2023
Tin là chấp nhận
13.3 Thứ Hai
Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mùa Chay
2 V 5:1-15; Tv 42:2-3; Lc 4:24-30
Tin là chấp nhận
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ tự mãn, ích kỷ của người Do Thái. Người Do Thái trong hội đường Nagiarét đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy.
Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Ðó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách Ðường Hy Vọng đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Ðừng bao giờ mê tín mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật, thiết ái, trung thành.”
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái mất đi Chúa Giêsu – nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không luân chuyển, hệ thần kinh không vận động. Ðời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái “thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ” (thánh Augutstinô).
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su: vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ : Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương, ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
Ðối với người Kitô, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương. Chúa không phải là Ðấng bắt con người phải kính mến. Nói đúng hơn Thiên Chúa là Ðấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Chúa Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
2023
Trở về với Cha
11.3 Thứ Bảy Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mùa Chay
St 7:14-15,18-20; Tv 103:1-2,3-4,9-10,11-12; Lc 15:1-3,11-32
Trở về với Cha
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta sống tinh thần của mùa chay là ăn năn sám hối, trở về cùng Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót, để đáng được Chúa tha thứ.
Câu chuyện của nhân vật Cha và con trong dụ ngôn mà Thánh sử Luca trình bày trong bài Tin mừng diễn tả trung thực hình ảnh mong đợi của người Cha trong bất kỳ thời đại nào hay nền văn hóa nào. Dù người con có ngoan ngoãn ở trong gia đình hay rũ bỏ tình cha con ra đi, thì tình cha vẫn phủ lấp trên mọi lỗi lầm của con. Dụ ngôn cũng mặc khải tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu cho chúng ta thấy bằng hành động. Thiên Chúa là người cha biết thương xót, đi đến với mọi con cái để đem họ về đoàn tụ và để nối kết họ lại với nhau.
Khởi đầu dụ ngôn là những lời chỉ trích của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư khi Đức Giêsu đón tiếp và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, vốn là những người bị loại trừ khỏi xã hội. vì vậy, không ai được giao tiếp với họ. vậy mà Đức Giêsu chẳng những đón tiếp mà con ăn uống với họ nữa. ngài chia sẻ với họ trong bữa ăn đầy tình huynh đệ, giúp họ thoát ra cái mặc cảm tội lỗi của họ. điều này khiến các kinh sư và người Phariseu không hài lòng.
Để lý giải cho hành động của mình, Đức Giêsu kể dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” (Lc 15, 11- 32) để mời gọi những người Phariseu và các kinh sư nói riêng và mỗi người chúng ta nói chung biết mở rộng tâm hồn đón tiếp những người tội lỗi hòa nhập với xã hội khi họ ăn năn sám hối và nhất là biết chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa khi trước sự hoán cải của những người lâu nay xa rời Thiên Chúa để đi vào tương quan thân tình với Người.
Dụ ngôn kể lại : Sau khi người con thứ đòi chia gia tài, người cha đã làm theo ý con của mình. Có lẽ khi hành động như vậy, người cha cũng đã rất đau lòng vì ông thấu hiểu tính tình, tâm tư của từng đứa con mình nhưng ông luôn tôn trọng tự do của chúng nên ông làm theo ý muốn của chúng. Người cha chia gia tài cho con và để con tự định đoạt về khối tài sản đó. Từ khi người con thứ ra đi với phần sản nghiệp của mình, lòng người cha lại đau đáu mong chờ. Ông chờ người con thứ quay trở về với ông, dù nó có ra sao đi chăng nữa ông vẫn mong ngày nó trở về. Niềm vui trào tràn đến với ông khi ông nhìn thấy bóng con từ đàng xa. Ông vội chạy ra đón con, cuống quýt với áo áo, giày giày; với việc giết bê béo ăn mừng… Ông chẳng màng đến hình dạng xơ xác của người con, đến bài “diễn văn” soạn sẵn của con. Ông thể hiện tình thương của một người cha thật ấm áp: “Anh còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Trong nhà có thứ gì đẹp, thứ gì quý giá ông mang hết ra cho con: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Trong lòng ông, niềm vui trào tràn, bùng vỡ biểu lộ một tình thương vô bờ bến, ông chưa bao giờ ghét bỏ dù đứa con trở về với hai bàn tay trắng. Ông chỉ biết một điều rằng: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đã có đôi lần, hành xử của chúng ta cũng giống như người con thứ, ta được bao bọc bởi tình thương của Thiên Chúa, được sống trong tình thương của Chúa nhưng ta luôn muốn thoát ra khỏi sự bảo bọc đó, ra đi đến những nơi ta muốn, được thỏa thích làm theo ý của mình. Khi gặp khó khăn thử thách, ta đến với Chúa với bao toan tính vụ lợi. Lời cầu nguyện của ta chỉ đầy những lời cầu xin cho mình mà quên lời sám hối ăn năn. Thiên Chúa vẫn hằng mong ta quay trở về với Người, dù ta có bội nghĩa vong ân, có phung phí biết bao ân sủng của Người…
Được sống trong nhà cha, ở bên cha sớm tối nhưng người con cả lại chẳng thấy niềm vui. Cuộc sống của anh thật tẻ nhạt. Nếu không có bữa tiệc linh đình đón em trở về, có lẽ chẳng ai thấy được tâm tư trĩu nặng của anh: “Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè”.
Hơn nữa, lòng ghen tỵ của anh xóa đi tương quan huynh đệ, anh nói về người em của mình với giọng đầy khinh bỉ, miệt thị: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng”. Phản ứng của người con cả không làm cho người cha tức giận, trái lại ông dịu dàng giải thích với người con cả những ân sủng mà anh ta không nhận ra khi ở trong nhà cha và niềm vui của mình khi người em của anh quay trở về: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy”. Chúng ta cũng có lúc như người con cả, được làm con Thiên Chúa, được ở trong nhà Chúa, sống với Chúa, luôn giữ các giới răn cách tuyệt đối… nhưng ta lại không cảm nhận được niềm vui sống trong nhà Chúa, không nhận ra được ân sủng của Chúa trên cuộc đời mình. Ta ghen tỵ với những ân sủng và niềm vui của người khác; ta tính toán thiệt hơn, so đo với người khác. Ta quên rằng: tình thương và lòng nhân ái của Chúa luôn phủ lấp trên cuộc đời ta. Ta chỉ thật sự là con của Cha, khi ta yêu thương chính anh em mình.
Dụ ngôn giới thiệu hình ảnh người Cha như một biểu tượng về Thiên Chúa. Thái độ bao dung của người cha trong dụ ngôn cho ta thấy được tình thương của Thiên Chúa không chỉ với người tội lỗi hoán cải mà còn với cả những người không nhận ra tình thương của Chúa, ghen tỵ và thiếu sự cảm thông đối với người khác. Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta chia sẻ niềm vui với người tội lỗi khi họ sám hối và trở về với Chúa như chính Chúa đã vui mừng khi đón tiếp và chia sẻ với họ.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa nhân hậu tìm kiếm người lầm lạc và hân hoan đón nhận họ trở về.
Thiên Chúa thương xót chúng ta, và sẵn sàng tha thứ tất cả chúng ta.
Vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế, chịu chết trên thánh giá để chuộc tội của nhân loại, và dẫn đưa con người về làm hòa cùng Thiên Chúa Cha và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nước Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta nhận ra được Thiên Chúa yêu thương, sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nên trong mùa chay này, chúng ta hãy thống hối ăn năn tội lỗi, để trở về cùng Chúa Cha, để nhận lãnh ơn tha thứ của Ngài.
Chúa Cha đã thương xót và tha tội lỗi của chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn và tha thứ cho nhau.
2023
Giá trị thật trong cuộc đời
10.3 Thứ Sáu
Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mùa Chay
St 37:3-4,12-13,17-28; Tv 105:16-17,18-19,20-21; Mt 21:33-43,45-46
Giá trị thật trong cuộc đời
Ðối với người Israel, vườn nho là một hình ảnh rất quen thuộc. Các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Edêkiel thường dùng hình ảnh này để ám chỉ dân Israel được Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc để trở thành dân riêng của Người. Chúa Giêsu cố ý đưa hình ảnh quen thuộc ấy vào trong phần mở đầu của dụ ngôn trên đây. Cách diễn tả của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho người nghe nhớ đến lời ngôn sứ Isaia nói về sự bất trung của dân Israel.
Cách mở đầu bài giảng như thế khiến cho các thượng tế và kỳ mục phải ở trong tư thế chuẩn bị đối phó, bởi vì họ đang là những nhà lãnh đạo của dân Israel, đang quản lý vườn nho của Thiên Chúa. Và sau phần mở đầu, Chúa Giêsu tấn công ngay vào vị thế đó của họ. Chúa gọi họ là những tá điền, mà lại là những tá điền bất nhân bất nghĩa. Người nói thẳng với họ: “Tôi nói cho các ông hay, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa mà ban cho một dân khác với mục đích làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.”
Thoạt nghe dụ ngôn trên đây, chúng ta có thể nói nó chẳng ăn nhập gì đến mình cả. Chúa Giêsu hiện trước các thượng tế và các kỳ mục Do Thái thời xưa chứ Ngài đâu khiển trách chúng ta. Chúng ta đâu có dính dự gì vào chuyện của họ. Chúng ta đâu có giết các ngôn sứ của Thiên Chúa, chúng ta đâu có xử tử Chúa Giêsu.
Thế nhưng, nếu chịu khó xét cho kỹ thì chúng ta phải giật mình vì chúng ta đã có những phản ứng chẳng khác gì họ, có khác chăng là trong một bối cảnh khác và với hành động như vậy, chúng ta không giết các ngôn sứ, nhưng chúng ta bỏ ngoài tai những lời giảng dạy của các vị, chúng ta không kết án tử Chúa Giêsu, nhưng chúng ta đẩy Người ra ngoài lề cuộc sống chúng ta. Nếu chịu khó xét mình, không khéo chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của các thượng tế và kỳ mục của Israel nơi bản thân chúng ta.
Có những thứ giá trị luôn ở trong cuộc đời chúng ta mà nhiều khi ta không nhận ra, và một cách nào đó ta chỉ đi tìm kiếm những giá trị chóng qua mau tàn, để rồi một lúc nào đó ta đánh rơi những giá trị vĩnh cửu đáng lý phải được trân quý và gìn giữ trong cuộc sống mình. Lời Chúa hôm nay đã cho ta thấy được cái giá trị vĩnh cửu của đời người mà Chúa đã ban cho, nhưng nhiều khi con người cứ lầm tưởng, cứ u mê, để rồi đánh đổi nó cho những giá trị tầm thường, những tính toán thiệt hơn, để rồi ta tự đánh mất lấy chính cuộc đời mình.
Hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn những tá điền sát nhân để lên án các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ là những người có thế giá trong xã hội và tôn giáo Do Thái, là những người thông hiểu luật Thiên Chúa đã ban truyền cho dân. Họ là người có nhiệm vụ giải thích luật và những điều Thiên Chúa dạy để giúp dân giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa và sống theo đường ngay nẻo chính mà Ngài đã truyền ban. Thế nhưng họ lại làm những điều ngược lại, khi ngăn cản tình thương của Thiên Chúa dành cho con người bằng những việc thu vén lợi danh cho riêng bản thân và chất những gánh nặng của các luật lệ cách hà khắc lên đời sống của dân chúng.
Bên cạnh đó, món quà đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái cần được lớn lên và sinh hoa trái trong chính đời sống của họ. Thế nhưng họ cũng đã không làm được điều đó, họ từ chối lời dạy của Thiên Chúa qua các ngôn sứ; họ chống đối, lên án và không chấp nhận đường lối Thiên Chúa đã ban cho họ. Không những thế, khi Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến giữa loài người để rao giảng về Tin Mừng Nước Trời, về chính Thiên Chúa cho dân Do Thái, thì họ vẫn không tin và từ chối lời rao giảng của Ngài, sau hết họ đã đóng đinh Ngài trên thập giá.
Trong thời đại của chúng ta hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang đến với mỗi người chúng ta. Ngài đến nơi thửa vườn đức tin mà Thiên Chúa đã trao tặng để làm cho thửa vườn đó được lớn lên. Ngài cũng đang đến qua những lời dạy dỗ và hướng dẫn của Hội Thánh nhằm giúp chúng ta sống đúng theo đường lối của Thiên Chúa. Ngài cũng đang đến nơi cả những hoàn cảnh cuộc đời ở xung quang mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn làm mọi sự cho thửa vườn đức tin của chúng ta, để cho thửa vườn đó được sinh hoa trái một cách dồi dào trong đời sống hằng ngày.
Thế nhưng Ngài cần chúng ta cộng tác với Ngài trong việc canh tác và làm cho thửa vườn của mỗi người được lớn lên. Mỗi người chúng ta không chỉ được mời gọi để chuyên chăm lắng nghe lời Chúa truyền dạy, mà còn làm cho Lời Chúa được sinh hoa trái qua sự kiên vững trong đức tin của mình, qua đời sống bác ái với tha nhân trong việc quan tâm và chia sẻ với những người bất hạnh khổ đau, trong sự lắng nghe và cảm thông với những người tuyệt vọng, trong một tâm hồn rộng mở để đón tiếp những người đang sống bên lề xã hội.
Đó chính là việc canh tác mà Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta chăm lo cho thửa vườn của đời sống mình. Nhờ đó mỗi người Kitô hữu chúng ta mới có thể mang lại hoa trái cách dồi dào và sẽ có vụ mùa bội thu để dâng lên Thiên Chúa trong ngày Chúa đến thăm cuộc đời mình.
Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta những thời gian, hoàn cảnh, tài năng, trí khôn, tiền của, danh dự, để chúng ta làm vinh dự nước trời. Liệu chúng ta có dùng cho xứng không. Vườn nho có hoa trái không hay chúng ta đã để vườn hoang, sinh gai góc, sinh quả chua, nghĩa là chúng ta gầy dựng tình thương yêu đoàn kết, niềm vui bình an, thì chúng ta đã gây chia ly oán hờn, ganh tỵ đổ vỡ: đó là nho chua.
Xin nhớ một điều này là dù chúng ta có làm gì đi nữa chương trình của Thiên Chúa vẫn thành trụ, chứ chúng ta không thể làm hỏng chương trình của Ngài đâu. Người hư hỏng là chúng ta mà thôi. Hãy xem trường hợp Adong và Eva từ chối Chúa, Chúa lại ban Đấng cứu thế. Lụt đại hồng thủy xong là có giao ước Noe. Tháp Babel đổ rồi có Abraham là cha của một dân tộc đông đúc, Ai cập cứng lòng: chìm dưới biển Đỏ để có được đất hứa. Có núi Sọ, có ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Tất cả sẽ được ơn thánh hóa xóa bỏ. “Hòn đá bị vứt đi trở thành đá góc tường”. Chúng ta đừng giơ chân đạp mũi nhọn nữa.
2023
Vô cảm
9.3 Thứ Năm
Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mùa Chay
Gr 17:5-10; Tv 1:1-2,3,4,6; Lc 16:19-31
Vô cảm
Chúa Giêsu đã dùng một câu chuyện dài để minh họa mối tương quan đảo ngược giữa cuộc sống đời này với cuộc sống đời sau, nhằm mục đích kêu gọi người Do Thái sống theo lời của tổ phụ và các ngôn sứ được ghi lại trong sách Thánh để được hưởng hạnh phúc mai sau. Khi nghe phần đầu của câu chuyện về ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó trên đây, chắc chắn người Do Thái sẽ nhớ đến lời Chúa Giêsu dạy trong bài giảng về các Mối Phúc Thật, cụ thể là những mối phúc dành cho kẻ nghèo khó, đói khát và khóc lóc.
Từ hình ảnh của ông nhà giàu trong âm phủ và anh Lazarô trong lòng tổ phụ Abraham, Chúa Giêsu đưa các thính giả trở về với cuộc sống thực tại ấy. Mượn lời ông Abraham, Chúa Giêsu trách cứ lối sống ương ngạnh của của họ, vì họ không chịu tin vào giáo huấn của ông Môsê và các tiên tri. Họ cứng đầu như thế, thì cho dù người chết sống lại thuyết phục họ, họ cũng sẽ bỏ ngoài tai.
Hạnh phúc đời sau thì ai cũng muốn được hưởng, nhưng gian khổ đời này thì chẳng ai muốn trải qua. Bởi thế, chúng ta thường tìm giải pháp có lợi cho chúng ta hơn hết, chúng ta tìm cách sống như thế nào để được cả đôi đàng, chúng ta trở thành người quá khôn ngoan và cũng quá tham lam, muốn được hưởng hạnh phúc tạm bợ đời này lẫn hạnh phúc đời sau.
Lối sống bắt cá hai tay như thế dần dần dẫn chúng ta tới chỗ nhượng bộ hoặc thỏa hiệp với các nhu cầu vật chất của mình, mà coi nhẹ các nhu cầu tâm tình sâu thẳm, đáng ra phải được đáp ứng trước tiên. Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta vì thế mà nghèo nàn đi khi đời sống vật chất của chúng ta có thể dư dật ra. Các giá trị Tin Mừng dần dà bị chúng ta coi nhẹ trong khi những giá trị trần tục lại được chúng ta càng lúc càng tôn vinh. Cán cân các giá trị cứ thế mà lệch dần đi. Chúng ta trở nên như người giàu có trong dụ ngôn trên đây, chúng ta yên tâm với những gì mình tích góp được, những gì mình sở hữu trong tay.
Mãi lo lắng cho mình, lòng chúng ta đông đặc lại, chúng ta không còn quan tâm đến người chung quanh, chúng ta tự thỏa mãn với thế giới khép kín của mình. Thế rồi, có những lúc nào đó, khi lâm bịnh tật, khi gặp tai ương, chúng ta hốt hoảng nhận ra rằng cuộc đời trần thế chỉ là phù vân, chúng ta hối hận ăn năn, chúng ta hứa với Chúa là nếu Chúa giúp chúng ta ra khỏi nguy nan, chúng ta sẽ làm lại tất cả. Thế nhưng ai trong chúng ta đã giữ trọn lời hứa với Chúa? Hết tai ương hoạn nạn, chúng ta có thể quay về với nếp sống cũ. Qua cơn khốn đốn, chúng ta lại chễm chệ leo lên chiếc ghế trang trọng của mình.
Câu chuyện Tin mừng đã đạt tới tuyệt đỉnh, nó trình bày cho ta thay một cảnh bi thảm sống động về những kẻ giàu có ích kỷ bị chúc dữ ghê sợ, những kẻ giàu sang này ăn chơi thỏa thích, dưới những lời van xin thảm thiết của những kẻ bần cùng đói khổ than khóc. Đây là bản văn nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ giàu và an ủi người nghèo khổ.
La-gia-rô có nghĩa là người nghèo khổ được Thiên Chúa cứu giúp. Anh là một trong nhũng kẻ nghèo khổ biết nhẫn nại chịu đựng cảnh khốn cùng và đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. HoÏ chỉ có thể kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống tối tăm của họ nhờ họ cậy trông vào Thiên Chúa. La-gia-rô là một trong số họ được lời hứa của Thiên Chúa an ủi như lời Thánh vịnh và các ngôn sứ nói, là một trong những người được Tám Mối Phúc Thật chúc mừng.
Người phú hộ sống không màng chi đến Thiên Chúa. Ông có tất cả rồi, còn cần chi đến Thiên Chúa ? Ông không thấy Thiên Chúa, ông không thấy kẻ khốn khổ. Ông hoàn toàn giàu có và sống dư đầy, ông không chống lại Thiên Chúa, ông không đàn áp kẻ nghèo. Ông chỉ mù thôi, mù đối với Thiên Chúa và những người nghèo khổ, mù đối với Mô-sê và những ngôn sứ.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: giàu không phải là tội, nhưng nó chỉ là cạm bẫy nguy hiểm dễ dẫn đến tội nếu không có lòng bác ái. Ông nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay đã rơi vào tình trạng tội khi ông vô cảm với người nghèo ngay ở cổng nhà ông. Vì thế, ông đáng phải sa hỏa ngục vì tiền bạc và sự sung túc đã làm cho mắt ông mù lòa, trái tim se thắt, tấm lòng chai cứng và sự dửng dưng đã trở thành tội ác và mất hạnh phúc đời đời….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có trách nhiệm liên đới với nhau, nhất là với người nghèo, người cô thế, cô thân, không nơi nương tựa…. Không bao giờ chúng ta được để cho chủ trương: “Sống chết mặc bay” thường trực trong tâm hồn của mình.
Mùa Chay, mùa trở về với Chúa và cũng là mùa trở về với anh em. Nhận ra mỗi người, nhất là người cùng khổ như người anh em con cùng một cha, đó là lời mời gọi mà Cha trên trời luôn ngỏ với chúng ta, và đó cũng là thông hành để chúng ta về gặp gỡ Cha trên trời.