2023
Hãy Rước Mẹ Về Nhà Mình
Lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Hãy Rước Mẹ Về Nhà Mình
Is 7, 10-17; Kh 12, 1-6.10; Ga 19, 25-27
Trở về với những trang sách Sáng Thế, chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng.
Phải nói rằng cảnh thiên đàng đã đẹp cộng thêm hình ảnh đẹp của Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ quả là tuyệt vời. Thiên Chúa cho hai ông bà thừa hưởng công trình sáng tạo của Thiên Chúa thế nhưng mà hai ông bà đặc biệt là bà đã không cảm nhận được ân sủng từ Thiên Chúa để rồi bà giơ tay hái trái cấm từ lời ngon ngọt của con rắn.
E-và đã phạm tội ! Thiên Chúa giận thì giận nhưng vẫn thương con người. Thiên Chúa đã hứa cho một người phụ nữ khác thay thế E-và bất tuân.
Lời hứa cứu độ đã đến với con người, đã đến với nhân loại sau một thời gian dài. Tưởng chừng như Thiên Chúa lãng quên nhưng không, Ngài đã thực thi lời hứa đó. Người nữ sửa cái sai của E-và đó chính là Trinh Nữ Maria. Hai chữ E-va Mẹ đảo vần. Eva bất tuân còn Mẹ thì xin vâng : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Mặc dầu chưa hiểu hết ý định và chương trình của Thiên Chúa, nhưng vì tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Maria đã thưa lời “Xin vâng” và đón nhận tất cả, đón lấy ý Chúa làm ý mình để chương trình tình yêu của Thiên Chúa được hoàn tất.
Với lời “Xin vâng” của thôn nữ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người, mở đầu công cuộc cứu rỗi trần gian. Thôn nữ Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế qua thái độ khiêm nhường khi lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của mình. Lời “Xin vâng” của Mẹ là cửa ngõ dẫn vào ơn cứu độ. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật.” Mẹ “Xin vâng” là Mẹ đón nhận công việc mở cửa cho ơn cứu độ tuôn tràn đến với nhân loại.
Nhờ lời “Xin vâng” của Mẹ Maria, Đức Giêsu đã đến trần gian, khai mở cho nhân loại một thời đại mới, thời đại của tình yêu cứu độ. Đức Giêsu đã đến phá tan bức màn đêm tăm tối, mở ra một bầu trời hy vọng cho nhân loại. Nhờ lời Mẹ xin vâng, lịch sử nhân loại bước sang trang mới, mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên hồng ân cứu độ.
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt hảo về sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Bằng niềm tin và sự vâng phục, Mẹ đã tự do cộng tác vào công trình cứu độ. Từ lúc nhận lời Sứ thần truyền tin với lời “Xin vâng” đầu tiên, Mẹ đã sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong suốt cuộc đời. Qua từng biến cố, Mẹ đã liên tục thưa những tiếng “Xin vâng”, để cùng với Chúa Giêsu tiến bước trong hành trình đức tin với lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha, để cuối cùng là lời “Xin vâng” hiệp nhất với Chúa Giêsu trên thập giá hoàn tất ý định của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin vâng” của Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.”
Với lời “Xin vâng”, Mẹ Maria quả thực đã trở thành người đầu tiên trong nhân loại nói lên sự vâng phục trọn vẹn đối với Thiên Chúa. Trong khi thế trần vui mừng vì hy vọng được tha thứ nhờ lời “Xin vâng” của Mẹ, thì Mẹ Maria lại nghĩ đến những đòi hỏi gắt gao của lời xin vâng đó. Mẹ biết lời xin vâng ấy sẽ dẫn đưa Mẹ trên con đường hy sinh, nhưng vì yêu nhân loại và khát khao làm vimh danh Thiên Chúa, Mẹ đã đón nhận tất cả để chương trình cứu độ được nên hoàn trọn.
Hình ảnh, con người xin vâng của Mẹ Maria quá tuyệt vời. Mẹ đã sửa sai cho người nữ đầu tiên trên trái đất này. Mẹ đã làm cho cục diện cứu độ được thay đổi, Mẹ đã làm cho những gì hư mất nay được phục hồi. Chính nhờ lời xin vâng tuyệt hảo mà Thiên Chúa cứ mãi chở che Mẹ, ấp ủ Mẹ.
Hình ảnh người phụ nữ trong sách Khải Huyền cũng chính là hình ảnh của Mẹ Maria. Đối diện với thế lực của quỷ dữ nhưng Mẹ được chở che vì Mẹ đã ôm trọn, Mẹ đã cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ đã được đưa ngay lên tòa của Thiên Chúa trước những thế lực quỷ dữ canh chừng ăn tươi nuốt sống Mẹ.
Và, hình ảnh hết sức đẹp mà chúng ta thấy trong trang Tin Mừng rất ngắn của Thánh Gioan. Mẹ Maria, đứng dưới chân thập giá, chỉ còn mình Mẹ và người môn đệ Chúa yêu, Mẹ cũng đã ôm trọn Gioan vào lòng để chở che Gioan trong nỗi cô đơn, trong nỗi cay đắng tột cùng của Chúa Giêsu. Mọi người bỏ đi hết, mọi người tháo chạy hết và chỉ còn mình Mẹ can trường dưới chân cây thập giá.
Mẹ là như thế ! Mãi mãi Mẹ vẫn như vậy trong suốt cả cuộc đời. Mẹ ôm con khi sinh con nơi hang đá Bê lem, Mẹ ôm con trốn sang Ai Cập, Mẹ ôm con dâng mình cho Chúa và Mẹ cũng ôm con Mẹ trên đỉnh đồi Gôn gô tha. Và, Mẹ đã ôm Gioan đại diện cho nhân loại vào trong lòng Mẹ để Mẹ chở che.
Bản tính Mẹ là như vậy, bản chất Mẹ là như vậy.
Mẹ yêu thương, che chở con người để rồi trong thế giới “Thánh tượng” (icon), tranh icon được biết đến nhiều nhất là bức “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” (Our Lady of Perpetual Help) – được vẽ vào khoảng thế kỷ 13 có nguồn gốc từ Hy Lạp theo truyền thống Byzantium – mà nguyên bản, từ năm 1866 đến nay, được đặt tại nhà thờ Thánh An Phong (Alfonso) ở Rôma, Ý.
Sự nổi tiếng này có nhiều nguyên do, mà trước hết là bởi niềm tin của giáo dân về sự linh thiêng của “Thánh tượng” (có vô số truyền thuyết về “quyền năng Thiên Chúa” thể hiện qua “Thánh tượng” này được lan truyền khắp nơi…).
Tiếp theo, phải kể đến sự kiện các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã chọn “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” làm bổn mạng cho sứ vụ chính của Hội Dòng, và nhận sự uỷ thác của Đức Giáo Hoàng Pi-ô IX phải truyền bá hình ảnh “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” cho toàn thế giới – kể từ năm 1866.
Đức Mẹ tuy bồng ẵm Chúa Giêsu trong lúc con mình sợ hãi, nhưng lại không hướng ánh mắt về con mình, mà về phía người đối diện ngắm nhìn bức ảnh. Điều đó như Đức Mẹ muốn nhắn gửi sứ điệp:
“Là người Mẹ, tôi biết con tôi đang tìm sự an ủi chở che, nên ngồi sát nép vào lòng tôi tìm sự an ủi giúp đỡ để con tôi làm trọn hảo ý Thiên Chúa muốn. Và tôi chấp nhận vâng theo ý Thiên Chúa bằng lòng để con tôi hy sinh cho công cuộc cứu rỗi loài người khỏi vòng tội lỗi. Tôi đã nói lời xin vâng theo ý Thiên Chúa ngay từ giây phút Thiên Thần đến truyền tin cho tôi. Điều này tôi không bao giờ rút lại.
Như Chúa Giêsu, con tôi, nép sát mình bên tôi khi sợ hãi lúng túng nhìn thấy cây thập giá, con người các bạn trong cơn khốn khó đau khổ, cũng được phép chạy đến tìm sự an ủi giúp đỡ nơi tôi.
Tôi là người mẹ luôn sẵn sàng phù hộ giúp đỡ cho những người cần đến kêu cầu tôi.
Và trong dòng thời gian do lòng kính mến cùng biết ơn, người ta ca tụng tặng tôi danh hiệu: Đức Bà phù hộ các giáo hữu! Đức Bà an ủi kẻ âu lo!
Tôi vui mừng được làm công việc của một người mẹ bây giờ ở trên trời chuyển lời cầu xin của người tín hữu tới nhan Thiên Chúa, Đấng là kho tàng mọi ân đức phúc lộc cho con người.”
Và đó đây trong kinh cầu Đức mẹ hằng cứu giúp, người tín hữu Chúa Kitô hát kêu xin: “Con xin dâng lên gia đình con cái, trong tay khoan nhân của Mẹ Chúa trời! Xin Mẹ thương hãy giúp đỡ con!”
Hôm nay, mừng kính Mẹ Hằng Cứu Giúp, một lần nữa, chúng ta chân nhận, chúng ta xác tín rằng Mẹ luôn luôn che chở, Mẹ luôn phù trì chúng ta : Mẹ nguồn cậy trông chưa thấy ai xin Mẹ về không, hỡi Mẹ Thiên Chúa, xin hãy lắng nghe con nài van. Mẹ nguồn an vui, ôi Nữ Trinh là nguồn an vui, hết tình kêu khấn con tin chắc Mẹ luôn nhận lời.
Chuyện quan trọng và hết sức quan trọng là chúng ta có bắt chước như Gioan là mang Mẹ về nhà của mình hay không ? chúng ta mang mẹ nào đó về nhà để rồi chúng ta cứ mãi hoang mang, mãi mất lòng tin.
Cuộc đời này có quá nhiều lắng lo để rồi chúng ta hoang mang, chúng ta mất lòng tin.
Cứ bắt chước như Gioan, hãy rước Mẹ về nhà mình để rồi gia đình chúng ta luôn được bình an dưới sự chở che của Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Lm. Anmai, C.Ss.R.
2023
Tỏa chiếu ánh Tin Mừng như Thánh Irênê
28.6 Thánh Irenaeus, Gmtđ
St 15:1-12,17-18; Tv 105:1-2,3-4,6-7,8-9; Mt 7:15-20
Tỏa chiếu ánh Tin Mừng như Thánh Irênê
Thánh Irênê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
– “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn khởi ghi thêm:
– “Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng”.
Như vậy, thánh Irênê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irênê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irênê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irênê cho Giáo hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngoại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng cố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irênê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irênê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội. Thánh Irênê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những kẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo hội thật:
– “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống …. Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản”.
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đáng được gọi là “Ánh sáng bên trời Tây”.
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
Thánh Irênê đã dùng tài năng và trí thông minh Chúa ban để bảo vệ đức tin. Noi gương Thánh nhân, chúng ta hãy xin Chúa ban ơn để mỗi chúng ta cũng biết tận dụng khả năng Chúa ban cách riêng cho mỗi người để làm sáng danh Chúa.
Xưa nay chưa hề có chuyện lạ lùng này là “bụi gai có thể sinh ra trái nho”, hay “bụi găng có thể sinh ra trái vả”. Nhưng, ấy là chuyện của loài thực vật. Còn con người, thật khó mà thấu hiểu lòng dạ bên trong thế nào, có chăng, cũng chỉ nhìn thấy cái vẻ bên ngoài mà thôi. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta “Hãy coi chừng các tiên tri giả”. Chúa lên án cách sống giả hình của những người không yêu mến Chúa, không sống Lời Chúa dạy, và chỉ mượn Chúa, mượn Tin Mừng để đánh bóng mình. Họ đang dối Chúa, lừa mọi người.
Quả thực, đôi khi, chúng ta nhìn thấy cái vẻ ngoài của một người xấu xí, không sạch sẽ thơm tho, mà chúng ta xem thường họ là hèn kém. Và thông thường, nhìn ai sạch sẽ, xinh đẹp, sang trọng hay ra vẻ đạo mạo thì ta lại quý chuộng, kính nể và có khi còn cho là đàng hoàng đạo đức. Đôi mắt phàm của chúng ta luôn nhầm lẫn.
Nhưng trong mắt Chúa thì không. Bởi vì chỉ có Chúa mới thấu suốt lòng dạ con người. Chúa Giêsu nói: “Hãy xem trái thì biết cây. Cây tốt thì sinh trái tốt”. “Trái tốt” ở đây không phải cái vẻ bề ngoài có thể đánh lừa chúng ta đâu, nhưng là một cuộc sống tỏa chiếu ánh Tin Mừng. Bởi, nếu Tin mừng là sức sống cho cây cuộc đời chúng ta, thì hoa trái cuộc sống của chúng ta sẽ chan hòa tình yêu thương chân thành, như Chúa Giêsu đã sống yêu. Chúa muốn các gia đình chúng ta luôn lắng nghe và sống Lời Chúa Giêsu dạy, để Lời Chúa Giêsu thấm nhuần từ trong cõi lòng, và thể hiện ra trong từng lời nói, cử chỉ hành động, cách ứng xử với nhau, với người, với đời.
2023
Hãy qua cửa hẹp
27.6 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
St 13:2,5-18; Tv 15:2-3,3-4,5; Mt 7:6,12-14
Hãy qua cửa hẹp
Sống ở đời, thông thường hầu như ai cũng thích đi con đường rộng rãi thênh thang. Chẳng mấy ai mà chọn đi con đường hẹp với những cản trở khó khăn. Thế nhưng, con đường dễ dãi, buông thả, thoải mái thường là con đường dẫn đến thất bại và hư mất. Bởi vì sự thành công thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài vượt qua những khó khăn thử thách. Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý: “Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”. Có lẽ trải qua từ kinh nghiệm bản thân, Washington đã nhận định một cách rất sâu sắc và xác thực về “chân lý” này trong cuộc sống.
Thiên Chúa đến với con người qua khung cửa hẹp. Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người hiến thân chịu chết khổ đau trên thập giá vì loài người và để cứu rỗi muôn người. Thiên Chúa chọn con đường hẹp để mở lối vào khung trời bao la của tình thương. Tình thương cao cả cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Sau cửa hẹp là tình thương rộng lớn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Con người đến với Thiên Chúa cũng phải qua khung cửa hẹp. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Chúa Giêsu hạ mình xuống và bé nhỏ đi. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân mình quá cồng kềnh với những thứ danh vọng chức quyền tiền bạc. Chấp nhận thanh tẩy cần thiết, trút bỏ vướng víu để nhẹ nhàng qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời. Sau khung cửa hẹp là tình thương đẹp ngời Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.
Cửa Nước Trời không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh. Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính thần thiêng. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật.Vào cửa hẹp phải đi qua một mình, từng người một. Bước qua cửa hẹp là giữ và sống lời Chúa Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Cửa hẹp để qua phải hy sinh, vất vả. Đứng trước cửa hẹp, ai lại không ngần ngại, ai dám khẳng định con đường cứu độ thật dễ dàng, ai dám tự hào về thành công bản thân?
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Lối vào dẫn tới nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
“Cửa” dẫn đến hạnh phúc thì “hẹp” vì để đi tới đó chỉ có một Con Đường là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất (Cv 4,12) và vì con đường Chúa đã đi qua để cứu độ nhân loại chính là con đường thập giá. Đi con đường thập giá với Chúa Kitô chắc chắn không phải là một cuộc dạo chơi, mà là một cuộc chiến đấu, cuộc chiến đến giọt máu cuối cùng.
Đường vào Nước Trời không rộng thênh thang để người ta tha hồ thoả mãn những đam mê tội lỗi. Trái lại đó là cả một cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại cái tôi kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam. Để đạt chiến thắng cuối cùng trong ngày cánh chung, phải chiến đấu từ bây giờ trong cuộc sống hiện sinh này.
Trong đời sống đức tin cũng vậy, lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy qua cửa hẹp mà vào” được ví như cuộc chiến đấu cam go và quyết liệt với những nỗ lực liên lỉ và hy sinh cố gắng từng ngày.
Vì thế, Thánh Phaolô đã ví cuộc hành trình của chúng ta với một cuộc chạy đua, muốn đạt được huy chương, hẳn người lực sĩ nào cũng phải dày công luyện tập. Khi chúng ta tuân giữ luật Chúa và sống theo lời Chúa dạy thì cũng giống như việc chúng ta nép mình qua cánh cửa hẹp đó.
Khi chúng ta phải cố gắng làm cho người khác điều mà chúng ta muốn người ta làm cho mình thì đó là chúng ta đi vào con đường hẹp. Việc sống theo đòi hỏi của những giá trị Tin Mừng rất khắt khe và thường trái với những giá trị của trần thế. Cho nên, chúng ta cần có sức mạnh của ân sủng và tình yêu Chúa ban qua Lời Chúa và các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Đó là những “của thánh”, những viên ngọc quý mà chúng ta cần phải đón nhận với tất cả tấm lòng yêu mến và quý trọng.
Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. “Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong”. Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: “Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát”. Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.
2023
Đừng xét đoán
26.6 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
St 12:1-9; Tv 33:12-13,18-19,20,22; Mt 7:1-5
Đừng xét đoán
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: anh em không được xét đoán lên án kẻ khác, vì việc đó thuộc quyền của Thiên Chúa. Anh em xét đoán kẻ khác thế nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Sao anh em thấy cọng rác nhỏ trong con mắt kẻ khác, còn cái xà trong mắt anh em, mà anh em không thấy, nghĩa là lỗi lầm nhỏ mọn của người khác thì anh em thấy rõ rồi phê bình lên án đủ thứ, còn tội nặng nề của anh em, anh em lại không chịu thấy, không chịu nhận, không lo sửa chữa. Hãy lo từ bỏ sửa chữa tội lỗi của anh em trước đã rồi anh em mới giúp được kẻ khác chừa bỏ lỗi lầm của họ.
Xénophon, nhà hiền triết Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN đã nói như sau: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị: một cái đằng trước, một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả những cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là dễ dàng kết án người khác, nhưng lại tỏ ra dễ dãi với mình. Chúa Giêsu đến để chỉnh đốn khuynh hướng lệch lạc ấy. Ngài mời con người hoán cải, nghĩa là quay trở lại với mình, nhìn thẳng vào thực chất của mình, để từ những yếu đuối, bất toàn của mình để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho người khác hơn. Đó là nội dung những lời khuyên của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vạch rõ tính cách của nhiều người trong chúng ta thường thì không thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại soi mói dò xét cái lỗi của người khác mà lắm khi cái lỗi của chúng ta còn lớn gấp trăm lần cái lỗi của tha nhân.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?” Cái lỗi nhỏ như cái rác của tha nhân thì mình dễ nhìn thấy, nhưng cái lỗi lớn như xà nhà của mình thì lại không thấy. Chúng ta dễ dàng kết án cái lỗi nhỏ nhặt của tha nhân, nhưng lại không ý thức về những tội tày đình của bản thân…
Con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Giakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải, Mađalêna đã dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Vì anh em xét đoán thế nào thì…cũng sẽ bị xét đoán như vậy….Đong đấu nào…sẽ được đong bằng đấu ấy” (c.2). Ngài khẳng định về cách đối xử của chúng ta với anh em đồng loại sẽ được trả lời trong ngày sau hết, tại có khi sẽ xảy ra ngay tại đời này. Vì sự “đạo đức nửa vời” của chúng ta mà chúng ta tự lên mặt dạy dỗ người khác.
Đây là thái độ tự mãn, tự cao, tự đại. Nó đối nghịch với nhân đức, hiền lành, khiêm nhường. Nhịn nhục. Chúa Giêsu đề cao cảnh giác về chuyện này. Ngài không cấm chúng ta có những nhận xét khách quan, những nhận xét phân biệt phải trái, sai quấy. Nhưng khi chúng ta kết tội và lên án lương tâm người anh em, là chúng ta xâm phạm lãnh vực dành riêng cho Thiên Chúa.
Trong đời sống cộng đồng, điều này dễ xảy ra khi chúng ta có một chút gì hơn anh chị em mình: chức tước trong giáo xứ, danh dự trong khu xóm… lúc ấy chúng ta dễ dàng lên “bài giảng” với những bài “đạo đức nửa mùa” theo chủ quan của chúng ta. Chúng ta tự coi mình là “cái rốn vũ trụ” và cho rằng và mọi lời nói và việc làm của chúng ta là hợp lý. Là phải đạo.
Trong (c.3 và c. 4) Chúa Giêsu nhắc chúng ta về thận phận của chính mình tại sao chúng ta quá chú tâm đến “ cọng rơm trong mắt của người anh em mà quên đi mình đang vác một cái xà”. Cái xà ấy đã che phủ con mắt đức tin của chúng ta, và chúng ta chỉ còn soi mói cái xấu của người anh em mà không biết là: người khi lên án, xét đoán người khác là chính chúng ta đang tự lên án, kết tội mình. Ở đây, Chúa Giêsu nhắc chúng ta phải dè dặt khi xét đoán người khác. Hãy nhớ lại thân phận bụi tro của mình cũng dầy những khuyết điểm tội lỗi… mà bao dung tha thứ những lỗi lầm của người anh em. Có thế, chúng ta mới đấm ngực ăn năn thú nhận và không lên mặt hợm hĩnh khi góp ý xây dựng người anh em, không coi thường, khinh khi người khác mà biết đón nhận nhau trong đức ái.
Trong câu cuối cùng, Chúa Giêsu gợi những kẻ xét đoán người khác là: Đạo đức giả Ngài ra lệnh: chúng ta hãy lấy cái xà ra trước, rồi thấy rõ mà lấy cọng rơm cho người anh em ( c.5). Nghĩa là chúng ta phải thực hành điều mình hiểu và điều mình nói, thì mới xây dựng người khác trên con đường nhân đức được.
Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng đong bằng đấu ấy cho anh em” (Mt 7, 1-2), nghĩa là khi chúng ta dùng lăng kính chủ quan của mình để xét cho anh em thế nào, thì chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa thể ấy.
Vậy nên, nếu khi xét đoán, chúng ta cần biết nhìn lại chính mình, nhất là trong lời xét đoán về anh em có thực sự khách quan hay không, có thực sự vì yêu thương anh em và vì sự thật hay không.