2023
Xin cứu chúng con
Thứ Ba trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 19:15-29; Tv 26:2-3,9-10,11-12; Mt 8:23-27
Xin cứu chúng con
Cuộc đời mỗi chúng ta trên hành trình trần gian này được ví như con thuyền trên biển sóng. Biển lúc nào cũng có sóng, lúc nhẹ nhàng êm ả hiền lành, nhưng cũng có lúc sóng dữ làm chao đảo, muốn nhận chìm cả thuyền. Những con sóng ngoài thuyền như sự dữ bên ngoài ta, nhưng nếu chúng ta tin tưởng vào sức mạnh tình thương và quyền năng Chúa thì không có gì đáng sợ. Nếu không tin tưởng vào Chúa, thì con thuyền đời ta dễ dàng bị sóng đánh vỡ.
Nếu chúng ta không bảo vệ con thuyền bằng đức tin, thì có khác gì ta tự đâm thủng thuyền mình cho sự dữ tràn vào, tự mình đánh mất mình trên biển đời dương thế. Lúc ấy, không phải “con thuyền không bến”, nhưng “có bến, mà không còn thuyền nữa để mà về”.
Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài xuống thuyền ra khơi thì gặp lúc biển động dữ dội, làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Thật ra, đây là những gian nan thử thách xảy đến để các ông ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời phải biết đặt niềm trông cậy vào Chúa. Mặc dù hầu hết các Tông đồ là những dân chài có nhiều kinh nghiệm, nhưng khi đứng trước cơn bão lớn, gió mạnh đã làm cho các ông sợ hãi và các ông đã kêu cầu đến Chúa: “Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con, kẻo chúng con chết mất”. Nhờ vào sự trông cậy đó mà các ông được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Đời người được ví như một chuyến hải hành đi về miền Đất Hứa. Nhưng chuyến hải hành này không bao giờ phẳng lặng từ khi khởi hành cho đến lúc kết thúc hành trình trên “đại dương cuộc đời”.
Thiên Chúa có chương trình dành riêng cho con người, theo như cách thế của Người; mà con người không sao hiểu thấu. Người đã cho phép những nghịch cảnh, những bất trắc, những khó khăn hiểm nguy, những biến động của thiên nhiên… thậm chí cả sự chết; được quyền xảy ra trong cuộc sống của con người, để thức tỉnh con người trở về với Đấng là Khởi Nguyên và cũng là Cùng Đích của mọi sự.
Qua đó, con người ý thức được sự yếu đuối, mỏng dòn, và có giới hạn của mình. Đồng thời, cho con người ý thức sự hiện hữu của Thiên Chúa, ý thức về tình thương, và sự quan phòng của Ngài vẫn tồn tại từ muôn đời nay. Rồi từ đó, giúp con người biết đặt niềm trông cậy, vững tin, phó thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa định liệu và an bài.
Hãy tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Chúa. Đừng kém tin hay ngờ vực sự hiện diện của Chúa, mà thất vọng trước những thách đố là đau khổ, bệnh tật hay thất bại trong đời. Hãy nhớ rằng Chúa luôn hiện diện, đồng hành, can thiệp và giải cứu chúng ta khỏi sự dữ trên hành trình vượt biển trần gian về đến bến bờ là Nước Thiên Chúa. Đừng tưởng lầm Chúa không quan tâm. Đừng tưởng là vắng bóng Chúa. Đừng tưởng lầm Người đang ngủ quên. Chúa vẫn luôn ở bên ta. Hãy vững lòng tin, lòng cậy, lòng mến. Điều đáng lo ngại là chúng ta thiếu lòng Tin Cậy Mến Chúa. Và đáng trách nhất là chúng ta bằng lòng cuốn mình theo sự dữ, theo điều bất chính, tự đâm thủng con thuyền mình để cho sự dữ tràn vào và chết chìm trong hành trình vượt biển.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. “Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta cần phải có thái độ như các Tông đồ xưa khi chúng ta gặp phải những gian nan thử thách, đó là: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con”. Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống hằng ngày, để chúng ta ý thức rằng chúng ta luôn cần đến Chúa.
2023
Tuyên xưng niềm tin
1.7 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
St 18:1-15; Lc 1:46-47,48-49,50,53,54-55; Mt 8:5-17
Tuyên xưng niềm tin
Trag Tin Mừng hôm nay thuật lại câu truyện lòng tin của viên bách quản Rôma, một lòng tin đã khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên bách quản này còn mạnh hơn nhiều: Ông tin rằng Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế”.
Đanh khi Chúa Giêsu đến thành Capharnaum, thì một viên sĩ quan ngoại giáo đến van xin Ngài chữa cho đầy tớ ông bị bại liệt đau khổ. Ngài hứa sẽ đến cứu chữa, nhưng ông quá khiêm tốn, không dám rước Chúa về nhà, chỉ xin Chúa phán một lời cho đầy tớ ông lành bệnh. Chúa thấy ông ta có lòng tin và khiêm tốn như thế thì ngạc nhiên và hết lời khen ngợi. Ngài bảo viên sĩ quan: ông cứ về, ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay lúc đó đầy tớ ông được khỏi bệnh.
Lời tuyên xưng của viên bách quản là kết quả hiểu biết đúng đắn về bản thân và quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ðể có sự hiểu biết đúng đắn cần phải có thái độ khiêm nhường và thành thật. Vì con người là một tinh thần kết hợp với thể xác: thể xác bị ràng buộc bởi các điều kiện không gian và thời gian, còn tinh thần chẳng bị một ràng buộc nào; thể xác đang nằm sát đất, nhưng tinh thần có thể vươn tới trời cao; thể xác đang ở hiện tại, nhưng tinh thần có thể lùi lại quá khứ hoặc hướng tới tương lai rất xa.
Óc tưởng tượng đưa con người viễn du khắp nơi, cả những vùng không tưởng. Óc tưởng tượng vẽ ra cho con người muôn vàn hình ảnh, mà nếu không khiêm nhường trong hiểu biết, con người sẽ bám víu mãi vào đó. Khiêm nhường đem tinh thần con người trở về với thân xác hạn hẹp yếu đuối; khiêm nhường chỉ cho con người thấy thực tại của thân phận làm người, đó là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa; tất cả những gì con người có đều là do Thiên Chúa ban. Nhận thức được chân lý này, nên niềm tin của viên bách quản được Chúa Giêsu khen thưởng, và Giáo Hội đã mượn lời tuyên xưng này để hằng ngày trong Thánh Lễ, người tín hữu có thể dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn, bất xứng của mình.
Chúa Giêsu không loại trừ ai. Trái lại ai càng bị loại trừ thì Chúa Giêsu lại càng ưu ái với những người đó và giúp họ trở về với cộng đoàn yêu thương.
Xét mình kỹ, tôi thấy mình có phần giống Chúa nhưng cũng có phần khác Chúa. Giống Chúa ở chỗ tôi có cố gắng yêu thương giúp đỡ những người tội lỗi, bệnh tật, nghèo nàn mà tôi gặp ở bên ngoài cộng đoàn mà tôi đang sống. Nhưng khác Chúa ở chỗ là tôi loại trừ một số anh em đang cùng tôi chung sống trong cộng đoàn. Xin Chúa giúp con sống yêu thương đối với hết mọi người, và xin Chúa nhắc con nhớ “Bác ái phải bắt đầu từ những người gần mình nhất.”
Viên đại đội trưởng này tuy là người ngoại nhưng đã dạy tôi một cách cầu nguyện rất đẹp:
Ông không xin gì cho mình cả mà xin cho người khác. Mà người khác đó chỉ là một tên đầy tớ của ông.
Thường những lời cầu nguyện của tôi chỉ luẩn quẩn quanh những cái tôi của bản thân mình và một ít của người thân mình.
Thực ra ông cũng chẳng xin gì nữa. Ông chỉ kể cho Chúa nghe hoàn cảnh của ông, rồi để tùy Chúa định liệu. Ông lại còn nói mình không xứng đáng. Ngược lại, nhiều khi tôi xin Chúa mà như ra giá cho Ngài.
Ngoài đức tin và lòng khiêm tốn, vị sĩ quan này còn có lòng thương người, bằng chứng là ông không xin gì cho ông mà lại xin cho người đầy tớ của ông được khỏi bệnh. Tin mừng còn cho thấy một bên là hình ảnh của con người đau khổ bệnh tật, một bên là tình yêu cứu chữa của Chúa Giêsu. Sợi dây nối kết con người khốn khổ với Chúa Giêsu chính là lòng tin của con người. Chúa Giêsu đã làm phép lạ chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng là do lòng tin của ông. Lòng tin của người này cần thiết để cho người khác được cứu chữa.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần lòng tin của chúng ta, để cứu chữa những người đau khổ chung quanh chúng ta. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những cử chỉ cụ thể, những sự hiện diện để giúp đỡ ủi an. Lòng tin ấy cũng chính là một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Tin ở tình yêu Thiên Chúa ngay giữa những lúc ốm đau thử thách là thái độ cơ bản nhất của người Kitô hữu. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu ấy vượt mọi suy nghĩ, mọi giới hạn của ngôn ngữ loài người, đó phải là sứ điệp mà người Kitô hữu mang lại cho người khác
2023
Yêu thương và phục vụ
30.6
St 16:1-12,15-16; Tv 7:21-29; Mt 8,5-17
Yêu thương và phục vụ
Mỗi ngày sống của chúng ta, dù có thế nào đi nữa thì cũng chỉ được gói trọn trong 24 giờ đồng hồ. Thế nên, chúng ta phải sống làm sao để một ngày trôi qua thật là ý nghĩa và giá trị. Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay là một mẫu sống tuyệt vời cho chúng ta. Một ngày sống của Chúa tràn đầy tình yêu thương và tinh thần phục vụ. Tình yêu thương phục vụ ấy đã được lan tỏa đến mọi người, không phân biệt lương giáo hay đẳng cấp trong xã hội.
Sau khi chữa người bị phong hủi (8,1-4), Chúa Giêsu vào thành Ca-phác-na-um. Ngay lúc ấy có một viên đại đội trưởng đến gặp Người để xin chữa lành cho một người đầy tớ. Chúa nhận lời sẽ đến nhà ông. Nhưng với một lòng tin vững mạnh, ông chỉ xin Chúa phán một lời thì đầy tớ của ông sẽ lành mạnh (c.5-8). Lòng tin của ông đã được Chúa Giêsu đề cao và ngay giờ đó Chúa đã chữa cho người đầy tớ của ông được khỏi bệnh (c.13).
Hình ảnh và lòng tin sắt đá của viên đại đội trưởng hẳn làm chúng ta phải tự hổ thẹn với chính bản thân mình. Bởi lẽ trong cuộc sống, mỗi khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta rất dễ nghi nan, ái ngại, rồi nản chí, những lúc ấy lòng tin của chúng ta như vẫn còn dang dở, mờ ám, bấp bênh. Vẫn biết rằng, Chúa luôn hiện diện ngay bên để trợ giúp và hướng dẫn chúng ta ngay giữa những thăng trầm của cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nhận ra Ngài đâu chứ? Chúng ta vẫn cứ mải mê với những sự vật trần thế, vẫn bám víu vào những trợ lực mau qua của con người thời đại, mà quên đi Chúa đang đồng hành bên chúng ta.
Đây là cơ hội để chúng ta tự vấn về lòng tin của mình: khi những gian nan thử thách đến với chúng ta, liệu chúng ta có dám vững tin rằng Chúa đang âm thầm ngự trên con thuyền đời mình không? Dù rằng đôi lúc Chúa vẫn im lặng và ngủ say trên con thuyền đời ta. Nhưng đâu phải là Ngài chẳng biết điều gì đang xảy ra cho chúng ta, mà có lẽ là chưa tới giờ của Ngài đó thôi. Vì Ngài vẫn mãi mãi yêu thương và luôn luôn sẵn sàng phục vụ chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có dám buông thả đời mình trong vòng tay yêu thương của Ngài không? Như viên đội trưởng trong bài Tin Mừng, đã dám tin rằng chỉ một lời Ngài phán ra, đủ để cứu mạng sống người đầy tớ của ông.
Về phần Chúa Giêsu, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ đến cho mọi người, không phân biệt dân Do thái hay dân ngoại. Bởi đó tất cả mọi người đều có quyền hưởng ơn cứu độ. Ngài đến để xây dựng một gia đình mới trong tình yêu Thiên Chúa. Một gia đình trong đó mọi người là anh chị em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, cùng sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau cách chân thành quảng đại. Do đó tất cả mọi người đều được mời gọi gia nhập vào gia đình của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng được mời gọi theo gương Ngài, sống yêu thương và sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ mọi người chung quanh, không phân biệt tôn giáo, đẳng cấp. Đó chính là một cuộc sống đầy ý nghĩa và giá trị nhất. Một cuộc sống mà Thiên Chúa luôn ước mong nơi mỗi người chúng ta trong cõi đời đầy thương đau thử thách này.
Phép lạ thứ hai trong đoạn Tin Mừng là việc Chúa chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt, sau đó bà chỗi dậy phục vụ Ngài (c.15). Chính Chúa Giêsu đã đi bước trước để ban ân phúc cho bà, điều đó nói lên tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người, không phân biệt giới tính hay đẳng cấp (vì theo quan niệm Do thái: phụ nữ bị xếp vào loại công dân hạng hai, không có tiếng nói trong cộng đoàn). Hình ảnh bà chỗi dậy phục vụ Ngài đã diễn tả sứ mạng phục vụ của Giáo hội theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Cũng vậy, Giáo hội và mỗi người chúng ta sau khi được Thiên Chúa thanh tẩy và chữa lành nhờ sự Phục sinh của Đức Kitô, đều có sứ mạng phục vụ nhân loại, phục vụ Nước Thiên Chúa.
Như thế, yêu thương và phục vụ chính là sứ mạng quan trọng nhất của Giáo hội và của chúng ta. Thế giới và con người thời đại hôm nay đang rất cần những chứng tá đích thực của một tình yêu chân chính, cần được cảm nghiệm thực sự những nghĩa cử phục vụ tận tình vô vị lợi của những người môn đệ Đức Kitô. Chúng ta phải trở nên những chứng nhân thực sự của Tin Mừng giữa thế giới hôm nay. Chúng ta phải để cho mọi người chất vấn chúng ta về sứ mạng yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng đã phục vụ không biết mỏi mệt và không ngừng phục vụ. Tất cả những ai đến với Ngài đều được chữa lành và được chúc phúc (c.16). Chúng ta thử hồi tâm xét lại lòng mình xem chúng ta đang ở ngưỡng nào trên hành trình yêu thương và phục vụ?
Mỗi bước chân yêu thương phục vụ của chúng ta theo gương Chúa Giêsu trong từng ngày sống sẽ có tác dụng rất lớn cho con người và thời đại hôm nay. Vì ơn cứu độ và hạnh phúc Nước Trời thuộc về tất cả mọi người mà chúng ta có nhiệm vụ rao truyền và sẻ chia. Những hành vi yêu thương và nghĩa cử phục vụ của chúng ta sẽ có sức mạnh lôi kéo nhiều người đến gia nhập Giáo hội để lãnh nhận ơn cứu độ, đặc biệt trong Năm Thánh này.
Nhiều tâm hồn đang khát khao tìm kiếm công lý, yêu thương và an bình giữa một thế giới đầy hận thù, chiến tranh và chia rẽ. Chúng ta có sứ mạng làm chứng tá cho Nước Trời, Vương Quốc của tình yêu, thứ tha và an hòa.
2023
Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
29.6 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
St 17:1,9-10,15-22; Tv 128:1-2,3,4-5; Mt 8:1-4
Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
Hôm nay Giáo Hội mừng trọng thể lễ kính hai vị thánh Tông Đồ của Hội Thánh: Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô. Nhà văn Oscar Wilde nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ và cũng không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Thật vậy, khi nhìn vào tiểu sử của hai vị thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay, chúng ta thấy các Ngài cũng có những lúc yếu đuối, lỗi lầm. Song các Ngài đã biết sửa sai, làm lại cuộc đời.
Khi Nhìn lại quá khứ của Phêrô và Phaolô, chúng ta cảm thấy hơi ngán ngại. Nếu Phêrô chối Chúa Giêsu trong cơn nguy khốn và cô đơn tuyệt đỉnh, thì Phaolô ở trong tình trạng căng thẳng hơn nhiều. Vì quá nhiệt thành với Do Thái giáo, nên Phaolô rất dị ứng với Kitô giáo. Ông muốn tẩy trừ Danh Đức Giêsu Kitô ra khỏi cuộc đời này. Vì thế, ông rất hăng say bắt bớ và giết hại những ai xưng mình là Kitô hữu. Dù vậy, Chúa vẫn thương ông vì biết ông hành động do không hiểu biết và lầm lạc cách vô tình. Chúa nhìn thấu tâm hồn của ông chứ không theo những gì thể hiện bên ngoài. Biến cố Phaolô ngã ngựa trên đường đi Đamas mang nhiều ý nghĩa thâm sâu, nhưng trên hết là biến cố của lòng thương xót Chúa dành cho Phaolô nói riêng và cho con người chúng ta nói chung.
Chúa Giêsu đã mạnh dạn và táo bạo trong việc tuyển chọn môn đồ để kế tục sự nghiệp của mình. Trong Nhóm Mười Hai, có những thành phần bị coi là rốt cùng trong xã hội như làm nghề chài lưới, thu thuế . . . Để rồi có người đã chối Thầy, có người bán Thầy, có người chạy thục mạng khi Thầy gặp nguy hiểm . . . Nhưng với những việc đó cũng không làm cho Chúa Giêsu thất vọng và chán nản, Ngài còn tuyển thêm một đồ đệ vốn là “thù địch” của mình nữa, đó là Phaolô. Việc làm như thế quả là liều mạng.
Thánh Phê-rô, còn gọi là Simon, là một con người ít học, sinh sống bằng nghề chài lưới. Khi được Thầy Giêsu kêu gọi làm môn đệ thì liền lập tức bỏ lại mọi sự mà đi theo Thầy, trong quá trình theo Chúa ông tỏ ra nhiệt thành và năng nổ, bộc trực, luôn nhanh nhẹn trả lời câu hỏi mỗi khi Thầy đưa ra, nhưng bởi vì bộc trực và năng nổ cộng với sự cậy mình: “ta đây” khiến ông hay vướng vào sai lầm; cụ thể ông đã can ngăn Thầy đừng lên Giêrusalem để chịu khổ nạn, chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ.
Trong cuộc thương khó của Thầy, vì sợ bị liên lụy nên ông đã chối Thầy ba lần…Nhưng sau đó ông đã ăn năn than khóc, hối hận vì những việc mình đã làm đối với Thầy, từ đó ông không còn dám cậy mình, để cho cái tôi kiêu hãnh trong mình chi phối hành động nữa, ông đặt trọn niềm tin và vâng lời tuyệt đối nơi Thầy Giê-su Chí Thánh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã đặt ông làm đầu thay Ngài để xây dựng và bảo vệ Hội Thánh thuở sơ khai. Cuối cùng ông đã anh dũng hy sinh mạng sống để bảo vệ niềm tin vào Thầy Giêsu. Ông xin chịu đóng đanh ngược vì nghĩ không xứng đáng được như Thầy. Thánh nhân có câu nói bất hủ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai? Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Ngược lại, Thánh Phao lô là một trí thức, ông trung thành với truyền thống Do-Thái giáo, ông chống đối Chúa Giêsu và ra tay bắt bớ những kẻ theo Ngài. Cụ thể là ông đã ủng hộ việc người Do Thái sát hại thánh Têphanô…Nhưng về sau, chính Thầy Giêsu đã dùng biến cố ngã ngựa khi ông trên đường đi đến Đamas để thu phục ông. Kể từ đó ông đã thay đổi hoàn toàn, ông trở thành tông đồ của dân ngoại, bôn ba khắp nơi rao giảng Tin Mừng nước trời để rồi cuối cùng bị vua Nêrôn giết bằng cách chặt đầu vào khoảng năm 67. Thánh nhân có những câu nói rất hay: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”. (Gl 3, 20). “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35).
Tin Mừng hôm nay thánh sử Mathêu thuật lại việc Thầy Giê-su hỏi các môn đệ của Người xem thiên hạ nói gì về Người? Các ông thưa: “Kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông giê-rê-mi-a hay là một trong các ngôn sứ”. Như vậy, người đồng thời với Chúa Giêsu không một ai có cái nhìn đúng đắn về Ngài cả. Có lẽ đây chỉ là tiền đề cho một câu hỏi khác của Thầy Giê-su. Câu hỏi mang tầm vóc quan trọng và cụ thể hơn dành cho các môn đệ “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô , Con Thiên Chúa hằng sống” Câu trả lời của ông Phê-rô làm Chúa Giêsu hài lòng. Ngài liền khen: “Này anh Simon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Và rồi ngay sau đó Chúa Giêsu đã chính thức trao cho Thánh nhân một trọng trách vĩ đại là làm đầu Hội Thánh với quyền thế: Mở cửa Nước Trời, quyền tha thứ cũng như cầm buộc. “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này. Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
Mầu nhiệm Nước Trời và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ôi tuyệt vời. Chúa đã dùng những con người xem ra bất toàn và yếu đuối, chống đối lại Ngài. Ngài cảm hóa, hướng dẫn để rồi cuối cùng trở nên những trụ cột hết lòng xây dựng Hội Thánh.
Mừng kính hai vị thánh cả hôm nay. Trước hết chúng ta cảm tạ và ngợi ca Thiên Chúa. Vì biết bao hồng ân Chúa đã ban cho hai vị thánh cũng như đã ban cho mỗi người chúng ta. Đấng đã biến đổi hai vị thánh thành rường cột của Giáo Hội. Sau là chúng ta nhìn lên hai vị thánh nhân mà học tập, bắt chước các nhân đức nơi các Ngài để rồi cuộc đời chúng ta luôn biết cậy trông, tín thác vào sự quan phòng và tình yêu vô biên của Thiên Chúa.