Hãy trở về như Matthêu
21.9 Thánh Mátthêu, Tông Đồ Thánh Sử
1 Tm 4:12-16; Tv 111:7-8,9,10; Lc 7:36-50
Hãy trở về như Matthêu
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: “Hãy theo Ta”.
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: “Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi” (Mt 9, 13) và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: “Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa thuế vụ trong xã hội Do Thái là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình. Họ là hình ảnh của những gì là xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình. Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: Một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi. Vì thế chúng ta hiểu thêm tại sao người biệt phái cầu nguyện tách biệt và khinh chê người thu thuế, còn người thuế vụ thì không dám đến gần bàn thờ nơi Thiên Chúa ngự, vì sự bất xứng của mình, anh ta ở dưới cúi đầu, đấm ngực ăn năn (x. Lc 18,9-14).
Đã không nên ở gần, lại càng không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế. Hôm nay, Chúa Giêsu lại gọi người thu thuế Matthêu theo Ngài để trở thành môn đệ, một hành động khiến người Do Thái không thể hiểu được. Thật lạ, một người xấu xa, dơ bẩn đó được đặt làm môn đệ, rồi chính Đức Giêsu lại đồng bàn với những kẻ thu thuế như là những người đồng hội, đồng thuyền với kẻ tội lỗi…: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế”.
Theo phong tục Do Thái, khi cùng ăn uống với ai, đó là dấu hiệu một sự hiệp thông, một sự chia sẻ tư tưởng, tình cảm và là một cử chỉ thân thiết và quan tâm của mình đối với người được. Mời ai ăn cơm, là một vinh dự, tỏ ra muốn hòa bình, thân thiện, tin tưởng và tha thứ (2V 25,27-29). Cùng đồng bàn với người thu thuế, Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia… Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc.
Vâng, chính Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa những người bất hạnh trong đó có cả những tội nhân. Tội nhân biết nhìn nhận tình trạng thiếu thốn, tình trạng tội lỗi, để Đức Kitô, vị thầy thuốc đến cứu chữa (x. Mt 9,12-13) như Ngài tuyên bố: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Chúng ta nhớ lại sắc màu tái tím cõi lòng của người thu thuế tại đền thờ, đã được Thiên Chúa cứu chữa và ông trở nên người công chính (x. Lc 18,9-14).
Chúng ta với thời gian bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài, vị thầy thuốc băng bó, chữa lành và làm cho công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm được tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài, vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ tự cho mình là công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Dường như thánh Matthêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc Âm thánh Matthêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Matthêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.
Matthêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Thánh Matthêu là dấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Matthêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ’’, và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”