2023
Đối thoại chứ không đối đầu
3.6
Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo
Hc 51:12-20; Tv 19:8,9,10,11; Mc 11:27-33
Đối thoại chứ không đối đầu
Đối thoại là một trong những phương thế giải quyết mâu thuẫn, đem lại sự hiểu biết và trân quý nhau hơn. Tuy thế, đối thoại chỉ mang lại hiệu quả khi đôi bên đến với nhau với lòng chân thành, cởi mở và tinh thần tôn trọng sự thật. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và giới lãnh đạo Do thái trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ (Mc 11,15-19), một sự kiện náo động đụng chạm trực tiếp đến quyền hành của những người đứng đầu Ír-ra-en.
Vì thế, cuộc gặp gỡ này đã không diễn ra trong bầu khí của một cuộc đối thoại đúng nghĩa, bởi lẽ các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã đến với thái độ ganh ghét, thù nghịch. Kết quả là sự thật về Chúa Giê-su đã không được vén mở cho họ, hay nói đúng hơn, chính họ đã khép kín mình và không muốn đón nhận sự thật. Bi kịch của giới lãnh đạo Do thái nằm ở chỗ họ đã không có đủ lòng chân thành và khiêm tốn. Nỗi sợ mất uy tín, địa vị đã khiến họ không dám nhìn nhận sự thật, đẩy họ đến một câu trả lời vô trách nhiệm: “chúng tôi không biết.” Cuộc đối thoại giữa họ và Chúa Giêsu đã đi vào chỗ bế tắc.
Chúng ta thường quan niệm rằng “kẻ không biết không có tội”, vì họ không ý thức được điều họ làm là sai. Tuy nhiên, nếu người đó biết rõ nhưng vì lợi ích cá nhân của mình mà giả vờ như không biết, kẻ đó càng đáng tội nhiều hơn. Các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão trong bài Tin Mừng hôm nay chính là những người như vậy. Họ muốn chất vấn về quyền hạn của Chúa Giêsu là từ đâu mà có, nhưng lại chẳng muốn chấp nhận sự thật rằng Người là Con Thiên Chúa. Để rồi, họ tự dối mình và dối người khi thốt lên “Chúng tôi không biết”.
Có phải thực sự họ không biết hay không? Không hề. Họ không chỉ nhận biết được quyền năng của Chúa Giêsu mà còn nhận ra sự hiện diện của quyền năng ấy sẽ gây bất lợi cho mình. Chính vì thế, họ thà tự nhận mình là những kẻ không biết gì còn hơn là chấp nhận sự thật về quyền thế của Người. Lời nói đó tưởng chừng như vô thưởng vô phạt nhưng thực sự đã tố cáo lòng tin chai đá của những người có uy tín, những người đại diện cho tầng lớp trên trong xã hội Do Thái và sự nhỏ nhen, vị kỉ của họ.
Tuy nhiên, đừng vội xét đoán vì biết đâu được, chính chúng ta cũng là những người như họ. Đôi lúc chúng ta đặt cái tôi của mình quá cao, xem trọng lợi ích của mình một cách quá đáng để rồi im lặng trước bất công của xã hội, hay chọn cách như các luật sĩ, trưởng tế và kỳ lão trong đoạn Kinh Thánh trên – vờ như không biết những điều đó.
Quả thật, khi mỗi người đều tự đề cao cái tôi của mình một cách thái quá, những giá trị chung của xã hội sẽ chẳng còn gì quan trọng.
Nhìn vào thực tế đất nước chúng ta, biết bao kẻ gian tà đã bị đồng tiền mê hoặc, cướp mất ruộng đất, nhà cửa hay vơ vét một cách vô tội vạ mà không cần quan tâm đến những người bị họ cướp. Họ không cần biết đến điều đó, chỉ cần vinh thân phì gia, họ sẵn sàng bất chấp tất cả. Hay những người hữu trách của đất nước cũng thế, họ “không thấy, không nghe, không nói” hay “không biết” những kẻ ngoại bang đang từng ngày đe dọa chủ quyền của đất nước. Không chỉ tầng lớp trên mà ngay cả những người bình thường cũng vậy, họ bàng quan, thờ ơ trước vất công của xã hội, nhân quyền chỉ còn là trò đùa của kẻ cầm quyền nhưng họ lại “không biết” vì họ không ý thức được nó ảnh hưởng rất lớn đến mình. Người ta chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài… Tất cả cũng là do con người cố tình “không biết”.
Là người Công giáo, chúng ta may mắn hơn vì được biết nhiều hơn người khác, đồng thời cũng được “ưu ái” hơn vì biết và dám nói. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chúng ta hoàn hảo. Đôi lúc chúng ta vẫn yếu đuối, vẫn chối bỏ Chúa vì tội lỗi hay vì lợi ích cá nhân mình. Chính vì thế, chúng ta cần ý thức được sự thật quan trọng đến mức nào, để ta biết tôn trọng, đề cao nó và chia sẻ cho mọi người cùng nhận ra sự thật đó. Đồng thời, chúng ta phải biết lên án những điều trái với chân lí, trái với sự thật vì Thiên Chúa là Đấng Chân Thật.
Quả vậy, trong đời sống con người thường hay tìm cho mình sự tư lợi, tìm cho mình một địa vị trong xã hội. Khi mục đích đời họ là đi tìm những thứ phù phiếm của tiền tài danh vọng, họ rất ghét những ai có và sẽ có tầm ảnh hưởng hơn họ. Bởi lẽ, họ không muốn mình là hạng hai và thứ yếu so với kẻ khác và cũng vì đó mà họ khó đón nhận sự hiện diện của những điều thánh thiêng, và càng khó hơn khi đón nhận những “ngôn sứ” của Thiên Chúa.
Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đã rơi vào vòng “kim cô” của thế tục ấy, nên họ càng ghét Chúa Giêsu hơn, bởi Ngài có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng. Chính thái độ và cung cách ấy mà họ đâm ra sợ hãi, họ mới trả lời với Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Họ trả lời không biết không phải vì họ không biết mà là họ không dám biết và không muốn biết, bởi cái biết ấy sẽ ảnh hưởng trên thế lực, địa vị và quyền lợi của họ.
Do vậy, Chúa Giêsu cũng không nói cho họ biết Ngài lấy quyền gì để làm điều ấy, vì lẽ, chính Ngài đã nói rõ ràng với họ rồi “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi sào huyệt của trộm cướp”, nhưng họ đã không dám đón nhận sự thật ấy.
2023
Xin Chúa chữa cho ta được sáng
1.6 Thánh Justin, Tđ
Hc 42:15-25; Tv 33:2-3,4-5,6-7,8-9; Mc 10:46-52
Xin Chúa chữa cho ta được sáng
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Ðấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quý trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn.
Sách ngôn sứ Giêrêmia kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Chúa Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.
Hôm nay, nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Chúa Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Chúa Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng.
Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.
2023
Lên đường thăm viếng
31.5 Đức Mẹ thăm viếng Bà Thánh Isave
Hc 36:1,5-6,10-17; Tv 79:8,9,11,13; Mc 10:32-45
Lên đường thăm viếng
Hôm nay là ngày Lễ Kính Đức Trinh Nữ Maria đi viếng bà thánh Isave, và bài Tin Mừng thuật lại chuyến viếng thăm của Đức Maria đến nhà chị họ Người là bà Isave. Khi thánh Luca nói về Đức Maria, ông nghĩ đến các cộng đoàn vào thời của ấy đã phải sống phân tán ở các đô thị của đế chế La Mã và viết cho họ, Đức Maria là một mẫu mực cho họ phải nên liên kết với Lời Chúa như thế nào.
Một lần, khi nghe Đức Giêsu đang giảng dạy về Thiên Chúa, một người phụ nữ giữa đám đông đã thốt lên: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” để ca ngợi thân mẫu Chúa Giêsu. Ngay lập tức, Đức Giêsu đã đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11,27-28). Đức Maria là mẫu mực cho cộng đoàn tín hữu học cách sống và tuân giữ Lời Chúa. Trong câu chuyện kể về Đức Maria đi viếng bà Isave, ông dạy cho các cộng đoàn cách nên ứng xử để biến đổi việc viếng thăm Thiên Chúa thành việc phục vụ tha nhân.
Câu chuyện Đức Maria đi viếng bà Isave cũng cho thấy một khía cạnh đặc trưng khác của thánh Luca. Tất cả những lời nói và thái độ, đặc biệt là bài ca “Ngợi Khen” của Đức Maria, tạo thành một bài ca tụng tán dương tuyệt vời. Nó giống như là lời mô tả của một bài Phụng Vụ trọng thể. Do đó, thánh Luca gợi lên một môi trường phụng vụ và tán dương, trong đó Chúa Giêsu được hình thành và trong đó các cộng đoàn phải sống đức tin của mình.
Đức Maria đi thăm bà chị họ Isave. Thánh Luca nhấn mạnh đến sự hối hả của Mẹ Maria để đáp lại sự đòi hỏi của Lời Thiên Chúa. Sứ Thần đã cho Mẹ biết về việc mang thai của bà Isave, và Đức Maria ngay lập tức trỗi dậy đi để kiểm lại điều Sứ Thần đã báo cho biết, Mẹ rời nhà để đến giúp cho một người đang cần được giúp đỡ. Từ làng Nagiarét đi lên miền núi xứ Giuđêa dài khoảng 100 cây số! Không có xe buýt cũng chẳng có xe lửa!
Lời chào của bà Isave. Bà Isave đại diện cho Cựu Ước sắp kết thúc. Đức Maria, đại diện Tân Ước mới bắt đầu. Cựu Ước hoan nghênh, chào đón Tân Ước với lòng biết ơn và niềm tin, nhận ra trong đó là món quà nhưng không của Thiên Chúa đến để thực hiện và hoàn tất những gì người ta đã mong đợi. Trong cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, được biểu lộ qua món quà của Chúa Thánh Thần khiến cho hài nhi nhảy mừng trong lòng của bà Isave. Tin Mừng của Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện của Người tại một trong những điều phổ biến nhất của đời sống con người: hai bà nội trợ, trao đổi việc thăm viếng để giúp đỡ lẫn nhau. Một chuyến thăm viếng, niềm vui mừng, chuyện thai nghén, chuyện con cái, giúp đỡ lẫn nhau, chuyện nhà cửa, chuyện gia đình: thánh Luca muốn cho các cộng đoàn (và tất cả chúng ta) hiểu được và khám phá ra sự hiện diện của Nước Trời. Những lời của bà Isave, cho đến bây giờ, là một phần của bài Thánh Thi nổi tiếng nhất và được đọc lại nhiều nhất trên thế giới, đó là kinh Kính Mừng.
Lời chúc tụng của bà Isave nói với Đức Maria: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Đây là lời khuyên của Luca dành cho các cộng đoàn: hãy tin vào Lời Thiên Chúa, bởi vì Lời ấy có dũng lực để thực hiện những gì Lời nói ra. Đó là Lời sáng tạo. Nó tạo ra một sự sống mới trong cung lòng của một trinh nữ, trong cung lòng của những người nghèo khó và bị bỏ rơi, những người chấp nhận Lời với đức tin.
Bài Thánh Thi của Đức Maria. Có lẽ bài ca vịnh này đã được biết đến và được hát trong các cộng đoàn. Nó dạy người ta phải cầu nguyện và hát như thế nào. Luca 1, 46-56: Đức Maria bắt đầu công bố sự thay đổi đã xảy ra trong đời sống của Bà dưới ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa, đầy lòng thương xót. Đây là lý do tại sao Bà lại hát lên một cách vui mừng: “Thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. Luca 1,51-53: Đức Mẹ hát khen lòng trung tín của Thiên Chúa đối với dân Người và công bố sự thay đổi là cánh tay của Đấng Giavê đang mang đến cho người nghèo đói.
Khái niệm “cánh tay của Thiên Chúa” nhắc nhớ lại việc giải thoát của thời kỳ Lưu Đày. Chính dũng lực cứu độ này của Thiên Chúa đã ban sự sống cho sự thay đổi: Chúa đã dẹp tan những ai thần trí kiêu căng (1,51); Chúa đã lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ (1,52), Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không (1,53). Luca 1,54-55: Cuối cùng, Mẹ nhắc nhớ rằng tất cả là biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa đối với dân của Người và sự biểu lộ lòng trung tín của Chúa về những lời hứa với tổ phụ Abraham. Tin Mừng không phải là một sự đáp trả của việc tuân giữ Lề Luật Chúa, mà là biểu hiện của sự tốt lành và trung tín của Thiên Chúa về những gì đã được hứa. Đó là những gì thánh Phaolô đã dạy trong thư gửi các tín hữu Galát và các tín hữu Rôma.
Sách thứ hai của tiên tri Samuel kể về câu chuyện Hòm Bia Giao Ước. Vua Đavít muốn đưa Hòm Bia Thiên Chúa về nhà mình, nhưng vua sợ và nói rằng: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2Sm 6,9). Sau đó, vua Đavít đã ra lệnh đưa Hòm Bia Thiên Chúa sang nhà ông Ôvết-Êđôm, và Chúa đã chúc phúc cho ông Ôvết-Êđôm và cả nhà ông (2Sm 6,11). Đức Maria, đang mang thai Chúa Giêsu, giống như mang Hòm Bia Thiên Chúa, trong Cựu Ước, đến thăm nhà người khác để đem lại ơn ích cho họ. Đức Maria đến nhà bà Isave và ở lại đó ba tháng. Và trong khi Đức Mẹ ở trong nhà bà Isave, cả gia đình bà được Thiên Chúa chúc phúc. Cộng đoàn phải nên giống như Hòm Bia Giao Ước Mới. Khi đến viếng nhà của ai, họ nên đem đến những lợi ích và ân sủng của Thiên Chúa cho mọi người.
Ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng hôm nay cho chúng ta nhìn thấy một khía cạnh trong đời sống nội tâm của Đức Maria, đó là tinh thần khiêm nhượng phục vụ và tình yêu vô vị kỷ dành cho những ai cần đến sự trợ giúp của Mẹ. Biến cố trong mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui của chuỗi Mân Côi mời gọi chúng ta hãy hiến thân mau mắn, vui tươi, và chân thành cho người chung quanh.
Nhiều khi sự phục vụ tốt nhất chúng ta có thể thực hiện là chia sẻ với họ niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi chúng ta sống thân mật với Chúa, qua việc trung thành giữ trọn những giờ cầu nguyện trong ngày sống. Việc kết hợp với Thiên Chúa và thực hành các nhân đức siêu nhiên luôn luôn kéo theo niềm hứng thú thực hành các nhân đức nhân bản: Đức Maria đem niềm vui đến cho gia đình bà chị họ, bởi vì Mẹ ‘mang’ Chúa Kitô. Chúng ta ‘mang’ Chúa Kitô trong lòng, và với Người là niềm vui chứa chan, đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, dù khi làm việc, hoặc khi viếng thăm bè bạn hoặc những ai đang yếu đau hay không? Sự hiện diện của chúng ta có làm cho người khác vui tươi hay không?
2023
Sự nguy hiểm của tiền bạc
30.5 Thứ Ba trong tuần thứ Tám Mùa Quanh Năm
Hc 35:1-12; Tv 50:5-6,7-8,14,23; Mc 10:28-31
Sự nguy hiểm của tiền bạc
Sự nguy hiểm của tiền bạc đã làm cho người thanh niên có tiếng là đạo đức lầm lũi ra đi, vì tiền của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!
Thật là một sự xót xa cho số phận chàng thanh niên giàu có này! Thấy được sự nguy hiểm như vậy, nên tiếp theo đó, Đức Giêsu đã thốt lên với các môn đệ: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”; “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
Nghe đến đây, các môn đệ hiểu được sự nguy hiểm của tiền của, tuy nhiên, nó đã làm cho các ông hoang mang, bởi vì khó như thế thì có lẽ không ai vào được! Vì vậy, Phêrô đã đứng lên thay lời anh em và thưa với Đức Giêsu rằng: “Thế thì ai có thể được cứu?”; “Và chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy thì được gì?”. Để giải thoát cho các ông về sự lo lắng này, Đức Giêsu đã mặc khải cho các ông biết: đối với loài người thì không thể làm được, nhưng đối với Thiên Chúa thì hoàn toàn có thể. Vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải đến từ cố gắng hay phấn đấu thuần túy của con người. Nhân đây, Đức Giêsu cũng nói rõ để các môn đệ nhận ra những ân huệ mà Chúa ban cho những ai trung thành với Ngài, đó là sự sống đời sau.
Chúa Giêsu hứa sẽ trọng thưởng cho những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Phần thưởng cao quý ấy không phải vật chất hay những gì có thể nắm giữ nhưng là được chung phần đau khổ và vinh quang cùng với Chúa. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sức cám dỗ của tiền bạc khiến người ta không thể vào Nước Trời, các môn đệ cảm thấy chạnh lòng vì đã bỏ gia đình vợ con để đi theo Chúa mà không biết cuộc sống tương lai sẽ ra sao, bao nhiêu công sức đổ ra sẽ nhận được gì? Các ông tỏ ra là người biết tính toán lo xa, nhưng các ông chỉ nhìn thấy những điều hữu hạn, còn Chúa Giêsu hướng đến những giá trị thiêng liêng bền vững.
Cái nhìn của loài người luôn khác xa với cái nhìn của Thiên Chúa. Loài người có cái nhìn nhỏ hẹp, còn Thiên Chúa luôn có cái nhìn quảng đại bao dung. Thiên Chúa luôn tạo cho con người nhiều cơ hội tốt, mở ra nhiều lối đi để dẫn đưa họ tới nguồn hạnh phúc đích thực.
Phần thưởng của Thiên Chúa không gì có thể so sánh được. Nhưng để đạt được phần thưởng ấy đòi hỏi các môn đệ phải có thái độ khiêm tốn. Những ai đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và những ai đứng chót sẽ được nâng lên.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng thường bỏ qua những điều chính yếu nhưng lại nắm giữ những cái lặt vặt phụ thuộc. Chúng ta thường tính toán với Chúa khi đi tham dự thánh lễ, khi làm việc lành phúc đức. Chúng ta giữ đạo vì thói quen hơn là vì lòng yêu mến. Chúng ta làm việc từ thiện, phục vụ người nghèo để khoe khoang đánh bóng tên mình hơn là để chia sẻ tình yêu thương.
Trước đó, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ rằng: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao…Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23.25). Điều này để nhấn mạnh thêm rằng “khó” không có nghĩa là “không thể” nhưng có nghĩa là phải cố gắng nhiều, có khi phải trả giá bằng những hy sinh. Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng, Người có thể tạo dựng mọi sự từ hư không. Vì yêu thương nên Người cho chúng ta tự do chọn lựa, Người không ép buộc nhưng ban ân sủng để chúng ta khôn ngoan sáng suốt nhận ra kế hoạch yêu thương của Người.
Có nhiều vật cản khiến chúng ta không vào được Nước Trời. Vật cản đó có thể là thói tham lam muốn có nhiều tiền, thói ươn hèn lười biếng, nhát đảm kém tin không dám trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Vật cản đó có thể là tội lỗi, những đam mê xác thịt kéo ghì chúng ta xuống. Có rất nhiều lý do khiến chúng ta từ chối viên ngọc Nước Trời. Biết bao cám dỗ khiến chúng ta không dám đánh đổi vận mạng của mình để có sự sống đời đời. Chúng ta thường có thái độ “bỏ hình bắt bóng”, tìm kiếm thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn mà quên đi hạnh phúc vững bền.
Có một người đàn ông đi hành đạo. Đường đi phải qua một con sông lớn nhưng ông không có bất kỳ phương tiện nào. Sau một hồi suy nghĩ, ông quyết định đi nhặt các cành cây rồi kết lại thành một chiếc bè đơn giản. Để chiếc bè nổi trên mặt nước, ông dùng hai bàn tay làm mái chèo. Cuối cùng ông cũng qua được bờ bên kia.
Nhưng vừa bước chân lên bờ, ông băn khoăn nhìn chiếc bè và tự hỏi: – Mình đã vất vả mới làm được chiếc bè này, bỏ đi thì tiếc quá, hay là mình kéo chiếc bè theo?
Chiếc bè chỉ là phương tiện giúp người ta qua sông an toàn chứ không phải cái để nắm giữ. Nếu cứ nuối tiếc nắm giữ chiếc bè, người đàn ông trên sẽ không thể tiếp tục hành trình.
Chúa Giêsu cho chúng ta một nguyên tắc căn bản đó là: bỏ nhưng không mất, cho đi là nhận lại, muốn có sự sống thì phải chết đi cho thói tham lam ích kỷ, phải từ bỏ ý riêng của mình để chọn thi hành theo ý Chúa. Trên bước đường theo Chúa, chúng ta phải có thái độ dứt khoát, không ước mơ hão huyền nhưng phải gắn với quyết tâm và việc làm cụ thể. Một khi đã chọn Chúa thì không làm nô lệ cho tiền bạc hay bất cứ vật thể con người nào.
Trong đời sống đức tin, Chúa Giêsu muốn chúng ta trao vận mệnh tương lai của mình để cho Chúa dẫn dắt. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự từ bỏ và vâng phục khi thi hành ý muốn của Chúa Cha. Trong giây phút quyết liệt trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao hiến và đổ đến giọt máu cuối cùng để tác sinh nhân loại trong sự sống mới. Sự vâng phục và trao hiến ấy chạm đến tận cùng bản thể của một Vị Thiên Chúa đầy lòng xót thương để dẫn đưa con người vào nguồn sống đích thực.
Nhiều lần chúng ta cũng tự hỏi như thánh Phêrô: – Tôi theo Chúa, sống đạo để được gì? Trong khi thế gian lừa lọc dối trá, tôi sống nghiêm túc thật thà ngay thẳng, chấp nhận thiệt thòi bất công để được gì? Tôi sống yêu thương bác ái để được gì trong khi những người khác chỉ ích kỷ lo cho bản thân mình.
Thật là một nghịch lý khi chúng ta giữ cặn kẽ các điều luật của Chúa mà lại sống thiếu bác ái với tha nhân. Chúng ta bằng lòng với việc giữ tỉ mỉ các điều luật ngoại trừ luật bác ái. Chúng ta sẵn sàng gân cổ bênh vực công lý nhưng lại bỏ qua những nhu cầu cần thiết của tha nhân.
Cuộc sống xã hội hôm nay còn nhiều người nghèo khổ, nhiều gia đình rơi vào cảnh bế tắc, chúng ta được mời gọi ra khỏi tháp ngà của sự yên ổn và ích kỷ để đến với tha nhân. Thiên Chúa không chỉ ở trong đền đài thành quách, nhưng Người đang bị kỳ thị chống đối nơi những vùng đất chìm trong chiến tranh khủng bố. Thiên Chúa không chỉ hiện diện nơi những đại lộ thẳng tắp tinh tươm sạch sẽ, nhưng Người đang co ro ẩn mình nơi góc phố với những người nghèo không nhà không cửa. Thiên Chúa không ở nơi lễ hội cờ hoa đình đám, nhưng Người âm thầm ẩn giấu nơi những con người khiêm tốn bé nhỏ nghèo hèn.
Ước gì mỗi kitô hữu chúng ta biết đến với Chúa và với tha nhân bằng cả con tim yêu mến, cảm nhận niềm vui sâu xa trong tâm hồn khi thi hành luật Chúa và quảng đại hiến dâng đời mình để phục vụ tha nhân. Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta một phần thưởng cân xứng lớn hơn những gì ta cầu xin. Phần thưởng đó không phải vật chất bên ngoài nhưng là sự gắn kết gần gũi với Thiên Chúa trong niềm vui và nỗi buồn, trong khổ đau và hạnh phúc, trong thập giá và vinh quang.