2023
Người lớn lên còn tôi nhỏ lại
24.6
Sinh Nhật Thánh Gioan
2 Cr 12:1-10; Tv 34:8-9,10-11,12-13; Mt 6:24-34
Người lớn lên còn tôi nhỏ lại
Trong phụng vụ, Giáo hội chỉ mừng kính 3 lễ sinh nhật: Sinh nhật Chúa Giêsu, sinh nhât Đức Maria và sinh nhật của Thánh Gioan tiền hô. Lý do Chúa Giêsu đã nói: “Trong các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa thấy ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy gỉa (Mt 11,11). Chúa còn sánh ví Gioan như ngôn sứ Êlia.
Tuy nhiên, điểm nhấn của phụng vụ hôm nay là Giáo hội muốn chúng ta nhìn vào cuộc hành trình ơn gọi của thánh nhân như một tấm gương. Đó là một con người luôn sống khiêm hạ, ẩn dấu cái bóng bé nhỏ của mình dưới một cái bóng khác lớn hơn. “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Cuộc sống ơn gọi của thánh Gioan là hình mẫu để cho chúng ta noi theo.
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò Ngôn sứ, dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Gioan đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa, vì ngài đã trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sau thời gian sống ẩn dật trong rừng vắng, Gioan đã ra đi và thi hành sứ vụ. Ngài đã trở thành tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi hố sâu phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, đường quanh co phải uốn cho ngay… (Lc 3, 4-6).
Như vậy, Gioan nắm một vai trò trực tiếp có một không hai là dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, khi ông công khai xuất hiện trước toàn dân và làm phép rửa, dân chúng đã tưởng là Đấng Cứu Thế! Lúc đó, nhiều người đã đến để thăm dò, chất vấn xem ông có phải là Đấng Kitô mà bao ngôn sứ đã loan báo, nay xuất hiện hay không? Khi đặt vấn đề ấy với ông, ông hoàn toàn phủ nhận và không những thế, Gioan còn đề cao Đấng Cứu Thế khi nói: “Có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dép cho Ngài” (Lc 3, 16). Ngài cũng nói rõ vai trò của mình là người dọn đường, vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến thì: “Ngài phải lớn lên còn tôi, tôi phải nhỏ đi” (Ga 3, 30).
Khi uy tín của ông lên đến đỉnh điểm, có nhiều môn đệ đi theo, lẽ ra, lúc này, ông phải tự hào và hãnh diện cũng như củng cố uy tín…! Không! Khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông sẵn sàng chỉ về phía Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của mình, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29).
Quả thật, Gioan là một người khiêm tốn. Điều này được chứng minh qua thân thế của ông như sau: sinh ra trong một gia đình có truyền thống Tư Tế, thượng lưu, Gioan có quyền được hưởng một cuộc sống sung túc và trưởng giả. Thế nhưng, cuộc đời của ông lại âm thầm và gắn liền với sa mạc. Thức ăn của ông là châu chấu và uống mật ong rừng. Ông sống nghèo đến độ lấy da thú làm áo che thân. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã ân thưởng cho Gioan xứng với vai trò của ông, nên Ngài đã khen ngợi, công nhận Gioan là người vĩ đại khi nói: “Anh em vào sa mạc để xem gì? Một cây lau phất phơ trước gió ư?… Anh em xem thấy gì? Một vị ngôn sứ? Đúng thế, tôi nói cho anh em biết, trong con cái của người phụ nữ, không ai lớn hơn Gioan” (Lc 7, 28).
Cuối cùng, cuộc đời của Gioan được kết thúc bằng cái chết trong ngục tù. Tuy nhiên, tưởng chừng như âm thầm chốn lao tù tối tăm! Nhưng không, cái chết của ngài đã được muôn đời ca ngợi vì vẻ cao quý hào hùng của bậc vĩ nhân.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người nhớ đến ngày sinh nhật của mình. Ngày đó, cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc mừng vui. Ai cũng cười tươi nhìn trẻ thơ, ai cũng muốn bồng ẵm chúc lành và đặt nhiều hy vọng nơi con trẻ. Rồi mỗi người được cha mẹ đặt tên, được đưa đến Nhà thờ để nhận phép thanh tẩy với một tên Thánh và trở nên con của Thiên Chúa.Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.
Ngày nay, nhiều gia đình có truyền thống kỷ niệm và mừng ngày sinh nhật của các thành viên trong gia đình. Đó là một việc làm thật ý nghĩa và nhiều niềm vui. Bởi vì, đã sinh ra trong đời, dù ở cảnh ngộ nào, ai cũng được Đấng Tạo Hóa ban tặng chức phận quý giá, đó là làm người. Qua mạc khải Kinh thánh và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Như vậy, mỗi người trong nhân loại đều được mời gọi theo một hướng đi nhất định để hoàn tất một định mệnh tươi đẹp và một cuộc sống cao cả.
Đời sống cao đẹp của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu nhìn nhận: “Trong các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan” (Mt 11, 11).
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng. Thời bấy giờ không ai dám đả động đến hành vi loạn luân của vua Hê-rô-đê với người chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê. Chỉ mình Gioan dám đứng lên tố cáo tội lỗi nhà vua cho dù phải lãnh lấy án chết. Gioan anh dũng chấp nhận chết để bảo vệ giềng mối đạo đức cho tôn giáo và xã hội. Đó là cái chết đẹp vô cùng.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy nhớ lại ngày sinh nhật của chúng ta. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất đời. Ngày ấy, cha mẹ, ông bà, cô bác đều mừng vui vì ta được sinh ra đời. Ai cũng muốn nhìn ta, ai cũng mỉm cười với ta, ai cũng muốn bồng ẵm ta… và ai cũng đặt nơi ta một niềm hy vọng: “Trẻ nầy rồi sẽ nên như thế nào?” Cha mẹ và bà con hy vọng ta sẽ có tương lai xán lạn, hy vọng ta sẽ đem lại danh giá cho gia đình và họ hàng. Nhưng mãi cho đến hôm nay, chúng ta đã đáp ứng được niềm hy vọng đó chưa?
2023
Đừng bám víu
23.6 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Một Mùa Quanh Năm
2 Cr 11:18,21-30; Tv 34:2-3,4-5,6-7; Mt 6:19-23
Đừng bám víu
Đừng bám víu vào những gì là ánh hào quang vật chất và những thành công ở trần gian bởi lẽ tất cả chỉ là phù hoa, trôi nổi bềnh bồng như bong bóng xà phòng. Chính Chúa Giêsu có lần nhắc nhở chúng ta đừng làm tôi hai chủ, đừng thờ cúng ngẫu tượng nhưng hãy phục vụ, tin tưởng phó thác vào một Thiên Chúa. Ở trên đời này không có gì là tồn tại vĩnh cửu, mọi sự đều là giả trá, phù hoa. Hãy xem thành quách kiên cố của đền thờ Giêrusalem, thế mà nó không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Chỉ một con sóng thần có thể xóa sổ một thành phố hiện đại ở Nhật Bản. Chỉ một cơn gió lốc, vài ba trăm người ở miền Nam nước Mỹ đã về bên kia thế giới.
Những vua chúa, tướng lãnh một thời vang bóng, khuấy động trời đất, tung hoành ngang dọc rồi cũng sẽ phải xếp kiếm từ giã chốn giang hồ. Những quốc gia hùng cường, bá chủ thế giới rồi cũng sẽ trải qua những thăng trầm, hư vong, suy tàn. Biết bao triều đại, đế chế đã xuất hiện và biến đi như một cuốn phim trường thiên đầy bi đát.
Mọi vật chất đều chịu sự chi phối của quy luật biến đổi. Thời gian không dừng lại, không gian chẳng đứng yên. Từ các hành tinh lớn lao cho đến thảo mộc côn trùng nhỏ bé, ngay cả khoáng vật sỏi đá cũng thay đổi từng ngày. Con người không ai thoát được quy luật biến dịch: sinh, lão, bệnh, tử. Sinh hoạt tinh thần, tâm lý con người cũng luôn thay đổi. Từng giây phút, tâm trạng chúng ta chuyển từ buồn phiền, giận hờn ghen ghét sang yêu thương, từ nhớ nhung sang quên lãng, bội bạc…
Sử gia Will Durant đã cảm nhận sâu sắc về sự đổi thay vô thường trong cuộc sống, ông viết: “Lịch sử nhân loại như một dòng sông đôi khi đầy máu và xác những người chém giết, cướp bóc lẫn nhau…nhưng trên chính dòng sông ấy còn có những người khác cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ…” Cũng trong dòng suy tưởng ấy, nhạc sĩ Phanxico đã lại cất cao lời ca ngợi chỉ có Thiên Chúa là Đấng thường hằng bất biến, sự mọi vật luôn đổi thay, trời đất này cũng sẽ qua đi: “Ngàn, ngàn năm sau khi ruộng dâu đã hóa biển sâu, và sao trên trời đã thành cát biển âm thầm, thì Chúa vẫn còn đó, luôn còn đó kiên vững hai đầu thời gian, năm tháng không hề mờ tan…”
Nói như thế không phải để bi quan, chán nản nhưng luôn phải thăng tiến. Nhìn sự vật để rút ra bài học sống. Người khôn ngoan biết chọn lựa những giá trị của cuộc sống, ý thức trong “hằng” có “chuyển”, trong “chuyển” có “hằng”. Trước những thiên tai, biến cố đã xảy ra trên thế giới, chớ gì chúng ta đọc được dấu chỉ yêu thương, bàn tay uy quyền của Thiên Chúa để mà tin tưởng phó thác, vui sống trọn mỗi phút giây để bất cứ lúc nào, ở đâu chúng ta cũng sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho sống, mới phục sinh những gì là hoang tàn đổ nát. Chỉ có Đức Kitô Phục Sinh mới chiến thắng sự chết, tiêu diệt tội lỗi và mở cửa cho ta vào chốn trường sinh.
Tin mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi chúng ta đang sống trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời cao, nơi tích chứa của cải đích thực. Tin Mừng nhắc đến hai tư tưởng: một mời gọi con người hướng về trời, một mời nói lên vai trò của mắt, không phải mắt thân xác, nhưng là mắt tinh thần, mắt đức tin hướng dẫn cuộc sống con người.
Suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể nhận ra được liên hệ giữa hai tư tưởng này. Sự tăm tối tinh thần là điều đáng sợ hơn cả, vì không nhận thấy đâu là điều phúc thật của con người. Do mù quáng tinh thần và chỉ nhận của cải, danh vọng, quyền bính là phúc thật, con người sẽ tìm cách có được những thứ ấy càng nhiều càng tốt. “Kho tàmg của con ở đâu, thì lòng con ở đó”.
Ðó là định luật tâm lý tự nhiên của con người. Nếu tôi chỉ nhìn thấy lý tưởng của mình trong việc thu tích của cải, danh vọng, quyền thế, thì làm sao tôi có thể hướng nhìn trời cao và số phận đời đời của con người.
Trong một xã hội phát triển không ngừng, ai ai cũng ra sức làm việc để có được nhiều của cải vật chất. Đó là điều tốt, nhưng không phải là tất cả, và không là cùng đích của cuộc đời này. Bởi vì, khi ra đi về với cát bụi thì ai cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Thánh vịnh 102 đã dạy:
“Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình” (Tv 102, 15-16)
Những của cải, những kho tàng ở dưới đất này chỉ là phương tiện để chúng ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27). Và trong Tin Mừng hôm nay, lời mời gọi của Chúa còn cụ thể và sâu sắc hơn nữa. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6, 19-21).
Hạnh phúc thay người có Chúa làm gia nghiệp. Kho tàng đời đời được tích trữ không phải nhờ thu vén, gom góp thật nhiều cho riêng mình, mà là cho đi. Cho đi với lòng quảng đại, với trái tim yêu thương. Một nụ cười, một lời động viên, một việc bác ái nho nhỏ nhưng tràn đầy tình thương mến là những viên gạch nhỏ để xây dựng kho tàng Nước Trời.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy chiếu sáng tâm hồn mình bằng chính Lời Chúa, để từ đó, chúng ta có thể đem ánh sáng của Chúa đến với tất cả mọi người.
2023
Khuôn vàng thước ngọc
22.6 Thứ Năm trong tuần thứ Mười Một Mùa Quanh Năm
2 Cr 11:1-11; Tv 111:1-2,3-4,7-8; Mt 6:7-15
Khuôn vàng thước ngọc
Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng Kinh Lạy Cha. Một ngày sống chúng ta có nhiều dịp để đọc lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ cầu nguyện. Chúng ta đọc trong thánh lễ, trước mỗi bữa ăn, khi khấn nguyện cho bản thân hay cho những công việc chung. Thậm chí các bà mẹ còn dạy các em nhỏ khi bập bẹ biết nói lời kinh này. Nhiều em bé đọc lời kinh với thái độ hồn nhiên, thật đẹp.
Tuy nhiên từ lời đọc thuộc lòng đến thực hiện lời kinh ấy quả không dễ dàng. Khi các Tông đồ không biết phải cầu nguyện thế nào. Chúa Giêsu đã dựa vào kinh nghiệm của Ngài kết hợp với Thiên Chúa Cha mà Phúc âm vẫn thường ghi lại, sáng sớm tinh sương hay chiều tối. Chúa Giêsu thường lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện.
Các nhà tu đức cho rằng “Bước vào đời sống cầu nguyện là bước vào cuộc chiến đấu”. Có người cầu nguyện thật nhiều. Nhưng vẫn cảm thấy trống rỗng như Chúa chẳng nghe lời, rồi chán nản, bỏ cầu nguyện, thậm chí bỏ nhà thờ, vẫn nghĩ rằng cầu nguyện như một dịch vụ “xin cho”. Được thì tin, không thì thôi.
Trước khi dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã mượn lời tác giả sách Huấn ca (Hc 7,14) để nhắc cho các ông những điều hết sức ý nghĩa: “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin” (Mt 6, 7-8). Như vậy, Ngài nhắc cho các môn đệ và cũng nhắc cho mỗi người chúng ta nên nhớ rằng, mỗi người nên biết mình sẽ phải làm gì trong khi cầu nguyện. Lời cầu nguyện sẽ được Chúa đoái nghe không hệ tại ở việc nói nhiều hay ít, lâu hay mau; mà quan trọng là chúng ta cầu nguyện cái gì và như thế nào (thánh Têrêxa Avila). Hiểu được thế, chúng ta sẽ nhận thấy Kinh Lạy Cha tuy súc tích nhưng thật ý nghĩa biết bao.
Trước hết, Kinh Lạy Cha nhắc nhở chúng ta hãy sống với Chúa bằng tình con thảo, nghĩa là Thiên Chúa muốn chúng ta yêu mến Ngài như tâm tình của một người con, chứ không phải khiếp sợ như một kẻ nô lệ và hãy thể hiện lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa bằng việc mau mắn thực thi ý Ngài. Để hiểu được điều này, chúng ta nên lần giở lại bối cảnh thời bấy giờ. Dân ngoại thời đó sống trong một thế giới đầy thần linh. Hơn nữa, giữa các thần luôn có sự ghen tương, thù oán. Người ta luôn phải tìm mọi cách để chiều lòng các vị thần của mình. Nhưng vì chẳng bao giờ biết mình có bỏ sót hoặc quên tôn vinh vị thần nào đó hay không, kết quả là họ luôn sống trong sự lo lắng và khiếp sợ. Còn ở đây, Chúa Giêsu giới thiệu một Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Điều này sẽ giúp giải quyết mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa, không giống như nơi dân ngoại. Đó không phải là loại bỏ sức mạnh, quyền năng và sự oai nghiêm của Chúa nhưng là khiến chúng ta được đến gần hơn với Chúa, gần hơn với các thuộc tính chỉ có nơi Người.
Kế đến, Kinh Lạy Cha nhắc nhớ chúng ta hãy sống phó thác và cậy trông vào Thiên Chúa, là Cha chúng ta, đừng như dân ngoại lải nhải nhiều lời mà thiếu lòng tin. Biết bao lời dạy, đặc biệt, rất nhiều dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã dùng đều nhằm mời gọi chúng ta tin vào tình thương của Thiên Chúa. Chẳng hạn, dụ ngôn “Hoa huệ ngoài đồng”, chúng không canh cửi, cũng chẳng dệt khâu, vậy mà ngay cả vinh hoa của vua Salômôn cũng không thể sánh tày một bông hoa đó. Hay như dụ ngôn “Chim sẻ ngoài đồng”, chúng không gieo vãi, cũng chẳng gặt hái, vậy mà Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng. Chúng ta còn đáng giá hơn muôn ngàn bông huệ và chim trời.
Như vậy, đức tin giúp chúng ta thêm xác tín vào một Thiên Chúa luôn quan phòng và hết mực yêu thương. Chúa Cha yêu thương chúng ta vô ngần, như lời thánh Phaolô đã nói: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban người còn con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8, 32). Chẳng ai nhìn lên Thập giá mà còn có thể nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa là Cha của mình được nữa.
Cuối cùng, Kinh Lạy Cha nhắc nhớ rằng, nếu Thiên Chúa là Cha chúng ta, thì tất cả mọi người đều là anh em với nhau. Không thể thưa với Thiên Chúa “Lạy Cha chúng con”, mà lại không nhìn nhận mọi người là anh em hoặc đối xử với nhau như những người xa lạ. Chúng ta không thể đón nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa nếu không sẵn sàng tha thứ cho nhau. “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” trở thành một trong những ý tưởng gần gũi nhất nhưng lại khó thực hiện nhất. Chúng ta mong Chúa tha thứ nhưng chính chúng ta lại chưa mở lòng đón nhận anh em, chưa hàn gắn những mối bất hòa, chưa giải quyết các cuộc xung đột, chưa dàn xếp ổn thỏa các cuộc tranh chấp… thì làm sao Chúa có thể chiều lòng chúng ta được.
Tin Mừng Chúa Giêsu đã nói rõ : “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, (Mt 6, 7-9).
Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu để lại là một mạc khải về Chúa Cha. Thiên Chúa của chúng ta không là Thiên Chúa xa vời hay nghiêm nghị, nhưng là Thiên Chúa gần gũi, thân mật đến độ chúng ta có thể gọi Ngài là Cha với tất cả trìu mến như một em bé gọi cha mình.
Tỏ lộ cho cho chúng ta một Thiên Chúa như người cha yêu thương, Chúa Giêsu cũng tỏ lộ chính chúng ta là ai. Phẩm giá của con người chính là được làm con Thiên Chúa, và bởi vì là con của cùng một cha, nên chúng ta là anh em với nhau. Tình Cha con (chiều dọc) và tình em (chiều ngang) được Chúa Giêsu mạc khải cách hài hòa qua kinh lạy Cha.
Đặc biệt trong mối tương quan chiều ngang đối với anh em. Chúa Giêsu đã đặc biệt nhấn mạnh trong lời kinh: “xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Mt 6, 12).
Khi chúng ta có lỗi với Chúa. Chúng ta thường đến với Bí tích Hòa Giải để xin ơn tha thứ. Thế nhưng, khi chúng ta có lỗi với anh em, hay anh em xúc phạm đến mình, chúng ta khó có thể tha thứ. Cũng chính vì thế mã xã hội hôm nay hận thù gia tăng, đưa đến tình trạng trả thù, giết người. Trong gia đình, vợ chồng không thể tha thứ cho nhau đưa đến tình trạng đổ vỡ, ly thân ly dị. Anh chị em ruột không thể tha thứ cho nhau, coi nhau như người dưng nước lã.
Do vậy, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Ngài không tha cho những ai không biết tha thứ : “Sao ngươi chẳng bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?”. Bởi thế, tha thứ không còn là hành vi tự nguyện, mà là điều kiện bắt buộc. Đó cũng làm phẩm tính của Kitô hữu con một Cha trên trời.
2023
Các việc đạo đức
21.6 Thánh Aloysius Gonzaga, Tu Sĩ
2 Cr 9:6-11; Tv 112:1-2,3-4,9; Mt 6:1-6,16-18
Các việc đạo đức
Thánh Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Aloysius là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Aloysius đã được tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống tâm linh Aloysius thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng với người em, Aloysius theo cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Aloysius càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Aloysius đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Aloysius phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Aloysius đã chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã buộc Aloysius phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Aloysius tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém, Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn, Aloysius đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Ðời sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
Cầu nguyện, ăn chay, bố thí là ba hình thức mà tín đồ nhiệt tâm, đạo đức của các tôn giáo thường làm. Đó là những việc thiện mà con người càng thành kính thi hành bao nhiêu thì càng đạt đến sự trưởng thành nhân bản bấy nhiêu. Tuy nhiên, những việc thiện tốt lành ấy lại bị con người lạm dụng cách không thương tiếc và nhiều khi lại gây ra nhưng hậu quả khó lường.
Quả thế, trong ba việc thiện ấy thì cầu nguyện là việc dễ làm nhất. Ai cũng có thể cầu nguyện, cầu nguyện thường xuyên và nhiều lần, nhưng có mấy ai biết cầu nguyện đúng cách. Và đúng như từ ngữ người ta thường dùng ‘cầu xin’ – Người ta đồng hóa việc cầu nguyện với việc ‘cầu cạnh, xin xỏ’ – vô hình chung người ta biến Thiên Chúa thành một ‘vị thần đèn’ để xin cái này cái kia, mà không biết rằng cầu nguyện chính là thiết lập mối tương giao thân thân mật với Thiên Chúa là cha yêu thương vô cùng, và điều quan trọng là tìm kiếm và thi hành ý Cha. Chính vì tương quan thân mật và rất riêng tư ấy mà Chúa Giêsu dạy: Khi cầu nguyện “hãy vào phòng đóng cửa lại, cầu nguyện với Đấng hiện diện ở nơi kín đáo…” (x.c.6 )
Có những người tham gia những giờ cầu nguyện chỉ là để phô trương cho người ta thấy, biết mình đạo đức; cũng có những người tham gia cầu nguyện như một hình thức để tụ tập giao lưu, và lắm khi những cuộc gặp gỡ như thế lại phát sinh những vấn đề tiêu cực như nói hành, nói xấu, bình phẩm không tốt về người khác; cũng có những nơi thì việc đọc kinh cầu nguyện trong khu xóm là dịp để các ông lai rai nhậu nhẹt … Đó là những điểm tiêu cực tồn đọng mà mỗi Ki-tô hữu chúng ta cần xét lại để hoán cải và canh tân như lời cảnh tỉnh và mời gọi của Đức Giê-su trong Tin mừng hôm nay, đồng thời sống tinh thần cầu nguyện đích thực như Người dạy hầu trở nên con thảo của Cha trên trời.
Thứ đến là ăn chay. Chay tịnh là một việc đạo đức tốt lành giúp con người kềm hãm xác thịt, làm chủ bản thân. Đối với người Ki-tô hữu ngày nay, luật Hội Thánh chỉ buộc một năm ăn chay hai ngày đầu và cuối mùa chay: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh – ngày Chúa Giêsu chịu chết. Tuy thế, ngày nay, trong cuộc sống luôn gia tăng các nhu cầu hưởng thụ thì đối với không ít người, việc chay tịnh là rất khó khăn. Và ở nhiều nơi, nhiều người còn giữ tục lệ ‘ba béo’ – trước thư tư lễ tro và ‘năm béo’ trước thứ sáu tuần thánh, nghĩa là người ta sẽ ăn ngon, ăn thỏa thuê trước ngày ăn chay – người ta tìm cách ăn bù trước hoặc sau ngày chay. Lại có những người giữ luật kiêng thịt bằng cách ăn hải sản đắt tiền.
Vì vậy để trở về với Tin mừng, Giáo hội luôn mời gọi con cái mình giữ chay tịnh bằng cả tinh thần; sự chay tịnh phải hết sức tự nguyện và được thực hiện trong vui tươi; không những chay tịnh bằng việc kiêng ăn uống mà còn phải chay tịnh trong cả cách nghĩ, cách nói và thực hiện những nghĩa cử yêu thương; ăn chay không phải là để dành tiền để bữa khác ăn bù, nhưng là để chia sẻ với những người nghèo đói và kém may mắn hơn mình.
Về việc bố thí. Trong một xã hội thực dụng ‘hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’ hoặc ‘thả con tép, bắt con tôm’ thì việc bố thí, chia cơm sẻ áo cho tha nhân lại càng hiếm hoi. Hoặc người ta bố thí theo hình thức ‘khua chiêng đánh trống’ để tìm danh lợi, lấy tiếng khen. Cũng có khi người ta bố thí chỉ là để thải ra những đồ thừa, hết hạn sử dụng, không thể sử dụng hoặc đem lại lợi nhuận cho họ – những việc bố thí như thế thường hạ thấp hơn là nâng cao nhân phẩm con người. Lại có những hình thức làm việc từ thiện để che lấp tội ác của mình như buôn thuốc phiện, buôn lậu, buôn người…. Chúa Giêsu dạy “khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm để việc bố thí được kín đáo” (c. 3) cho thấy Thiên Chúa muốn việc từ thiện, tương thân tương ái phải phát xuất từ trái tim chân thành biết yêu thương, rung cảm trước sự bất hạnh, nỗi đau của tha nhân. Vì vậy việc bố thí là để phục vụ, nâng cao nhân phẩm con người, giúp con người sống tốt hơn, hạnh phúc hơn chứ không thể trở thành hình thức khỏa lấp lương tâm hay mưu tìm danh lợi cho mình.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành. Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.