2023
Cuộc gặp gỡ lạ lùng
7.7Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 23:1-4,19; Tv 106:1-2,3-4,4-5; Mt 9:9-13
Cuộc gặp gỡ lạ lùng
Chính thánh Mátthêu, là người thu thuế, đã thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi ông làm môn đệ Ngài. Tuy là người tội lỗi, khi được Chúa kêu gọi ông đã đi theo Ngài không chút do dự. Việc gọi Mátthêu và việc Chúa Giêsu ăn uống đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, cho thấy Ngài tỏ lòng ưu ái đối với họ. Những người Biệt phái thắc mắc và chỉ trích Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã trả lời bằng cách nêu rõ sứ mệnh của Ngài là sứ mệnh của một Lương y, một vị Mục tử nhân hiền, luôn yêu thương săn sóc những con chiên đau ốm và bị thương.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giê su gọi Thánh Mátthêu, một người thu thuế, bị người đời khinh ghét, nhưng lại được Chúa Giêsu chọn làm tông đồ. Thanh danh những người thu thuế đang bị “khinh khi”, vì họ cộng tác với người La mã, và làm giàu trên xương máu của dân nghèo. Hạng người này thông thường khá giàu có…
Giờ đây, Chúa Giêsu lại kêu gọi một người trong bọn họ, mà ai cũng nghi ngại, để bổ sung cho nhóm dân chài bên bờ hồ đã được kêu gọi. Người đang thành lập một nhóm khá ‘li kỳ’. Dầu sao, thì truyền thống vẫn cho Mát-thêu là tác giả Tin Mừng thứ nhất. Khi Chúa Giêsu bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. Hình như ngay tức khắc, không chút trì hoãn, ông đã từ bỏ tất cả. Thật là quá mạo hiểm đối với một người giàu có! Nhưng muốn theo Chúa Giêsu, người ta phải ‘mạo hiểm thế đó’. Chẳng bao giờ có gì là “đảm bảo an toàn” 100% đâu! Bao giờ cũng phải có phần ‘liều lĩnh’ đấy! “Các bạn trẻ muốn đi theo ‘ơn gọi’ phải nhớ điều này nhé!”
Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã làm một chuyện có vẻ rất nguy hiểm, đó là Ngài dám thu nhận một người thu thuế tên là Matthêu làm môn đệ. Điều này có thể kích động lòng giận dữ của dân chúng cũng như giới lãnh đạo tôn giáo Do thái. Vẫn biết đó là điều nguy hiểm, nhưng Chúa vẫn làm. Với tấm lòng rộng mở, đầy tràn tình thương và sự chân thành, Chúa đã khơi gợi nơi Matthêu niềm khao khát hướng thiện, chứ không để ông ngụp lặn mãi trong tiền tài vật chất vốn đã bị pha trộn với gian dối, tội lỗi và sự nhơ nhuốc.
Sau đó, để minh chứng niềm vui vì ‘được Chúa gọi’, Mát-thêu còn mở tiệc ăn mừng, và cũng để chia tay với các bạn đồng nghiệp. Thật là một ‘ơn huệ’ ‘nhưng không’! Đúng vậy, tất cả các ‘ơn gọi tông đồ’ đều là ơn ban ‘nhưng không’. Vì chẳng có ai có công trạng hoặc xứng đáng được tham dự vào công việc của Nước Trời! Và chẳng có ai làm được việc gì cho Nước Trời, nếu không có bàn tay Chúa trợ giúp! Vì thế, tất cả chúng ta, dù làm công tác gì trong cộng đoàn phục vụ Giáo xứ, hay trong Giáo Hội, thì cũng phải luôn luôn nhớ mình chỉ là “đầy tớ vô dụng” mà thôi!
Chúa Giêsu còn nói “Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi “người tội lỗi”. Ở đây ta lại khám phá ra một điều ‘lý thú’ nữa: Ai được Chúa ‘kêu gọi’ làm ‘việc gì’, còn phải nhớ ‘điều quan trọng’ nữa: Mình chính ‘là kẻ tội lỗi’, nên được ‘Chúa kêu gọi’! Vậy mà nhiều khi người ta lại nghĩ ngược lại: cứ tưởng mình là người thánh thiện, nên Chúa gọi, thậm chí cả các Đấng các Bậc cũng nghĩ thế. ‘Kiêu ngạo’ đến thế thì thôi!
Tin Mừng cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới”. Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế”, Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
2023
Sống Niềm Tin
6.7 Thứ Năm trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 22:1-19; Tv 115:1-2,3-4,5-6,8-9; Mt 9:1-8
Sống Niềm Tin
Chứng bệnh bại liệt tuy không ghê sợ như bệnh phong hủi, nhưng nó cũng là đáng sợ, khi làm cho người bệnh tê liệt, không còn khả năng tự mình hoạt động như mình muốn. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta một bài học thật cảm kích: tấm lòng nhân ái của những người khiêng bệnh nhân đến với Chúa Giê-su, tình thương của họ đã bù đắp những khiếm khuyết nơi người bại liệt và nhờ đó anh ta đã đến được với Chúa Giê-su và được chữa lành.
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mát-thêu tường trình lại sự việc Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh bại liệt. Phép lạ được Chúa thực hiện qua lòng tin mạnh mẽ của người bệnh cũng như những kẻ đã khiêng bệnh nhân này đến với Chúa. Nhưng ngoài việc chữa lành bệnh tật nơi thân xác. Chúa Giêsu còn hướng lòng trí mọi người lên tầm cao hơn. Đó là Người còn có quyền phép chữa bệnh tật tâm hồn và quyền năng tha thứ những tội lỗi trên mọi con người.
Cách đối xử của Chúa Giêsu với những người tội lỗi làm cho các Kinh sư tức tối. Khi người ta mang đến cho Chúa Giêsu một người què bởi lòng tin của bạn bè, Chúa Giêsu đã làm một điều thật ấn tượng. Trước hết, Người tha thứ tội lỗi cho anh ta. Các kinh sư coi điều này như là sự phạm thượng, bởi vì họ biết rằng chỉ duy có mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ tội lỗi, và cất đi gánh nặng tội lỗi của họ. Chúa Giêsu xác nhận uy quyền mà chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới có thể ban. Chúa Giêsu không chỉ chứng thật uy quyền của Người đến từ Thiên Chúa, Người còn bày tỏ quyền lực cao cả của tình yêu và lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa bằng cách chữa lành cho anh què khỏi đau khổ về phần xác. Người này không chỉ què về phần thể lý, nhưng phần thiêng liêng cũng vậy. Chúa Giêsu giải thoát cho anh khỏi gánh nặng của tội lỗi, và phục hồi sức khỏe cho thân xác anh.
Ngày nay, bại liệt hầu như không còn là một chứng bệnh hiểm nghèo: người ta được tiêm chủng phòng ngừa ngay khi còn là trẻ sơ sinh. Thế nhưng, chứng bại liệt tinh thần vẫn còn là một căn bệnh đáng sợ, khi mà con người ngày nay dễ dàng mất đi khả năng phân định tốt xấu, không đủ sức mạnh để chọn lựa, bênh vực cho chân lý và sự thật, kéo theo biết bao vấn đề xã hội: bất công, tham nhũng, hối lộ, nạo phá thai, ăn chơi truỵ lạc… Bao kế hoạch hành động chỉ là “phong trào” nếu không trị tận căn chứng bại liệt tinh thần này.
Điểm mấu chốt cho sự việc phép lạ được Chúa thực hiên, trước tiên đòi hỏi người ta phải có lòng tin nơi Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu làm các phép lạ dựa vào niềm tin của người đến xin Ngài. Do đó, Chúa thường nói trước khi Ngài thực hiện phép lạ là: “lòng tin của anh đã cứu anh”. Hôm nay cũng thế: “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: Này con, cứ\yên tâm, con đã được tha tội rồi…”
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để có ý phô trương hay làm lóa mắt người ta, càng không phải để mời mọc những kẻ tin vào Người hy vọng mình có được một cuộc sống chan hòa những cảnh tuyệt vời, lạ lùng, và phi thường.
Sinh thời, các phép lạ Chúa làm đều đáp ứng những mục tiêu rõ rệt. Các phép lạ ấy có mục đích chỉ cho ta thấy Chúa Giêsu đúng là Con Thiên Chúa. Các phép lạ ấy cũng tỏ cho thấy Chúa Cha đã ban cho Người cũng như cho những kẻ kế vị Người những quyền năng thiêng liêng. Nhất là các phép lạ được thực hiện cốt để người ta tin vào lời của Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Trích đoạn Tin Mừng hôm nay nói lên ý nghĩa này rõ rệt. Dân chúng ngạc nhiên trước tiên không phải vì người bại liệt được chữa khỏi, nhưng vì phép lạ ấy chứng tỏ việc “Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền tha tội”. Phép lạ như con dấu chứng thực cho sự việc này.
Như vậy, nếu chúng ta muốn được Chúa Cứu chuộc và tha thứ những tội lỗi trước hết chúng ta phải đặt niềm tin trọn vẹn và tuyệt đối nơi Thiên Chúa, bởi chỉ có Ngài mới có quyền tha thứ và chữa lành bệnh tật hồn xác cho chúng ta mà thôi!
Thực ra trước mắt chúng ta, hàng ngày vẫn xảy ra bao điều kỳ diệu mà chúng ta có thể coi như phép lạ. Đó là những trật tự lạ lùng trong vũ trụ; Gió mưa, sấm sét… hay như ngay trong thân thể của chúng ta đang diễn ra bao điều lạ lùng mà chúng ta không không thể hiểu thấu được. Từ việc tuần hoàn của máu và sự hấp thụ tiêu hóa… Tất cả những việc đó xảy ra đều do sự an bài, quan phòng, điều khiển của Thiên Chúa!
2023
Ơn giải thoát
5.7 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 21:5,8-20; Tv 34:7-8,10-11,12-13; Mt 8:28-34
Ơn giải thoát
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại là Ghêrasa. Sức mạnh của quỷ dữ thật lớn, nhưng Chúa Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỷ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người: dân chúng chạy ra xem và yêu cầu Ngài rời khỏi xứ sở họ, một phần vì sợ uy quyền Chúa đã trừ ma quỷ dữ tợn, phần khác cũng vì sợ bị thiệt hại vật chất.
Phép lạ vừa được kể lại cho chúng ta có thể bị chúng ta coi như hơi kỳ quặc. Lúc ấy Chúa Giêsu muốn giải thoát cho hai người bị quỷ ám. Hai người này đã khuấy động đời sống dân làng vì không ai dám lại gần họ và qua lại lối ấy. Thật là ý tưởng ngộ nghĩnh khi cho bọn quỷ nhập vào bầy heo và khiến chúng lao xuống biển! Chẳng lẽ Chúa Giêsu không có thể làm cách khác sao? Tại sao Chúa đã không đơn giản ra lệnh cho các thần ô uế buộc chúng phải cút đi ngay? Khi cho quỷ nhập vào bầy heo. Người đã làm cho dân chúng nơi đó phải sợ hãi. Những người chủ bầy heo hẳn đã phát điên lên khi nhìn đoàn vật chết chìm dưới biển. Kết cục là họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót với những người đã bị đạo binh của thần ô uế chiếm hữu. Sức mạnh phá hủy của những thần dữ này là bằng chứng cho tất cả mọi người có thể nhìn thấy khi chúng chạy trốn và tiêu diệt đàn heo. Sau khi Chúa Giêsu chữa lành người bị quỷ ám, cả thành phố ra gặp gỡ Người. Không ai giải thích được uy quyền của Chúa Giêsu khi Người chống lại lực lượng của Satan. Kết quả, họ đâm ra sợ hãi Chúa Giêsu, và xin Người rời khỏi họ. Tại sao họ không muốn Chúa Giêsu ở lại? Có lẽ cái giá cho sự tự do thoát khỏi sức mạnh của ma quỷ như thế nhiều hơn những gì họ muốn trả.
Chúa Giêsu đã đến với con người. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người, hai cách thức Chúa đến với họ.
Mẫu người thứ nhất có thể thấy được nơi hai người bị quỉ ám. Họ là những con người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỉ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỉ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xẩy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Thái độ dân miền Ghêrasa cho ta thấy thêm được rằng không phải Chúa Giêsu lúc nào cũng đáng yêu và được người ta thích đến gần đâu. Có nhiều lúc người ta thấy Chúa đáng sợ và người ta không muốn Chúa đến gần mình. Nhất là khi Chúa đòi người ta phải từ bỏ, khi Ngài muốn trục xuất một tên quỷ dữ thường trú bấy lâu nay ra khỏi người ta. Tôi tự hỏi: hiện giờ đối với tôi Chúa đáng yêu hay đáng sợ ? Tôi muốn Chúa đến với tôi hay tôi xin Ngài tránh xa tôi ?
Mẫu người thứ hai là dân cư miền Gađara. Những người này có đời sống vật chất đầy đủ và tiện nghi, nhưng dường như không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa đến với họ qua dấu lạ chữa lành hai người bị quỉ ám mà từ lâu họ đã chối từ, và sự kiện đàn heo bị quỉ nhập lao xuống biển chết chìm. Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ để kéo chú ý của người dân trong thành về việc Chúa đến, nhưng họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Bởi vì, như Tin Mừng kể lại, sau khi gặp Ngài, họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế vì sợ phải gánh chịu những thiệt hại vật chất do sự hiện diện của con người lạ lùng này. Những lợi lộc hay những thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa.
Theo thần học và giáo huấn của Hội thánh thì quỷ Satan là một thiên thần Thiên Chúa tạo dựng. Lúc đầu, Satan là một thiên thần tốt lành, nhưng sau đó nó sa ngã vì tính kiêu ngạo, bất tuân phục đối với Chúa và đã bị Thiên Chúa tống xuống hỏa ngục. Quỷ Satan tìm mọi cách để quyến rũ con người xa lìa và chống lại Thiên Chúa, nhưng chính nó đã lôi kéo nguyên tổ chúng ta là ông Adong và bà Evà. Những quyền năng của quỷ Satan không phải là vô hạn, vì nó cũng chỉ là một loài thụ tạo từ Thiên Chúa mà ra, nó không thể chiến thắng Thiên Chúa để làm chủ thế gian và ngăn chặn việc xây dựng Nước trời. Mặc dù Satan hoành hành, thù nghịch với Thiên Chúa, và mặc dù nó đã gây ra nhiều tai hại cho con người và xã hội, nhưng nó đã bị đánh bại ngay từ thuở ban đầu như đã được mạc khải trong sách Sáng thế hay trong thư thứ nhất của thánh Gioan. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá huỷ công việc của ma quỷ.
Dù cho quyền năng của Thiên Chúa có hoàn toàn chiến thắng thế lực của ma quỷ, thì Ngài cũng đành bó tay trước sự tự do của con người. Cả dân chúng miền Ghêrasa đến đón Chúa Giêsu, nhưng không phải để đón tiếp mà để xin Ngài đi nơi khác. Con người nhẫn tâm chối từ Thiên Chúa, vì con người còn quyến luyến của cải, còn tiếc rẻ miếng mồi ngon của quỷ dữ. Họ sợ phải hy sinh, Chúa Giêsu còn ở đàng xa mà họ đã mất đàn heo, thì một khi Ngài ở gần họ, có lẽ họ sẽ phải mất tất cả.
Ngày xưa quỷ trong bài Tin Mừng đã đẩy hai người vào sống trong ngôi mộ của người chết. Ngày nay quỷ ở với những người sống trong nền văn hóa sự chết như phá thai, nghiện tình dục, rượu bia, bạo lực… Ngày xưa quỷ xúi dục dân chúng mời Chúa rời khỏi vùng đất mình vì mất đàn heo. Ngày nay quỷ hoành hành trong tâm hồn người chuộng tiền bạc, sổ đỏ, tài khoản ngân hàng hơn tình nghĩa cha mẹ, anh em, bạn bè, nhất là việc thờ phượng Thiên Chúa, thậm chí dần dần loại Ngài ra khỏi đời sống.
2023
ĐỪNG CỨNG LÒNG NỮA – NHƯNG HÃY TIN
ĐỪNG CỨNG LÒNG NỮA – NHƯNG HÃY TIN
Sau cuộc thương khó của Chúa Giêsu, các tông đồ buồn sầu, riêng ông Tôma thất vọng tê tái, ông tách mình ra khỏi nhóm anh em tông đồ, gặm nhấm nỗi buồn một mình đơn lẻ. Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, không có ông Tôma ở đó. Các môn đệ thuật lại : “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Ông đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Câu nói của ông Tôma làm cho các anh em khác bất ngờ vì sự cứng lòng của ông. Nhưng câu nói ấy lại giúp chúng ta có thể nảy sinh xác tín ở một góc nhìn khác. Đối với các môn đệ, từ trước cho đến bây giờ, việc nhận ra Chúa là được thấy Ngài.
Nhưng, từ nay việc nhận diện ra Chúa Giêsu không còn là thấy ngài nữa, mà nhận ra Ngài nhờ chạm vào các vết thương của Ngài. Khi chạm vào các vết thương đó, chắc chắn chúng ta cảm nghiệm được Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào. Từ đây, dấu hiệu hùng hồn nhất mà nhân loại nói về căn cước của Chúa Giêsu, đó chính là các vết thương mà Chúa Giêsu đã chịu từ cuộc thương khó của Ngài vì yêu thương nhân loại.
Thường khi nói tới ông Tôma, mọi người nghĩ ngay tới người môn đệ cứng lòng tin. Sở dĩ, người ta nghĩ như vậy, là vì vị Tông Đồ này đã nhất quyết không chịu tin Thầy mình là Đức Giêsu sống lại và hiện ra với nhóm Mười Hai, cho dù tất cả Tông Đồ đoàn đều khẳng định như thế. Lý do mà vị Tông Đồ này đưa ra là: “Vì tôi chưa thấy nên tôi chưa tin”.
Tôma không phải là người trung lập. Ông có một lập trường rất rõ rệt. Ông sống quyết liệt, không sống nửa vời. Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.
Đó là thái độ mà tôi tưởng Chúa cũng thích. Chính vì thế mà không những Chúa không khiển trách Tôma mà còn xem như bằng lòng với ông khi hiện ra với ông trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa không thích thái độ dở dở ương ương, thái độ nửa vời vì nó là một thái độ rất khó chịu và rất nguy hiểm.
Chúng ta có thể thông cảm cho Tôma, vì vào thời bấy giờ, những khái niệm như: Kẻ chết sống lại, Phục Sinh… là một điều quá xa lạ đối với người đương thời. Chúng ta đừng đòi hỏi Tôma phải có một đức tin chắc chắn về việc thân xác sống lại như chúng ta ngày hôm nay. Chính các Tông Đồ cũng chỉ có thể hiểu được màu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại và Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Điểm tiếp theo, nếu chúng ta chỉ gán Tôma với danh hiệu “Vị Tông Đồ cứng tin” thì e rằng hơi oan uổng cho ngài. Chúng ta biết rằng, chính vì việc không tin của Tôma mà Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết một điều quan trọng, một mối phúc mới, đó là: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Hơn thế nữa, chúng ta nhận thấy ở đây có sự tiến triển vượt bậc về cách nhận biết Đức Giêsu của ông Tôma. Từ chỗ không tin Đức Giêsu đã sống lại thật, ông đã đi đến chỗ tin nhận Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa” – một cách hiểu hoàn toàn mới mẻ đối với ngay cả các Tông Đồ. Đến như Phêrô cũng chỉ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, trong khi Tôma lại tuyên xưng Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa”.
Niềm tin cần phải được kiểm chứng, đó cũng là thái độ của con người ngày hôm nay. Có lẽ do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, nên người ta đòi mọi sự đều phải được kiểm chứng, phải được cân đong đo đếm. Thế nhưng, họ không biết được rằng, trong cuộc sống, không phải bất cứ thứ gì cũng có thể chứng minh một cách rạch ròi, đó là chưa kể đến những lãnh vực nhạy cảm như: tình cảm, tình yêu, sự hy sinh, lòng vị tha, sự quảng đại…
Niềm tin vào Chúa phục Sinh đã giúp ông biến đổi cuộc đời. Từ việc ông đòi hỏi phải được nhìn thấy bằng mắt, phải sờ được bằng đôi tay, thì giờ đây, bằng đôi mắt của đức tin và sự cảm nghiệm thiêng liêng, ông đã trở nên một Tông Đồ nhiệt thành cho Chúa. Tương truyền rằng, ngài đã đi sang tận miền Ấn Độ xa xôi để truyền giảng Tin Mừng ơn cứu độ và chịu tử đạo ở đó.
Khi chiêm ngắm đời sống và gương sáng của thánh nhân, chúng ta có dịp nhìn lại đức tin của chúng ta. Kể từ khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được gọi là người Kitô hữu (người có Chúa Kitô), hay người tín hữu (người tin vào Chúa Kitô), đáng lý ra, chúng ta là những người được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu như lời Ngài nói trong Bài Tin Mừng hôm nay: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Thế nhưng thử hỏi, chúng ta đã và đang thực hành niềm tin đó ra sao?
Chúng ta hạnh phúc hơn Tôma, bởi vì mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta không chỉ được đụng, được chạm, mà còn được đón Chúa ngự vào trong tâm hồn chúng ta, nhưng, mấy người cảm nghiệm được sự hiện diện đích thực của Chúa?
Con người của Tôma là thế. Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Nhưng một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi. Ông là người muốn biết rõ và sau khi đã biết, ông đã sống chết với gì gì ông biết.
Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta những lúc đức tin mờ tối, những lúc ấy chúng ta muốn được chạm vào Chúa, chúng ta muốn Chúa hiện diện tỏ tường. Ước gì chúng ta cũng xứng đáng được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu nói với ông Tôma hôm nay : “Phúc cho những ai không thấy mà tin !” Ước gì mỗi ngày sống, khi vác thánh giá đời mình, chúng ta cũng nên một với Chúa. Ước gì mỗi lần đức tin lung lay cũng là mỗi lần chúng ta tuyên xưng “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.