâng cúng ít tiền. Giáo hội là một tổ chức hữu hình, cần có nơi thờ phượng, đồ thờ và người trách nhiệm.
Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho ta biết: lòng yêu thương có giá trị cao là do tấm lòng, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Giá trị của đồ vật trao tặng không quý bằng tấm lòng, tức là giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất, mà chính là tấm lòng của con người. Hiểu như thế chúng ta mới thấy dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để trao ban: một nụ cười nhân ái, một lời nói cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một chút quà nhỏ chia sẻ… đều có giá trị to lớn trước Thiên Chúa và trong tình yêu thương đối với nhau